IV
- Giải mã "mật ngữ" trong thi kệ Ngôn Hoài của Không Lộ
thiền sư :
.
Đoạn thứ hai, "thuật ngữ của người xưa"
Thi kệ Ngôn Hoài là một bản văn "Dàn
bài"
Có ba thông tin sau giúp chúng tôi tin rằng
đây là một bản văn " dàn bài"
Một là , Câu chuyện đối đáp trong Lĩnh
Nam Chích Quái. Có giảng là có ghi chép. Ghi chép như
thế nào là tùy thời điểm, tùy hoàn cảnh, tùy sự
thông minh và quyền biến của người trong cuộc. Nhất
định phải có cuộc thao giảng, buổi hoằng pháp của
Ngài Không Lộ thiền sư đối với người Thị giả,
như câu chuyện trong Lĩnh Nam Chích Quái tường thuật
,
Hai là, định luật về ngôn ngữ, LUẬT DARMESTETER
về Ngôn ngữ Sinh hóa có phát biểu rằng sự biến
đổi ngữ nghĩa ngôn từ do "Tùy ngữ cảnh, tùy vị
trí từ trong câu, tùy tác giả "
Ba là , với những gì mà Arthur F.Wright tổng
kết trong bài "Bước đầu dịch kinh Phật của người
Trung Quốc " thì tiền nhân ta cũng đã quyền biến một
cách tương tự .
Sau đó Tiền nhân ta dùng thứ chữ Hán
đơn giản nhất, thông dụng nhất để ghi lại bài hoằng
pháp của mình. Với người ít chữ nghĩa ngày ấy
thì, họ có thể đọc được các từ này bởi nó
là từ cơ bản. Họ sẽ hiểu dễ dàng nhờ sự liên
tưởng,thông qua tinh thần Việt ngữ xuất hiện ra sau các
từ VIỆT HÁN được thể hiện trên bản văn viết.
Chữ viết thực chất cũng chỉ là " tín hiệu " quy
ước giữa các người đối thoại .
Ta thử hình dung câu chuyện sau đây, Có một
người cha đi săn về hỏi đứa con trai chạy chơi trong
vườn nhà -này con ,con đã cho bao nhiêu con heo xuất chuồng
chạy đi kiếm ăn ngày hôm nay ?.Thằng bé còn để chỏm
chạy lại đếm số vạch than "ll ll ll ll ll" đã ghi trên
vách. Nó nói ,thưa cha có mười con. Nếu câu chuyện
xảy ra bên Tàu thì, Người Tàu thì viết 十 ,
Xảy ra tại vùng Địa Trung Hải thì, Người La Mã viết
XI , Xảy ra hôm nay thì, con chúng ta viết 10 , hoặc là trẻ
viết chữ "mười ". Với năm cách ghi lại như trên thì,
trẻ đã trả lời được cho cha chúng mà khỏi cần nhớ
chi cho mệt cái đầu . Suy cho cùng, tất cả cũng chỉ
là quy ước với người ghi. Sự khác nhau là dài dòng
hay ngắn gọn. Việc viết lại bài hoằng pháp bằng thứ
chữ từ VIỆT HÁN của ông bà ta trong bài Ngôn Hoài
cũng
thế mà thôi, một thứ mật ngữ, một thứ Mã ngữ
mà nay ta tưởng nó là ngôn ngữ thi ca .
Nay xin quay trở lại bản văn Ngôn Hoài
F1
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
==> F2 **
Trạch đắc long, xà , địa, khả cư
Dãtình, chungnhật, lạc vô dư
Hữu, thì trực thướng cô phong đỉnh
Trườngkhiếu, nhất thanh, hànTháihư.
Kết hợp với những thực tế những gì
thực tế xảy ra tại đất nước Trung Hoa mà bạn đã
đọc qua bài viết của Arthur F Wright, bài "Bước đầu
dịch kinh Phật của người Trung Quốc " .cộng với thông
tin mà chúng tôi vừa viết , chúng tôi tin rằng bản văn
trên là Một "DÀN BÀI" đầy các Mã ngữ ,thuật ngữ
Phật triết của tiền nhân. Các " tổ hợp từ ", từ
được tô đậm trong bài .nó như những con cờ trên bàn
cờ tướng khai cuộc, nó buộc phải gắn chặt vào một
vị trí nhất định trước khi chơi, mọi sự xáo trộn
đều bị cấm tuyệt đối. Ngàn lần giảng như một,
sự mạch lạc khi giảng vẫn không hề thay đổi. Vì sao
có sự nhất quán như thế?. Chính là nhờ chúng ta
cùng xem nó là "một dàn bài "mà người xưa đã dấu
chúng ta một cách quá kín kẻ. Khó khăn gì, lười biếng
mà chi!, người cư sĩ Phật giáo ngày ấy cho bất kỳ
ai dù trí nhớ rất kém, họ cũng có thể ngồi ráng
chút xíu , chịu ngồi nhẫm cho thuộc mười một thuật
ngữ truyền thừa này, đâu có gì nhiều, để rồi
thông hiểu một bài hoằng pháp Ngôn Hoài." kỳ vỹ ".
Người Thị giả ngày ấy là người may mắn nhất ,là
người đầu tiên đã được tiếp cận bản văn
này sau khi nghe giảng. Nhớ xưa , Đức THẾ TÔN trong
ngày giảng bài Pháp " Tứ Diệu Đế " lần đầu , ngài
dùng các câu vô cùng đơn giản ,các câu được lặp lại,
và mỗi lần lặp lại Ngài chỉ thay mỗi một hai từ
,nhờ vậy mà người nghe Pháp thuộc lòng tại chỗ
.Thuộc ngay tại chỗ là yếu tố cần khi mà số người
biết chữ không nhiều.
Thi kệ Ngôn Hoài là một bản văn mật
ngữ truyền thừa
Một là, khi hiểu nó là một bài thơ tứ
tuyệt thông thường thì đã dẫn đến điều nghịch
lý như laiquangnam đã nhắc đến trong các bài viết trước
.
Hai là , trong Lĩnh Nam Chích Quái ,bản văn
này đã được Không Lộ thiền sư dùng để
chỉ dạy cho người Thị giả. Vậy trong đó
Nó ắt phải chứa nội dung chỉ dạy,và đã có phân
tích của Ngài Không Lộ thiền sư trước câu hỏi này,
rằng " Tại sao " tôi ( người Thị giả ) đã hiểu và
đã tu như thế mà không có lối ra ? ", Ngài nghe người
Thị giả đọc bản văn tóm tắt quá trình tu tập của
mình, và NGÀI đọc bài Ngôn Hoài
Ba là, tưởng cũng cần nhắc nhớ,Ngài
Không Lộ thiền sư là một thiền tổ của cả hai giòng
thiền Vô Ngôn Thông và Thảo Đường . Sự hội ngộ
phải vô cùng hữu ích và xuất sắc nên mới được
đưa vào Lĩnh Nam Chích Quái, lẽ nào Ngài Không Lộ thiền
sư lại đi nói mấy câu thơ " tào lao " ," mắc cười "
như bản dịch ra thơ nôm như Bạn Hiền đã gặp đó đây
qua GOOGLE SEARCH.
Bốn là, Bạn thử đọc lại Việt Nam Phật
giáo Sử Luận, của giáo sư Nguyễn Lang viết về các
cuộc " hội thoại " giữa Thầy, tổ thiền thuộc giòng
thiền Vô Ngôn Thông với môn đệ. Rối rấm vô cùng.
Sự tinh tế của tác giả Lĩnh Nam Chích Quái đời Trần
khi vắn tắt cuộc hội ngộ lý thú này bằng hai "bài
thơ", tất cả gói trong 56 từ , thay vì thuật lại câu
chuyện bằng các câu " hỏi đáp -đầy ẩn dụ" -. Ở
đây, người hỏi nói rõ là "tôi ( người Thị giả )
đã tu ra sao" - bài tứ tuỵêt của ông đã gói nội dung
các bước mà ông đã kinh qua – Ngài Không Lộ thiền
sư đáp trả bằng một bài thi kệ. Giả định bạn là
người người Thị giả ,bạn nghe 28 từ ấy bạn hiểu
gì không ? Chắc là không ? ,Bạn phải nghe được chính
Ngài Không Lộ thiền sư hoằng pháp cho bạn bằng Việt
ngữ nào .Buổi hoằng pháp chắc phải kéo dài hàng giờ,
đâu có vắn tắt như thế " quá khó " như thế. Vậy
nội dung buổi hoằng pháp chính là bản văn " gói gọn"
này .Muốn hiểu nội dung cuộc hội ngộ giữa hai thày
trò Họ ,điều tất yếu là ta phải chia sẻ, am hiểu
ngôn ngữ mà họ đã dùng . Đó
chính là các Mã ngữ, mỗi từ ,hay cặp từ của
Mã ngữ chính là một thuật ngữ Phật triết tại
thời điểm đó.
Như chúng tôi đã nhắc trong phần tâm tình
cho dù, vào thế kỷ thứ XII chữ Hán bên Tàu có thể
đã có các thuật ngữ mà ngày nay chúng ta đã gặp
thế nhưng, những thuật ngữ ấy chưa hề xâm nhập
vào nước ta vào đời Lý bởi, chúng ta không hề thấy
các vị thiền sư dùng trong các bài viết của họ cho
dù, dưới dạng thi thiền đi chăng nữa. Ví dụ: từ
niết bàn ( Nirvana) cho mãi đến đời tổ thiền thứ
XI , thì mới xuất hiện tại từ "Tịch diệt". Từ này
nếu viết / 寂 滅 / mà "Ai đó" tách từng từ để
hiểu thì không sao quay về ý gốc mà thiền sư muốn
nói đến; vậy liệu từ này khi so với từ HànthaiHu
thì từ nào hay hơn?. Như Arthur F.Wright đã viết, theo chúng
tôi dẫu sao nhờ sự xuất hiện của cặp
từ Thái hư, từ của Nho gia ,Đạo giáo cho nên người
có am hiểu chút ít kinh sách chữ Nho còn mườn tượng
được một cách mập mờ ý người xưa muốn nói cái
gì sâu xa hơn chăng.
11 Thuật ngữ nào đã được người
xưa dùng
Trạch đắc long, xà , địa, khả cư
Dãtình, chungnhật, lạc vô dư
Hữu, thì trực thướng cô phong đỉnh
Trườngkhiếu, nhất thanh, hànTháihư.
Tại câu thứ nhất "trạch đắc long xà địa
khả cư"
1-Long là gì ?
Theo nghĩa đen là con rồng .Nhưng nghĩa bóng
của nó là người Cao trọng đáng kính trong xã hội
cả về kiến thức lẫn trí năng hơn người bình dân
cùng thời. Bước đầu khai đạo, người hành gỉa phải
tìm cách tiếp cận với người "đã từng trãi nghiệm các
hướng đi ,đủ mọi trường phái
". Đức THẾ TÔN ngày xưa bước đầu cũng vậy,
Ngài đã tiếp cận với các bậc Lý luận giỏi về
các minh triết Ấn Độ đương thời và đã thất vọng.
Cuối cùng Ngài tự mở hướng cho chính mình. Ngài
đã thành đạo qua sự trãi nghiệm của chính bản thân.
Không Lộ là nhà sư đa hệ, là tổ thiền đời thứ
IX của dòng Vô Ngôn Thông, là tổ thiền đời
thứ III dòng Thảo Đường, ngoài ra Ngài có qua Tây Trúc,
lại thông hiểu Mật tông ,Ngài thường đọc kinh
Darani ...vv Phải tiếp cận với các bậc cao minh ,nghe các
minh triết cho thật hết rồi mới trụ lại và mở hướng
cho mình.Vậy Long với người mới học đạo có thể
là bậc cao tăng, là thầy có thể khai đạọ cho mình,
người mở lối cho mình đi về hướng đức
Phật. Xa hơn, Long là từ của người Đại Việt
vào thế kỷ thứ XI ,XII dùng để dịch từ "nāga" từ
Phạn ngữ mà Tàu dịch là Long. Như thế,ý đồ của
Ngài Không Lộ thiền sư khi viết văn bản Ngôn Hoài là
đã muốn xa gần đã hiểu biết về dòng kinh Trung quán
luận, thế nên khi người Thị giả đọc bài thơ có nhắc
đến cụm "Không Không pháp",ngài đã cười, có nghĩa
là Ngài đã thông hiểu và sau đó dùng bài này để
giảng cho người Thị giả
2-Xà là gì ?
Nghĩa đen là con rắn. Nghĩa bóng chỉ chúng
sinh chưa được khai hóa. Nghĩa sâu xa hơn, Xà là một
điẻn từ , đã được nhắc đến một đoạn trong kinh
Milanda, Kinh chính của dòng Nam tông
gồm các nước NAM Á và ĐNA , họ đọc và học
Phạn ngữ như: Sri lanka , Miến điện, Thailand, Khmer, Ấn
Độ ,.Xà là một điển từ bởi thuật ngữ này có
riêng cho mình một đoạn kinh mang số 226 trong bộ kinh Milanda
, Mi Tiên vấn đáp . Nay chúng ta cùng đọc lại đoạn kinh
này
– khi nhà vua hỏi đại sư MILANDA ,về con
rắn giúp gì cho người hành gỉa.
Milanda đáp - Về con rắn thì có ba điều, tâu
đại vương!.Thứ nhất: Rắn bò bằng cái bụng, bao giờ cái
bụng nó cũng tiếp giáp với đất, tiếp giáp vào chỗ tựa
để trườn lên, để bò đi. Bậc hành giả cũng phải dùng
trí tuệ để bò đi, để trườn đi, để lên đường. Nhưng
bao giờ trí tuệ ấy cũng phải bám, phải tựa trên đất
thực, đừng xa lìa cái thực, ấy là tam tướng tuệ: vô thường,
khổ não và vô ngã.Thứ hai: Rắn bò đi, nếu gặp phải cây
thuốc (trị độc rắn) là nó bèn tránh đi, trốn sang nơi
khác. Bậc hành giả cũng vậy, phàm lúc tiến tu mà gặp bạn
ác, bạn xấu hoặc gặp những pháp trược hạnh, nơi phát
sanh cấu uế thì cũng phải tránh gấp để tự bảo vệ cho
mình.Thứ ba: Rắn khi cắn người hoặc thú rồi, nó liền
trốn tránh đi chỗ khác. Bậc hành giả cũng vậy, khi đã
dứt trừ được những tư tưởng xấu quấy rồi thì tránh
đừng nên gặp những cái xấu ác ấy nữa.
3 -Địa ,
Địa là từ Vô
cùng quan trọng trong dòng thiền Vô Ngôn Thông. Đây là từ
khai tâm. Ngay khi bước chân vào con đường tu tập, người
hành thiền phải mở toang Địa tâm mình, tức là mở toang
con tim mình, tâm mình để "ánh sáng" soi rọi từng ngóc ngách
vô minh,chấp ngã ...và từ đó người hành gỉa biết
mà chặt đứt các thô lậu khiến mình vì vướng vào
duyên khởi Dukha( khổ ) không dứt .
Tại câu thứ hai " Dã tình ,chung nhật
,lạc vô dư "
4 -Dãtình
Nghĩa đen, Dã là hoang sơ, là chưa khai hóa,
là tình trạng lúc ban đầu của vạn vật. Nghĩa bóng,
Dã tình là tình cảm chơn chất ban đầu trong mỗi con
người, tình cảm này chưa bị biến đổi bởi xã hôi
quanh nó. Nghĩa sâu xa hơn do vì nằm trong bản văn này Dã
tình nay là chính là chân tâm, chân tâm, "Bản lai diện
mục" .Nó đã được đặt ở đầu câu thứ hai không
thể khác được ,tại câu thứ nhất, Ngài đã nhắc
đến Địa tâm ,nay làm rõ hơn .Sâu hơn .
5 -Chungnhật
Nghĩa đen, Chung là trọn. Nhật là ngày. Chung
nhật là trọn ngày, là suốt ngày. Nghĩa bóng Chung nhật,
ChungNhật là một cặp từ bất ly thân, nó chính là
Phật ngữ chỉ "Trì giới". Trì là gì? là nắm lấy,là
thực thi một cách nghiêm túc .Trì giới được nhà tự
điển học Tâm tuệ Hỷ định nghĩa như sau , "Trì là cầm,
là kiềm chế, là giữ gìn chặt chẽ. Giới là những điều
răn cấm, có khả năng ngăn ngừa sự sai trái, không làm các
việc ác. Nghiêm trì giới luật không có tính cách tù túng
trói buộc, bởi vì người giữ giới ‘nhận thấy sự hành
trì giới luật đem lại cho mình sự ổn định, an lạc và
hạnh phúc. Mục đích của giới luật là giúp người tu thành
đạt quả vị giải thoát".
6-Lạc vô dư ( viết rời )
Nghĩa đen là cảnh giới lạc chỉ đến với
người hành thiền khi họ bắt đầu tiến vào vùng tiệm
cận bến bờ giác ngộ. Đừng lầm với cụm từ LacVôDư,
viết liền là một thuật ngữ Phật giáo, là cõi
mà người đã đắc quả Alahan,Người Giác Ngộ sau khi
chết họ về đó mà "lạc trú". Từ này hơi khác với
từ niết bàn ( Nirvana) theo định nghia hay từ "Tịch diệt"
còn đang tối nghĩa với nhiều tăng sĩ Phật Hán ngày
nay. Cảnh giới "lạc vô dư" là cảnh giới lạc của người
người Hành thiền đang tuôn trào theo cùng với sự tiến
bước của họ vào bến bờ giác ngộ, "hữu tích cực
"không có với người tu hành bình thường, họ phải
qua các bước đã mô tả ở câu thứ nhất và hai bước
trước trong câu thứ hai trước đã .
Tại câu thứ ba "Hữu* thời trực thướng
cô phong đỉnh "
==> "Hữu* ,thời trực thướng cô phong
đỉnh "
7 –"Hữu* là gì ?
Hữu* "là từ tích cực, "hữu* là "hữu
tích cực" , xin đừng nhầm với từ "hữu tiêu cưc" là một
trong Nhị Thập Nhân Duyên gây nên DUKHA (khổ) cho người hành
gỉa . Từ "hữu tích cực" này, là "hữu* trong bài thi kệ.
Nó chỉ trạng thái tích cực khi người hành gỉa phá
vở được một trong các mắt xích thô lậu, vô minh do
duyên khởi từ nguồn lục căn, từ ngã chấp. Hữu* tích
cực trong câu thứ ba "hữu*, thời trực thướng cô phong
đỉnh " là khi nghĩ rằng mình đã "đoạn căn được phiền
não, diệt được ngã chấp,ngọn lửa dục vọng đã hoàn
toàn tắt ngấm trong tâm, và trí vô ngại hiện ra một cách
đầy đủ,.....hay nay mình được chạm đến cõi tự-tại
giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới."
– trang Hoa Sen ."Hữu tiêu cực" là một trong Nhị Thập
Nhân Duyên: "Do tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn
như hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người,
có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết,
cái có như thế, tức là hữu" . do LÊ ĐÌNH THÁM định nghĩa.
Câu "hữu thời trực thướng cô phong đỉnh " ==> "hữu*,
thời trực thướng cô phong đỉnh " lại là một trạng
thái tích cực chuyển biến khi đang Hành thiền. Người
Thiền giả nhận chân rằng mình vừa mới phá được
một mắt xích vô minh ,thô lậu và họ đang tiệm cận
với bến bờ giác ngộ . "hữu ,tích cực chỉ đến
với người Thiền giả khi họ đã ở trong canh giới
"lạc vô dư ".
8-côphongđỉnh là gì ?
Phong [峯 hay viết 峰], nay đã là một tử
ngữ. Phong nghĩa đen là ngọn núi cao nhất trong vùng .
Cô phong đỉnh-,viết rời ,viết rời rạc-, là đỉnh cao
nhất của một hòn núi cao nhất trong vùng ,nhưng khi nó
là Mã ngữ thì "Côphongđỉnh"/ viết liền ,là viết
dính liền lại / thì nó chính là "huệ giác của người
đang Hành thiền,thiền quán. Qua Huệ giác, tức tuệ
giác bát nhã người hành thiền nay đang ở trong Cảnh
giới lạc vô dư tự biết mình nay thật sự đã vào
bến bờ giác ngộ, Sự biết không hề do chấp ngã.
Lúc này đây,do họ bước đi theo đúng con đường mà
Ngài Gautama đã trãi nghiệm, vì tâm nguyện đã là "Hưu
hướng Như Lai ", thực hiện đúng
Bát Chánh Đạo do Ngài truyền dạy lại cho chúng
sinh. Bằng phép ngồi thiền, bằng quán tâm trong chánh
định, chánh tư duy, thì với huệ giác ( tức là tuệ
giác bát nhã vào thời điểm nó xuất hiện)- "chỉ chính
ngay tự thân" người hành thiền- lúc này – "côphongđỉnh"
-là cụm từ biểu thị cho sự hành thiền tự thân,cô
độc và đầy "trí tuệ bát nhã ".Người hành thiền
nay thật sự biết một cách khách quan rằng mình -Nay
đã thực sự chạm đến bến bờ giác ngộ- nay có
được "HỮU* tích cực " và nay đã trở thành người
Giác Ngộ rồi – họ nay đã là ARHAT, Arhant; alahan hay
Bồ tát mới vừa "xuất hiện " tại thế gian này. Mỗi
vòng lặp ,một Hữu* tích cực xuất hiện ,một xích
vô minh bị phá , một "điểm tích lũy" một điểm thưởng
tăng dần nhưng đến được niết bàn ( Nirvana) vẫn còn
xa lắm thế nên
Câu thứ tư "Trườngkhiếu, nhấtthanh ,hàntháihư"
phải xuất hiện
9 -trườngkhiếu
Khiếu" [叫] là của bài Ngôn Hoài, đừng
lầm từ "khiếu" [ 嘯] này trong bài thơ của Lý Cao. Khiếu
[叫], là "kêu". Ngài Không Lộ thiền sư dùng nó với nghĩa
rất rộng; đơn giản thôi bởi nó đã được Việt hóa.
"Khiếu" được hiểu là âm thanh chung được phát ra tiếng
từ mọi loài động vật. Tạm dịch là "kêu". Tùy theo ngữ
cảnh mà ta hiểu "kêu" đó là tiếng mang nét đặc trưng gì.
Ví dụ: vượn "kêu" là vượn hú. Cọp " kêu " là cọp gầm.
Trẻ " kêu " là trẻ khóc đòi ăn ,đòi bú. Người "kêu" .
có thể là rống ,là huýt,là hú, là khều khào tùy theo người
ấy là ai,đang ở trong trường hợp nào. Nay chủ từ " khiếu"
tại câu thứ tư, chính là từ một vị cao tăng vừa giác
ngộ "kêu" . Ở đây, vị Bồ Tát "kêu". Bồ tát này là ai
? _là Không Lộ thiền sư hay người thiền giả vừa đến
Bến Bờ Giác Ngộ. Ngài thuộc dòng Vô Ngôn Thông đã được
Việt hóa,với lời phát nguyện "Hưu hướng Như Lai",
Vui mà đi theo hướng do Đức THẾ
TÔN đã đi. Lĩnh Nam Chích Quái ghi, Ngài thường đọc
kinh Đarani. Đarani,là một dòng Mật Tông tinh hoa thường
đọc "lời hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm" ."Khiếu
" chính là "lời cầu cho mọi chúng sinh được luôn an lạc"
. Từ khiếu này nay có từ "trường" ghép vào thành
ra "trường khiếu" ==> "trườngkhiếu", là một thuật
ngữ Phật giáo. "trườngkhiếu" theo ngôn ngữ bây giờ
nó chính là "lời phát nguyện Bồ Đề Tâm "vậy .Bồ
Đề Tâm nay là thuộc tính của
bậc Giác ngộ – chính Bồ Đề Tâm làm cho điểm
tích lũy "Hữu tích cực " tăng dần đến vô cùng ,
và đưa bậc đã Giác ngộ " đó đến cõi niết bàn (
Nirvana). Do "Hưu hướng Như Lai" nên các vị nguyện cứu
khổ cho chúng sinh ,hoằng pháp suốt đời khi các Ngàicòn
hơi thở thế nên, các ngài chưa đến cõi niết bàn (
Nirvana) cùng Phật Tổ ngay. Việt là Việt, Hán là Hán,
Tàu là Tàu là đây. Phật giáo Tàu Hán đắc đạo xong
cười ha hả , rút! ,như bài U Cư của Lý Cao viết về
nhà sư Duy Nghiễm là một minh chứng. Phật giáo Đại
Việt,thì "Hưu hướng Như Lai "là con đường bắt
buộc .Đắc đạo xong thì phát hạnh nguyện khai mở
Bồ Đề Tâm tiếp tục nhập thế, tiếp tục hoằng pháp
để độ chúng sinh,đi theo đúng " y chang " con đường
của Đức THẾ TÔN từ hàng ngàn năm trước đã đi.
Người học trò Ngài là QUẢNG NGHIÊM,tổ đời thứ
XI đã xác nhận lại, rằng đi theo con đường
của Đức THẾ TÔN là duy nhất đúng.
10 -Nhấtthanh,
Thanh [声] cùng nghĩa với "thanh"[ 聲.] này.Nhất
thanh khi là thuật ngữ là từ rất riêng. Thanh này theo
nghĩa đen có nhiều nghĩa ,tuy cùng âm ,cùng ký tự ,
tùy theo ngữ cảnh , một trong số các nghĩa đáng chú
ý là đây, thanh trong câu thứ tư này, thanh là lời
tuyên bố,lời nói rất rõ ràng, Việt ngữ ta có
từ thanh trong thanh minh cùng nghĩa. Nhất thanh là một
thuật ngữ chỉ rằng đây là lời tuyên bố " chắn chắn
", một lời tuyên bố nhất quán .Vậy nhất thanh chính
là một thuật ngữ không có từ tương đương Hán Việt
nào khác. Nhất thanh là "lời tuyên bố kiên định
,và rõ ràng lập trường của mình một cách nhất
quán và dõng dạt" của người
phát ngôn. Nhớ xưa , ngay khi Đức THẾ TÔN đã đắc
quả ,Ngài đã Nhấtthanh với năm người đã bỏ
mình đi ,và Ngài nói n mọi người từ nay nên gọi Ta
là NHƯ LAI .
Nhớ xưa ,nay nhắc
lại vài "Nhấtthanh" của Đức THẾ TÔN
1-"Đấng Thế Tôn
tự xưng mình là Như Lai (Tathagatha). Nếu hiểu theo cách từ
chương thì chữ này có nghĩa là "đến [nơi này] như thế"
(Như Lai), hay là "Người đã trở thành như thế" (có
nghĩa là đã tỉnh thức và giác ngộ). Trong các kinh sách sau
này Đức Phật giải thích chữ
Tathagatha
có
nghĩa là "Không từ đâu đến và cũng không đi về đâu
cả", chỉ là "Như Thế", có nghĩa là tính cách
nhị nguyên và đối nghịch của mọi sự diễn đạt đã bị
loại bỏ khỏi tâm thức của Ngài. Nếu dựa theo ý nghĩa
đó thì Tathagatha cũng có thể hiểu là "Hiện thựclà
Như thế" (tiếng Phạn Tathata có thể dịch là Ainsité,
Suchness)". Theo HOÀNG PHONG
2- "Này các bạn tu sĩ khổ hạnh,[từ nay]
không nên gọi Con người Toàn Thiện bằng tên của người
ấy nữa và cũng không nên xem người ấy là một người bạn
[giống như những người bạn khác]. Này các bạn tu sĩ khổ
hạnh, Con người Toàn Thiện là một Thánh nhân, đã hoàn toàn
Giác ngộ. Các bạn hãy lắng nghe : Sự Giải thoát ra khỏi
cái chết đã được tìm thấy. Ta sẽ đem ra thuyết giảng
[về sự Giải thoát ấy] cho các bạn. Ta sẽ giảng dạy cho
các bạn về Giáo lý gọi là Đạo Pháp (Dhamma). Nếu các bạn
thực thi đúng những lời giáo huấn ấy thì sau này các bạn
cũng sẽ nhanh chóng đạt được mục đích tối thượng của
một kiếp sống thánh thiện, cái mục đích đó sẽ giúp cho
những người cao cả biết rời bỏ thế tục để chọn một
cuộc sống rày đây mai đó : tại nơi này và ngay trong lúc
này các bạn đều có thể tự mình chứng nghiệmđược và
thực hiện được sự thực đó" (Trung A Hàm, 26).
HOÀNG PHONG dịch
11 – HànTháiHư là gì ?
Hàn thái hư. Thái
hư là từ của Đạo giáo, nhưng "hàn thái hư" thành "hàn-thái-hư"
hay HànTháiHư từ chưa hề xuất hiện trong văn bản
của người Việt trước đó và Tàu thì tuyệt đố
không có . Thái hư là không gian,mà người đọc có thể
tưởng tượng được, nghĩa là nó đã có một trú
xứ tùy theo độ thông minh của người tiếp nhận; thế
nhưng hàn-thái-hư chỉ là một " mật ước " về một
không gian không hề có trú xứ; đó chính là cõi niết
bàn ( Nirvana), một thuật ngữ " mật ước " của người
hành thiền Phật giáo, nó không có định nghĩa đơn
giản cho người bình thường về trí năng .Chính Ngài
Gautama trong suốt thời gian ngài còn sống và lúc đi
hoằng pháp thì Ngài Gautama cũng đã né khi đề cập
đến từ này với đại chúng .Chứng ngộ trước đã,
rồi sẽ hiểu thuật ngữ này. Tâm Tuệ Hỷ,nhà từ
điển học về từ Phật giáo, có hai đại sư người
Việt làm cố vấn là Thầy Thanh Từ và Thầy Nhất
Hạnh,Tâm tuệ Hỷ cho rằng đây là từ BẤT KHẢ TƯ NGHI.
Chỉ riêng với từ NIRVANA của người Ấn Độ thôi mà
người Tàu họ đã tốn nhiều công sức, họ lần lượt
thử sức dịch bởi, "Vào cuối thời nhà Hán và đầu thời
nhà Nguỵ thế kỷ V... hình thức cách nghĩa này rất có giá
trị và hữu hiệu cho người tìm hiểu Phật pháp, các vị
Tăng sỹ ban đầu thuyết giảng, sau đó dùng cách nghĩa và
giải thích đổng bộ với nhau" .Thế nên từ Nirvana họ
lần lượt dịch là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅), Diệt tận
(zh. 滅盡), Diệt độ (zh. 滅度), Tịch diệt (zh. 寂滅), Bất
sinh (zh. 不生), Viên tịch (zh. 圓寂), mục đích tối cao trong
đạo Phật là "Giải thoát" khỏi vòng lặp luân hồi nên
nirvāṇa được dịch ý là Giải thoát (zh. 解脫).Cuối cùng
họ đành phiên âm là cách tốt nhất "niết bàn" là
âm Hán Việt do từ phiên thiết mà ra . Người Trung hoa
là cha đẻ ra thứ chữ viết hình tượng của họ, vậy
mà họ còn lúng túng trong nhiều thế kỷ huống hồ
gì người vay mượn.Vậy thì, nay chúng ta tìm lại bằng
sự " tương đồng về nghĩa" là một giải pháp mà
Arthur F.Wright bài qua bài "Bước đầu dịch kinh Phật của
người Trung Quốc" là một minh chứng bởi chung quy,ngôn
ngữ ,chữ viết chỉ là một tín hiệu quy ước mà
thôi .
Kết luận
Rõ ràng rằng ,lớp đàn anh chúng tôi vì
đã xem bản văn này là một bài thơ TỨ TUYỆT thuần
tính văn chương như mọi bài thơ chữ Hán khác nên đã
vô tình để một viên ngọc quý của quốc gia bị chôn
vùi. Nay qua đoạn giải mã ngôn từ này thì sự thực
được ẩn dấu một cách kín kẻ của người xưa một
phần nào được phơi bày. Một là ,có thể chúng tôi
đã thực giải được bản chất sâu kín trong từng ngôn
từ của bản văn Ngôn Hoài. Hai là, có thể chúng tôi
đã thực sự giúp cho sự quán nhận của người Việt
nào đó vốn quen "quy Hán và đội Hán",nay thấy được
"quy luật tu hành" của tiền nhân ta.Tu Việt hoàn toàn
khác với lối tu Tàu qua nhân vật điẻn hình là thiền
sư Duy Nghiễm qua bản văn U cư của Lý Cao mà họ hồi
tâm, ngưng tấn công vào tiền nhân ta một khi mình thực
sự không hiểu các Ngài đã nói gì trong đó. Rằng
hướng giải thoát của giòng thiền Vô Ngôn Thông đã
được Việt hóa chỉ có hướng duy nhất là RẬP ĐÚNG
theo bước chân của NHƯ LAI như lời phát hạnh nguyện
"Hưu hướng Như Lai" của thiền sư QUẢNG NGHIÊM tổ thiền
đời thứ XI. Nay việc " reo vui theo bước chân Như Lai" mang
tính chất toàn cầu với giòng thiền Nhâp thế của Làng
Mai và của các Chư Tăng người Việt Đại trí thức
trong nước và hải ngoại. Nay là lúc các Cư sĩ ,Tăng
sĩ chân chính có thể thực hiện được nhờ bám sát
các bước trong bản văn " dàn bài " này "?". Ba là, có
thể chúng tôi đã giúp mang lại sự hiểu biết nâng tầm
cho "Ai đó" đang truy tìm một lối đi trong mục đích tìm
sự giải thoát cho riêng mình và cho người theo cách của
một Đại sư Thời LÝ đã trải nghiệm. Ngài đã nở
nụ cười dòn khi truyền thừa và giảng pháp cho người
Thị giả đến xin học tập như Lĩnh Nam Chích Quái mô
tả. Đó chính là sự thực là tại vì sao,và duyên cớ
nào mà chúng tôi theo đuổi một cách bên bì công việc
giải mã này.
Vững tin rằng thế hệ sinh sau lớp chúng
tôi-lớp sinh thập niên 40, lớp sau 75 sẽ từ bản văn
này mà mở rộng ra bằng trí thông minh vượt bậc vốn
có của người Lạc Việt, Rằng các bạn trẻ sẽ soi rọi
vào từng góc kẹt của các bài Thơ Thiền Lý Trần
khác. Rằng các viên ngọc quý của tiền nhân ta ngày càng
nhiều được giới thiệu một cách trang trọng trong mỗi
kỳ đại hội VESAT .Tất cả lớp già chúng tôi đều
luôn mở lòng hạnh nguyện luôn hướng về túi hành
trang văn hóa Lạc Việt mà lớp trẻ người Việt nay
đang đeo sau lưng mỗi ngàytại khắp năm châu .
Thân ái
Laiquangnam
SG ,một ngày giữa tháng bảy ,2017
Phần tham khảo và chú thích
*Thuật ngữ người xưa chín là Thuật ngữ
minh triết Phật giáo mà Ngài Không Lộ thiền sư đã
dùng khi Ngài tự tóm tắt lại một buổi Thí Pháp cho
đồng bào của mình vào đầu thế kỷ thứ XII , thời
LÝ
**Các từ viết liền, là viết dính liền lại
một đề xuất của laiquangnam nhằm thúc đẩy sự phát triển
tự vựng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ hiện nay, đây là
của thuật ngữ Phật giáo, minh triết của nhà Phật, hay gọi
là Phật triết. Chúng tôi đã thấy người MỸ lập từ
,tuy cùng một âm ,nhưng với va cách viết , (viết rời
,viết rời rạc ) ,viết liền ,là viết dính liền lại , và
viết có gạch ngang nối , mỗi cách viết một khi thể
hiện trên giấy ,chính MẮT đã can thiệp vào ngôn ngữ
như LUẬT DARMESTETER về NGÔN NGỮ SINH HÓA dã phát biểu
Bản văn F2, các từ viết liền, là viết dính
liền lại, chính là cách hiểu của người giới thiệu
, bản văn gốc luôn luôn là bản văn F1 ,không hề có dấu
câu.
1-
http://chimvie3.free.fr/65/lqnn_TimGiaiPhapKhac03a_KhongLo_065.htm
2- Phật giáo dấn thân" ,http://cusi.free.fr/pgtd/2016A_bantron/BanTronDPDT_Bai2_NCS.htm
3-http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/
4667-su-du-nhap-cua-phat-giao-vao-nuoc-ta-va-anh-huong-cua-no-
trong-cac-the-ky-10-14.html
4- Mai thị Hồng Tuyết , Hình tuòng văn học
như một kí hiệu , nxb KHXH ,Hanoi , 2016
5-https://thuvienhoasen.org
6- Việt Nam Phật giáo sử luận, của gsu
Nguyễn Lang
7- "Buddhism in Chinese history" của ARTHUR F. WRIGHT,
Do Giáo sư đại học Thích Thiện Chánh (dịch)
,PHẬT GIÁO QUA DÒNG CHẢY LỊCH SỬ TRUNG Quốc, Nhà xuất bản
Hồng Đức , 2012
8- Edward Conze , lược sử Phật giáo do Nguyễn
Minh Tiến dịch
https://thuvienhoasen.org/images/file/YxeTQJtG0QgQABcV/
luocsuphatgiao-nguyenminhtien.pdf
9- và các tư liệu sách tham khảo đã liệt
kê trong vác bài trước
10 --
https://hoavouu.com/a26304/kinh-na-tien-mi-tien-van-dap-minlinhdapanha-
hoa-thuong-gioi-nghiem
MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera
Thita Silo)
Tỳ kheo Giới Đức hiệu
đính,
ấn bản 2003
11-https://thuvienhoasen.org/a7793/thap-nhi-nhan-duyen
12--Hưu hướng Như Lai của thiền sư QUẢNG
NGHIÊM do laiquangnam viết
13- VÔ NGÔN THÔNG VÀ TRUYỀN THỪA
http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/
viet-nam-phat-giao-su-luan/
-chuong-06-thien-phai-vo-ngon-thong?set_language=vi
14 - Hoang Phong , HAI BÀI THUYẾT GIẢNG ĐẦU TIÊN
CỦA ĐỨC PHẬT và Sự hình thành của Phật giáo
https://thuvienhoasen.org/a6146/hai-bai-thuyet-giang-
dau-tien-cua-duc-phat
15– trang https://vi.wikipedia.org |