II-Trường
hợp thứ nhất, bài thơ danh tác : Qua Đèo Ngang (2)
1-
Đã gặp rắc rối và Giải mã bài thơ Qua Đèo Ngang.
Một bài thơ cổ văn
của tiền nhân ta, một khi được đưa vào bậc học phổ
thông lý ra là một bài thơ mà mọi vấn đề liên
quan đến nó nay đã được văn
giới giải quyết dứt điểm. Tiếc thay!. Việc ông
nói gà bà nói vịt, chín người mười ý, văn
chương từ xưa đến vốn là vô bằng cớ, là thủ pháp
ngụy biện của người bình thơ khiến cho một vấn
đề văn học tưởng chừng quá
đơn giản lại trở thành bế tắc. Theo tôi nghĩ cần
phải phân tuyến. Lẽ nào,người lười biếng lại
đóng góp tiếng nói có tính cách quyết định cuối
cùng.
Tuyến học đường ở bậc học phổ thông
rất cần minh bạch, còn tuyến trà dư tửu hậu thì
tùy. Có nên chăng, người góp một tay chấm
dứt thói quen của văn giới xưa nay ,"nhai dập dập rồi
bỏ mứa ,lớp sau lại phải "dọn dẹp". "Ai đó" đã bình
thơ Qua Đèo Ngang , " Bà trên đường vào Huế nhận
nhiệm sở, " , xin hãy đưa ra lời phản biện khả tín,lý
do nào bạn đã đi đến kết
luận như thế. Giúp tuổi teen lớp 7 ,và giúp thầy cô
chúng nhẹ cái đầu ,âu lo . Con trẻ
cần lấy điểm trong lớp, thầy cô cần đở nhọc nhằn
khi soạn bài thao giảng thi đua , trả nợ " cô hồn" .
Người Việt phân dòng thơ Đường thất
ngôn bát cú có tám câu,chia làm bốn cặp, Đề , Thực ,Luận
và Kết . Theo sát bố cục này rất khó làm thơ. Người
không quen thấy bó và khó. Người tài hoa dùng quen, thì
đâu vào đó, nó tạo ra một lâu
đài kiên cố, lung linh và kỳ ảo.Thơ càng hay thêm
.Bà Huyện Thanh Quan là một kiến trúc sư tài hoa, tuy
rằng bà xây dựng không nhiều bài thơ . Ba bài là đã
quá đủ . Người tài hoa, chọn điển từ, điển tích,
địa danh, cho chúng xuất hiện trong câu để " nống
ý " trong câu và nống ý văn bản.
Chúng ta linh hoạt hiểu điều ẩn dụ mà tác giả muốn
nói, muốn gởi gấm. Viết và giảng theo hướng
lợi nhất, tích cực nhất,Tiền nhân ta được tiếng
khen mà lý ra họ đã được hưởng,
cháu con ta được hưởng xái. Đã có vô số các lời
bình về bài thơ này trong gần một thế kỷ nay.
Người tham gia rất đa dạng, đủ
mọi trình độ, mọi thành phần.
Wikipedia có trích lại
lời bình đại diện mà hơn sáu mươi năm qua sách Giáo
khoa đã dùng : "Với phong cách trang nhã, bài thơ
"Qua Đèo Ngang" cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng
mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng
còn hoang sơ, đồng thời thê hiện nỗi nhớ nước thương
nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả" . Lời
bình " trớt quớt" đầy cảm tính. Lời lẽ kết tinh bằng
ngôn ngữ quy ước mà người học trò vốn ngán ngại
văn chương ham chơi năm xưa đã ghi vào sổ tay để học
thuộc lòng,để làm bùa lấy điểm.
Văn là người
, "Ở nơi những nhà văn danh tiếng, rất dễ dàng nhận
ra lối văn đặc biệt của họ. Cho
nên tìm hiểu một nhà văn là tìm hiểu cái đặc
biệt, độc đáo trong lối nhìn đời của họ và tìm
hiểu cái đặc biệt, độc đáo đó
ngay trong lời văn, lối văn, hay nói một cách rộng hơn, trong
bút pháp vì bút pháp gắn liền với con người của
họ. Chúng tôi cho rằng một phê bình văn
học chính đáng phải lấy chính tác phẩm làm khởi điểm
và đứng vào quan điểm nghệ thuật của chính tác giả để
rút ra những tiêu chuẩn của nghệ thuật." "... Ði vào
tác phẩm văn chương là phải bám sát vào bút pháp, vì tất
cả ý nghĩa, tư tưởng, con người tác giả ta muốn tìm hiểu
đều ở trong bút pháp." (tr. 198). NVT ,LKVH ,
Gần một trăm năm nay,
đọc bài thơ này đã có nhiều lời bình, tuy nhiên lời
bình lạ nhất vẫn là lời bình của giáo sư triết học
và dạy phân tích văn học Nguyễn văn Trung. Qua cách nhìn
toàn cục của một triết gia chỉ với 56 từ trong bài thơ
Qua Đèo Ngang, ông nhận xét về cách dùng tính từ của Bà
Huyện Thanh Quan, ông kết luận, Bà mang một tâm lý chán
sống bởi đời nào có gì vui
.
2- Giải mã xuất xứ và
xác định thời điểm ra đời
.
2.1
Xuất xứ và chủ đề
Xuất xứ không rõ ràng ắt sẽ dẫn đến
các lời bình giải văn bản thiếu sự tường minh, từ đây
xuất hiện lời bình "có cánh". Lời bình có cánh là
cội nguồn của thói điêu ngoa sáo rỗng trong ngôn ngữ
học sinh ngày nay. Lời bình " tàm xàm" là bịa ra cảnh sắc
không có thật trong bản văn. Bài
thơ Qua Đèo Ngang đã sản sinh ra nhiều "Giảng văn gia" giỏi
bịa, rằng Bà Huyện Thanh Quan nhờ đã
nghe tiếng chim cuốc cuốc kêu, tiếng con chim đa
đa, gà gô gáy vọng về hai âm gia gia. Âm này lọt
vào tai tác giả vào đúng thời điểm
mà bà đang " chập chờn " tìm ý . laiquangnam tôi không
hiểu bọn chim gà này từ đâu mà xuât hiện vô cùng đúng
lúc như thế. Ba là lời bình "tàm xàm" quen lối Ngụy biện"
lá bùa". Dán lá bùa Vọng Hán tộc, quy Hán tộc để
giải quyết một vấn đề mà mình chưa tìm được
lời lý giải tường minh. Lối bình kiểu quy Hán đã
làm nhiễm bẩn và đầu độc con
em của chúng ta trong nhiều thế hệ, khiến cho bọn
trẻ quen kiểu tư duy quy Hán tộc là giải pháp tối ưu
mỗi khi bí về một lời giải khó liên quan đến thuộc
tính dân Lạc Việt .
2.2-Tiểu sử tác giả
vắn tắt
Bà là ái nữ của một vị danh Nho thời Lê
mạt, sinh vào năm 1805. Chồng bà là Lưu Nghị, sinh năm 1804.
Vợ chồng bà đều sinh ra và lớn lên tại tỉnh Hà Đông,
nay là thuộc về Hanoi. Lưu Nghị học giỏi. Ông đỗ cử
nhân vào năm Minh Mạng thứ hai,1828 và được bổ làm tri huyện
Thanh Quan. Sau đó, vì phạm một
tội nhẹ nên bị cách chức, trở thành viên thư lại thuộc
Bộ Hình. Về sau,Vua Minh Mạng ân xá .Vợ chồng ông có thời
cùng làm việc tại kinh thành Huế. ( *) Nguồn Wikipedia
2.3-Vài chi tiết tối cần
thiết,Chuyện gì đã xảy ra vào
năm 1847 ?
Tư liệu chi tiết về cuộc đời và sự
nghiệp văn chương của bà quá hiếm. Nay chỉ còn vết. Dựa
theo nguồn của nhà biên khảo Phí ngọc Hùng trên Chim Việt
Cành Nam (*) , chúng tôi được biết việc "khai quật" về
thi ca của bà. Sách vở chính thống của nhà Nguyễn không
ghi lại. Điều này cho ta thấy rằng người phụ nữ đoan
trang và rất kín kẻ này " dè dặt" trong việc phổ biến
sáng tác của mình. Tuy nhiên với ba bài có phần chắc
là của bà là các bài thơ Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long
Thành Hoài Cổ và Qua Đèo Ngang. Có
lẽ thứ tự diễn tiến được sắp xếp qua ba giai đoạn.
Bài thứ nhất, Chiều hôm nhớ nhà, khi bà lần đầu
vào kinh thành Huế nhận việc, câu kết " Lấy ai mà kể nỗi
hàn ôn.". Bài thứ hai, Thăng Long Thành Hoài Cổ , nữ sĩ
đã chứng kiến việc xây dựng kinh thành mới ồ ạt. Bà
kịp nhận ra trong số ngói gạch gỗ,văn
bia xây dựng nay có được là do việc gở bỏ đền đài
lăng miếu của các Tiên triều, Lý Trần Lê tại kinh
đô Thăng Long cũ mang về Huế với
câu kết " Cảnh đấy người đây luống đoạn trường." Bài
thứ ba,Qua Đèo Ngang, ưu tư về việc nước, lo âu về việc
nhà trên đường trở về quê hương cũ với tâm trạng
chán sống. Câu kết " Một mảnh tình riêng, _ ta với ta!."
. Tuy ít, nhưng cũng đã quá đủ
cho bộ sưu tập thể hiện đầy đủ sự diễn biến trong
một tâm hồn người phụ nữ Hanoi năm xưa.Thái độ kẻ
sĩ khi nhận một chức quan với đồng lương ít oi của
nhà Nguyễn ban cho , trước Bà đã là thi hào kẻ sĩ
Nguyễn Du. Ông đã chọn con đường , dừng uống thuốc như
là một cách quyết tâm tự sát để thoát khỏi cảnh làm
tôi cho nhà Nguyễn mà mang nỗi ô nhục suốt đời.
Bà thì sao ? .Đọc dòng nhật ký Qua Đèo Ngang khách thơ
sẽ gặp. Bà có 4 người con, gồm hai trai hai gái. Hai
trai là Tuân và Cung, hai gái là Chính và Lương (*).
Năm 1847 chồng bà mất,
43t .Năm 1848 đến phiên Bà mất, cũng vào độ
tuổi 43. Năm 1847 lịch sử dân tộc ta có nhiều biến
cố. Tại kinh thành Huế, Pháp bắn chìm tàu của nhà Nguyễn
tại cửa Thuận an. Điềm báo cho toàn dân tộc này cùng
chia sẻ, rằng ngày tàn của vương triều Nguyễn sắp
đến. Quốc nạn, mất nước!.
Bài thơ này có thể
giải mã được hoàn toàn những ẩn ngữ phù hợp với
tâm tư tình cảm của Bà, nếu như khách thơ cùng đồng
ý với laiquangnam rằng đây là thời điểm hợp lý nhất
để bài thơ ra đời. Ngoài ý kiến trên, tôi không
thấy luận cứ nào có thể giải mã được ngôn từ
và tư tưởng của Bà Huyện Thanh Quan qua từng câu thơ
trong bài Qua Đèo Ngang. Bạn phản biện xin dẫn chứng
, chúng tôi đang lắng nghe các bạn.
Nguyên nhân nào khiến Lưu Nghị chồng Bà phát
sanh đau ốm? Một là vì lo âu cho người vợ yêu của
mình. " _không biết ngày giờ này,1847, tại kinh thành Huế,
người thiếp yêu của ta liệu nàng có được
an toàn? ". Lòng đầy lo âu và quá yêu thương nữ sĩ
là lời lý giải khả tín nhất. Năm 1847 là năm có cơ
hội tốt nhất để bà quay về ,ông nghĩ?. Năm
này Vua Thiệu Trị mất.Tự Đức là vì vua hèn lên
ngôi. Một bất hạnh cho dân tộc này. Triều đình rối
như tơ vò. Điều này khớp, bởi sau khi ông bà mất thì
chừng 15 năm sau, Tự Đức dâng
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Vợ chồng bà may
mắn không sống để chứng kiến cảnh tủi nhục
mất nước kể từ 450 năm độ̣c
lập liên tục đến nay. Nếu lấy cột mốc năm 938 là
năm mà đất nước này tự chủ được gần 1000 năm
, tuy cũng bị gián đoạn chỉ có 20 năm do giặc Hồ cướp
ngôi của vua Trần, thì đây sẽ là lần ghê gớm
hơn ,lâu dài hơn?. Kẻ sĩ bó tay .
2.4-Vài chi tiết cần biết
về cảnh quan Đèo Ngang
Đèo Ngang có gì đặt
biệt?
Đèo Ngang là một đoạn
đèo thấp, dài khoảng 6 km và cao khoảng 250 m.Thời
xa xưa nó là địa phận phân chia Việt – Champa. Vào năm
1833, Vua Minh Mạng cho xây trên đỉnh
đèo Ngang cổng Hoành sơn quan theo chiều đông tây. Cổng
rộng 6m15 , cao 6m30, bề dày 5m60, tại cửa bắc có viết
ba chữ Tàu là Hoành sơn quan. Cảnh sắc Đèo Ngang ra sao?.Nếu
đứng từ đỉnh đèo có thể
thấy vịnh Hòn La sóng vỗ, trong vịnh
có đảo chim. Bà không có một chữ nào nói về cho
cảnh sắc chim bay, sóng vỗ trong bài thơ của mình , điều
này chứng tỏ, Bà Huyện Thanh Quan không mấy quan tâm đến
cảnh quan phong cảnh xung quanh nó . Ngoài ra ta cũng cần biết
tại chân Đèo Ngang có một con suối
rất đẹp chảy quanh ôm lấy ngôi đền Vân Hương Thánh Mẫu
thờ Bà Chúa Liễu Hạnh,vào thế kỷ thứ 18 nằm ở
bờ Bắc. Nếu tức cảnh sinh tình thì ngôn từ bài thơ đã
khác.
3-Vài điểu cần biết
về Kỹ thuật hành văn thuộc dòng thơ thất ngôn bát cú
qua tay Bà Huyện Thanh Quan
Trong cuốn Lược khảo
văn học, tập 1, xuất bản tại Sài Gòn vào năm
1963 (Xuân Thu in lại tại Hoa Kỳ, 1990), Nguyễn Văn Trung đã
dành một phần khá dài trong chương "Viết thế nào" để nói
về phong cách (ông dùng chữ "bút pháp") và vai trò của phong
cách trong phê bình văn học.
Giáo sư ĐHVKSG ,1963
Nguyễn Văn Trung đã viết:
"Ở nơi những nhà văn danh tiếng, rất dễ
dàng nhận ra lối văn đặc biệt của
họ. Cho nên tìm hiểu một nhà văn là tìm hiểu cái
đặc biệt, độc đáo trong lối nhìn
đời của họ và tìm hiểu cái đặc
biệt, độc đáo đó ngay trong lời văn, lối văn, hay nói một
cách rộng hơn, trong bút pháp vì bút pháp gắn liền
với con người của họ. Chúng tôi cho rằng một phê bình
văn học chính đáng phải lấy chính
tác
phẩm làm khởi điểm và đứng vào quan điểm
nghệ thuật của chính tác giả để rút ra những tiêu
chuẩn của nghệ thuật." "... Ði vào tác phẩm văn chương
là phải bám sát vào bút pháp, vì tất cả ý nghĩa, tư tưởng,
con người tác giả ta muốn tìm hiểu đều ở trong bút pháp."
(tr. 198). (1)
3.1
Chủ đề & Thể thơ :
Với nhiều thi sĩ tài hoa thì tại câu đề thứ
nhất của dòng thơ thất ngôn bát cú họ đã nêu rõ toàn
bộ chủ đề bài thơ ,bí quyết nào ? Họ dùng điển
từ, điển tích, địa danh .Với Bà Huyện Thanh Quan,bài
thơ Qua Đèo Ngang ,tại câu đề thứ nhất bà viết
"Bước tới Đèo Ngang, bóng
xế tà" . Địa danh "Đèo Ngang"
xuất hiện . Điều gì xảy ra cho dân tộc này trong vài
ngày tới. Đại danh' Đèo Ngang " nhắc
nhớ "Chiến tranh,mất mát "đè lên lương dân và có
khi mất nước không chừng . Sự kiện lịch sử dồn dập
vào năm 1847 tại kinh thành Huế là điều
có thể .Từ đây dẫn đến hai tử tưởng chủ đạo 2b1 và
2b2 cho toàn văn bản .2b1-Quê hương,bài học từ di sản. Vết
thương chiến tranh trong quá khứ chưa kịp lành miệng.
Địa danh , 2b2- Nỗi nhà, và sự thương nhớ sâu xa .
"Bóng xế tà" ,thời gian thương nhớ ước lệ bàng bạc qua
ca dao Việt.
Chính thể thơ thất ngôn bát cú buộc thi
nhân phải chọn từ và đặt rất
đúng vào vị trí của nó. Mỗi từ đều giữ một vai trò
đặc biệt của nó. Con chữ được chắt lọc một cách
tinh tế , đặt đúng vào là đạt yêu cầu. Khác nhau
giữa các bậc thầy về thể thơ này là đây.
Với một bố cục quy ước gồm 4 phân đoạn chính,đề,
thực, luận, kết. Giỏi hay dở cũng chừng ấy từ và
tám câu mà thôi. Ý thơ thật nhiều, viết bố cục bài thơ
theo sát sườn khuôn định sẳn . Khó
nhưng khi đạt được thì sẽ có ngay lập tức một
viên ngọc hoàn bích. Bà Huyện Thanh Quan là tài hoa bậc nhất
. Khen sự mực thước và khéo léo cho một cô giáo người
HANOI
năm xưa liệu có thừa không?. "Tài hoa vốn sẳn tính
trời " /"Kiều"
3.2-Giải mã từng câu
Để có thể
có được một bản văn F2 kỷ hơn,mới
hơn một bản văn F2 đã được phổ biến với trong học
đường xưa nay thuộc lớp chúng ta ; con em chúng ta ngày
nay đã phải học qua văn bản F2 của Hanoi, xuất hiện trong
sách ngữ văn lớp 7, như khách thơ đã đọc tại phần
thứ nhất. U ám . Nay là lúc chúng ta cần giải mã từng
câu F1 và làm lại từ đầu. Mục đích gì ?
3.2.1-
Cặp đề (1,2)
Vai trò của Cặp đề
(1,2)
Chủ đề bài thơ Qua
Đèo Ngang nằm gọn trong câu này theo quy định của dòng thất
ngôn bát cú. Câu đề thứ nhất "Bước tới Đèo
Ngang bóng xế tà" đã gói trọn nội
dung của chủ đề.
Địa danh "Đèo Ngang"
xuất hiện. Nhắc nhớ Chiến tranh tự người Việt
làm khổ dân Việt. Thời Minh Mạng đã có sự kháng cự của
dân chúng vì việc vét sức dân, huy động tài nguyên xây dựng
lăng tẩm, xây dựng kinh thành mới khi đất nước này
cho dù tổ quốc mới vừa qua một cuốc chiến tranh dài. Năm
xưa ,sau khi chiến thấng quân Nguyên ,về lại kinh đô
,lăng miếu nhà Trần bị giặc phá tan hoang , "Ai đó"
đề nghị vua Trần nhân Tông bỏ sức người sức của
"xây dựng lại bằng mười lần xưa". Quay sang hỏi cha
vợ mình , nay là Đức Thánh Trần,ngài gạt ngang , đất
nước này vừa qua cuộc chiến tranh , dân cần nghĩ ngơi,
trẻ con cần được sắn sóc người phụ nữ cần được
bớt nhọc nhằn , nương sức dân làm kế bền gốc
, Nhà vua nghe theo.Sang đời Nguyễn
Gia Long không vậy. Linh tính nguy cơ làm biến mất giống nòi
Lạc Việt khi Pháp bắn thị uy tại của Thuận An. Sự kiện
lịch sử dồn dập vào năm 1847 đã
nêu ở đoạn trước là điều có thể dẫn đến " nỗi buồn
chán " trong lòng người thi nhân. Quả vậy ý thơ bàng
bạc trên toàn văn bản. Bài học từ lịch sử quay lại.
Vết thương chiến tranh trong quá khứ chưa kịp lành miệng
khi Bà Huyện Thanh Quan đi xuyên qua địa danh này. Cảnh quan
trước mắt.
"Bóng xế tà" , thay cho từ ước lệ "Chiều"
lộ liễu. Từ ước lệ chiều dùng cho thời gian thương
nhớ bàng bạc qua ca dao Việt. "Chiều tà", hàm ý ngày
sắp tàn .Với nữ sĩ là nhớ người yêu dấu, nhớ bốn
con, nhớ người hồng đang đau ốm,
nhớ quê nhà ... ,
Nỗi nhớ bàng bạc trong ca dao Việt với ước
lệ "Chiều'
1-Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân
tử khăn điều vắt vai
Người quân tử là người chồng, người đàn
ông yêu dấu của mình,
2-Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội nhớ niêu nước chè
Nhớ lúc mẹ con mình, nhớ lúc vợ chồng con
cái mình, quây quần bên nhau quanh cái nồi đồng
chia nhau chút cơm nguội và cháy đáy nồi. Nhớ vào các
bửa ăn vét cơm cháy , khi trời trưa vừa lại nồm . Quá
ngon và quá nhiều kỷ niệm trào về .
3-Chiều chiều đứng
tựa ngỏ sau
Nhóng về quê mẹ ruột đau chín chiều
.
Đến đây tôi tin rằng
Bà Huyện Thanh Quan đang trên đường quay về nhà nơi đó
có chồng và bốn con đang mong đợi bà về .
Câu đề thứ hai có
thể dùng hoặc là , câu F2DQH, "Cỏ cây chen đá, lá chen
hoa"., hoặc là ,câu F2LQN, "_Cỏ cây chen đá, _lá chen hoa!."
. Câu hỏi , Cỏ cây này là cỏ cây nào, ở đâu?.
Cảnh sắc quanh đèo Ngang phải không?. Tôi không tin điều
ấy. Xin đọc đoạn nhận xét này của giáo sư Nguyễn
Văn Trung "... trong bài thơ Qua Đèo
Ngang không hề thấy hình dung từ. Nhìn sự vật, bà
chỉ kể tên mà không chú ý tới vẻ bề ngoài của nó; bà
lãnh đạm với màu sắc, thanh âm, hình dáng của sự vật.
Bà nói tới cỏ cây, hoa lá, núi, nhà, hoàng hôn, trời, nước,
nhưng không xác định cây xanh hay lá vàng, hoặc trời đẹp,
non cao. Bà không chú ý tới cái vẻ bề ngoài của sự vật,
nên không tả nó và không chú ý vì không thèm buồn nhìn ngắm,
không thích thú gì mà nhìn, không muốn hưởng thụ cuộc đời,
vì cuộc đời chẳng có cái gì được
đáng hưởng thụ." (Rải rác từ trang 205 đến trang 211). (*)
.NVT,LKVH ,tập I ,
Ngay trong câu đề thứ
nhất tâm lý bi quan đã dấu kín khéo léo qua cụm từ
" bóng xế tà". Vận nước,nỗi nhà sắp bước vào
thời " khốn cùng " ,Tà! , Xin khách thơ đọc
lại phần đầu cảnh sắc dọc quanh Đèo Ngang, cảnh chùa,
cảnh suối còn không làm bà động lòng huống gì cảnh
sắc trên dốc đèo , "Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ" , "Kiều" . Cảnh sắc này ở đâu?
_Cỏ cây chen đá, _lá
chen hoa!. F2lqn
Cỏ cây là cỏ cây nào? . Đó là cỏ cây, là
lá hoa , mầm sống mọc lún phún,cây nho nhỏ, còi cọc ,
chỉ có chút mầm xanh trên " sinh động . Chúng "CHEN "trên
một cái nền đất vôi khô cằn, chen vào vửa vôi kết
dính bằng mật ,đất vôi len giữa
các viên đá , dựng nên cửa Hoành Sơn Quan. "Cỏ cây
chen đá" một làn nữa nhắc cho
biết , trên cái nền đá
thô ráp của cửa ải đồ sộ, cố vươn lên và
vượt qua số phận nghiệt ngã, lá nơi nầy đâu
có được tươi tốt như được những cây cỏ có được
sống đời bình thường trên nền đất
ruộng. Hoa nơi đây không lớn, nền " khô khốc "
không hề có chút nước hồi sinh. Đá
và đá, đất là bụi thời giando gió đưa vào bám lên
đó. Cây cỏ sống nhờ bụi thời gian. Thi nhân tinh
tế.
Xem hình .
Lúc này bà đang đứng
núp nắng đâu đấy cận cửa ải , tùy hướng nắng
chiều , sau khi vượt nửa cái dốc .Thấm mệt . Tranh
thủ lúc nghĩ mệt, vô tình đảo mắt thấy cảnh sắc này
.. Thế nên,
_Cỏ cây chen đá!, _lá
chen hoa!.
F2lqn
Tìm cái sống trên một nền tưởng chừng
như đất chết
3-2.2
Cặp thực (3,4)
Vai trò của Cặp thực
(3,4) giữ phần triển khai bằng sự mô tả khi câu đề
thứ hai hoàn thành nhiệm vụ . Nó là câu mô tả
về cảnh sắc ngoại quan . Cảnh sắc
sắc thấy được ,sờ được ,nghe được ,quanh ta nhưng
phải chịu sự " đóng gói " theo một chủ đề đã được
vạch ra trong câu đề thứ nhất một cách nhất quán
.
Lom khom , hàm ý khom
lưng vì sức nặng của tuổi tác, vì cuộc sống
kham khổ .
Lác đác ven sông ,
đời sống sông nước lý ra phải sung túc mà nay cũng
xác xơ.
Những gì mắt thấy tai nghe ở câu đề
số hai , chuyển từ cây cỏ nay đã được phóng đại ,
nhìn sang cảnh sắc con người đang sinh hoạt,xác xơ và
khốnkhó . cỏ cây còn thế huống gì người.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông,
chợ mấy nhà.
F2DQH
_Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
_ Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà "? & !".
F2lqn
Thảm quá với hai từ "lom khom", xác xơ quá với
hai từ "lác đác".
Đến đây tạm dừng đôi phút. Văn bản
của giáo sư Dương Quảng Hàm viết "Lác đác bên sông,
chợ mấy nhà". Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn
lấn cấn,Chợ hay là rợ?. Rợ mới đúng?, câu thứ
tư phải là " Lác đác bên sông, rợ mấy nhà". Lý do sự
lấn cấn này duy nhất chỉ dựa vào mỗi lập luận
, vì phép đối câu ở cặp thực (3,4 ) buộc nó phải
là như vậy, bất chấp việc giáo sư Dương Quảng
Hàm đã đọc đúng từ bản gốc .
Lom khom dưới núi, tiều
vài chú,
Lác đác bên sông, ?ợ
mấy nhà.
Vì tại câu 3 , chữ thứ 5 , tiều
là người nên ?ợ phải là người.
Rợ chính là người miền núi thiểu số.
Nếu cho là Rợ đúng thì tại câu 3, 4 ,
chữ thứ 7 , "chú "/người vs ,đối với "nhà"?
vật thì sai Bà Huyện Thanh Quan không non tay như
thế . Bà đối ý lẫn đối từ . "tiều
vài chú" ( người & người ), vs
"chợ mấy nhà" ( vật và vật ).Cách đối của Bà Huyện
Thanh Quan vừa đúng cho cả hai trường hợp, dọc (tiều
/ chú , chợ /nhà ) ,và ngang trong chính câu đó , khi mà
cặp ba tiều vài chú, ( người ,người )/chợ mấy
nhà ( vật , vật ) . Ngoài ra từ " chợ "còn
đáp ứng cả ngữ cảnh cảnh sắc thiên nhiên phía bắc
bờ sông Gianh .Vậy câu dưới đây là câu đúng .
Lom khom dưới núi, tiều
vài chú,
Lác đác bên sông, chợ
mấy nhà.
Và quay lại bài viết . Chợ là nơi hội tụ
sinh hoạt của xã hội. Trên đường về, nhìn về hướng
bắc là bờ Bắc của Sông Gianh, nơi đây có ba trại đóng
quân của nhà Trịnh, mỗi trại có một chợ, nơi đây người
nhà trong các gia đình binh sĩ mua sắm thức ăn và mua bán vật
phẩm cần thiết. Chợ bên sông là nơi biểu thị sự sung
túc nay cũng xác xơ. Nghèo quá đổi. Loạn khắp nơi. Câu
thực (3,4) nhất quán tư tưởng với câu đề thứ hai. Tài
hoa do chặt chẻ. Ngôn ngữ và thủ pháp bậc thầy!.
3-2.3. Cặp luận (5,6 )
Vai trò của cặp luận (5,6) là mô tả " xúc
cảm thực của nội tâm " do từ sự thúc đẩy
trước đó của cặp đối thứ nhất , cặp thực (3,4
) mở lỗi cho cám cảnh ngoại quan tác động vào tâm thức,
lúc này các từ mà Bà Huyện Thanh Quan dùng đôi khi
"câu từ hổ tương nhau" ở các câu kế tiếp nhau. Câu chữ
ở cụm sau bổ sung cho câu chữ ở cụm từ trước, và câu
chữ trước dẫn dắt để đi đến
câu chữ ở phía sau. Tài tình. Cặp luận( 5,6 ) nhờ trớn
từ cặp thực (3,4). Cặp luận nén lại những gì
mắt thấy tai nghe thực tế đã được
câu thực bày ra trước đó, nay biến thành cảm xúc
nội tâm. Tính thống nhất và liên thông dòng tư tưởng của
toàn văn bản phải được tuân thủ
nghiêm túc . Giá trị của hai cặp đối này đối với
người xử dụng bậc thầy như Bà Huyện
Thanh Quan thì cặp thực ( 3,4 ) được ví là các cánh
hoa và cặp luận( 5, 6) chính là nhụy hoa. Để rồi đam
hoa kết trái ở cặp kết(7,8 )
Tìm câu F2 cho cặp
này
Từ F1 ,Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng cái gia
gia.Dương Quảng Hàm dùng lại chính hai câu thơ của F1
làm thành câu F2 cho mình.
Gặp rắc rối tại
cặp luận( 5,6)
Nhớ nước đau lòng
con quốc quốc
Thuong nhà mõi miệng cái gia gia
Do câu F1 các từ không
được cắt ra như khi câu này biến thành câu F2,
buộc lòng chúng ta phải Giải
mã từ vai trò từ "Con và cái trong cặp luận. Con
tùy theo ngữ cảnh,hoặc nó có thể là mạo từ,hoặc nó
có thể là đại từ.
Nếu con là mạo từ,
'Thì F1 , Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc
==> F2 , F2 , Nhớ nước
đau lòng, con quốc quốc
1-Lúc này con quốc quốc là loài chim quốc
quốc.
Chim quốc quốc là chim gì?. Có phải là
chim cuốc cuốc không?. Không, bởi chim cuốc là loài chim
hèn, loài chim này bất nghĩa, bất hiếu đối với
mẹ cha trong tâm thức người Việt. Tâm thức đại chúng
nay còn lưu vết qua câu tục ngữ ca dao. Tâm thức đại
chúng chính là tâm thức dân tộc, luôn luôn được coi
là chính thống, thế nên một vài ý kiến lạc
điệu của một vài người, nhất
là khi họ sinh vào trước năm 1915, thế hệ này
bị Văn Hóa baTàu đè rất nặng
thế nên phát biểu của họ trở nên lạc điệu.
Bài đồng dao các trẻ ca rằng
Cuốc cuốc cụt đuôi
Ai nuôi mày lớn?
Cha mẹ cuốc già,
Cuốc lủi cuốc đi!.
Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam có câu " Lủi
như cuốc". Điều này chỉ rằng, cuốc là một từ hàm nghĩa
xấu xa. Thế nên từ này phải bị loại ra khỏi ý thơ.
2- Nếu "Ai đó" cho chim quốc quốc là chim
quốc của Tàu, là chim Đỗ Quyên.
Điển tích chim Đỗ Vũ bên Tàu lại càng không đúng.
Quan niệm Tàu về tổ quốc trước thể kỷ 20
,họ khác, ta khác. Người Việt không chấp nhận.Chim
quốc của trong tâm thức người Tàu là sự hóa thân
của vì vua lấy vợ thuộc lạ
(xin xem bài đọc thêm về chim quốc trong tâm thức
Việt và Hoa ngay cuối bài này). Vì Tâm thức người
Việt khác xa tâm thức Tàu là luận cứ khiến tôi bác
bỏ câu F2 của sách Ngữ Văn lớp
7 HANOI đã viết như ở phần
I. "Ai đó" dựa vào thủ pháp Ngụy biện" lá bùa" đội
Hán để chống lại với tiền nhân ta, với tôi
đều là vô giá trị. Việt là Việt, Hán là Hán, Tàu
là Tàu. Tôi cho rằng lớp người xưa này, họ bị hạn
chế tầm nhìn bởi ngày ấy sách vở khan hiếm. Họ
đã không có một điều kiện
tiếp cận văn bản tốt như chúng
ta ngày nay. Sự áp đặt vào cách hiểu của cá nhân
mình, do từ chính mình ôm học thứ văn hóa Tàu Hán
ấy để mong chút công danh, đó là điều hoàn toàn
đi ngược lại tâm thức người Việt trong thế
kỷ 21. Với tôi,ý kiến này chỉ có tính cách trà dư
tửu hậu, chuyện ngồi lê của các người dở hơi.
3 - nếu "Ai đó" tiếc câu F2, "nhớ nước
đau lòng, con quốc quốc" và cho rằng "con quốc quốc "là
chim quốc theo tâm thức Việt, con chim gắn liền với
âm quốc, gợi nhớ nước non, cội nguồn, thì điều
này sẽ dẫn đến điều nghịch lý ở câu luận số
6 tiếp sau nó. Theo luật thơ thất ngôn bát cú, cặp
luận( 5, 6), phải gồm hai vế đối rất chỉnh, thế
nên: "Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc sẽ dẫn đến
câu "Thương nhà mõi miệng,cái gia gia". Con quốc quốc,
là loài chim, con là mạo từ, thì "cái gia gia" phải là
loài chim và cái là mạo từ. Bà Huyện Thanh Quan đã
viết "gia gia" với ký tự nôm là '[ 家 家] chỉ
được đọc là âm gia hay da mà thôi,không có ĐA gì trong
này. Trong ngôn ngữ Việt không có một loài chim
nào có tên là gia gia hay da da cả. Vậy cái gia gia không
tồn tại, lúc ấy cách hiểu "con quốc quốc" cũng không
tồn tại. Nếu cho rằng, gia gia là một âm Tàu tiếng
gáy của loài gà gô, theo lỗ tai của người Tàu,Tàu
nghe ra là "gia gia" , điều này càng sai.Việt là Việt,
Hán là Hán, Tàu là Tàu. Tai người Việt không nghe giống
như người Tàu. Họ không sao nghe được âm gia gia khi gà
gô kêu. Hai tố chất khác với hai tâm địa
quá khác nhau, hai tính cách dẫn đến hành xử
khác nhau. Một khi hai ngôn ngữ nói khác nhau, thì không
thể, hay quá hiếm, để họ cùng hiểu như nhau được
một âm thanh do cùng một giống chim rừng kêu. Như đã
nhắc bên trên, tâm thức đại chúng Việt áp đảo
tâm thức của một vài anh đội Hán. Quảng Nam quê
tôi có câu hát ru con
"Con chim đa đa
Đậu nhánh cây
da
Lắc la lắc lẻo
Con chim chèo bẻo
Đậu nhánh măng
dòi " .
* măng dòi (âm đọc
là măng vòi, âm viết ). vòi là vật có dạng cong
cong như cái vòi voi.
Vậy là chim đa đa
của Việt Nam là một loài chim rừng bay được, khá
dữ,không e dè ngay cả với loài chim dữ, chim chèo bẻo.
Chim đa đa Quảng Nam không như con gà gô như của Tàu đi
lạch bạch và làm ổ dưới đất. Gà gô Tàu gáy "gia
gia" và chim đa đa Việt thì gáy "Bát cát, quả cà",
hót liền bốn âm rất nhanh, "Bát cát
,quả cà! Bát cát .quả cà! Bát cát, quả cà!"
khi từ cành đa với đôi mắt láo liên ,chim vụt bay qua
không gian ngang đầu. "Bát cát ,quả cà" nhắc lại câu chuyện
thương tâm mà thằng bé mất cha sống với người mẹ,bà
đã bước thêm bước nữa. Bà mẹ trẻ đã không bảo
vệ được đứa con mình. Bà đã để anh chồng
sau dở trò mất dạy. "Bát cát ,quả cà" là lời tố
cáo của trẻ thơ bị hại khiến bố dượng phải đền
tội. Tâm thức Tàu quá nhiều đau
khổ bởi lòng người bọn đại Hán quá nhiều
mưu sâu hịa người,thế nên Gà gô Tàu kêu hai tiếng
"gia gia" nhớ nhà buồn bả. Một khi không am hiểu tình
tự dân tộc thì dựa Hán là thuộc tính của
bọn người có học Hán. Bọn ĐẠI HÁN vô ơn đang được
nước ta cưu mang từ đây xuyên tạc. Bọn trẻ mất dạy
ùa theo. Văn hóa Việt lại bị nhiễm bẩn. Vậy
là cả trong hai câu trong cặp luận(
5,6) , câu 5 đã không tồn tại cụm "con quốc quốc"
thì câu 6 sẽ không tồn tại cụm "cái gia gia ," . Hiểu
sai, giải bậy, ngoan cố không chịu sửa là một tội
ác với trẻ thơ Việt,tội đầu
độc tư tưởng trẻ.
Kết luận "Con' mang vai trò "mạo từ" của
trong cụm "con quốc quốc" đã bị
loại, câu F2Hanoi phải bị loại.
Nếu con không là "mạo từ"
thì phải là đại từ
Một khi "con" là đại từ thì "cái" cũng là
đại từ . Con là tôi,ngôi thứ nhất. Và Cái cũng là tôi.
Cái là từ chỉ có người mẹ Việt Nam dùng. Tục ngữ
Việt Nam có câu "Con dại, Cái mang .".Từ đó
Câu luận ( 5,6 ) được viết thành dạng F2 LQN là
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
Câu F2LQN, Có dấu chấm câu ở ngay sau từ "con"
và "cái". Và quốc quốc, gia gia nay
lại mang hai khái niệm hoàn toàn phù hợp với cặp đề
(1,2 ) với một bố cục chặt chẻ và ngôn từ "tinh lọc"
Bà Huyện Thanh Quan là nhà thơ nằm ở đẳng cấp khác.
Qua xuất xứ đã khảo sát, xét bối cảnh lịch sử dân
tộc và bối cảnh gia đình của tác giả, cộng với chủ
đề đã được xác định ở câu
đề thứ nhất, Bà Huyện Thanh Quan đã cố tình chọn
lựa bối cảnh chạm mặt Đèo Ngang vào lúc bóng chiều
đã ngã về tây. Độc thoại nội tâm cặp đề
(1,2 ) , " _Nhanh nhanh lên e mình không còn thời gian cứu
vãn, " đổ vở " rồi ". Thêm vào đó
ý thơ được triển khai ở câu thực (3,4), rõ ràng
Nữ sĩ đã bảo vệ thành công "hệ tư tưởng "của mình
thống nhất trên toàn văn bản.
Đây là bài thơ ưu tư về tổ
quốc lẫn thương nhớ gia đình nhỏ của mình, chồng
và bốn con. Câu luận số 5 với dạng F2LQN hổ trợ câu luận
F1. Câu thơ nay đã rõ ý, không cần phải chắp thêm lời
có cánh cho câu nguyên tác.
Giải mã câu luận 6 .
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
Cái là đại từ dành
cho "người mẹ, đại từ "thậm xưng. Gia gia là từ Hán
Việt biến thành từ Việt Hán tùy ngữ cảnh.
Gia là nhà ,trong nghĩa thứ nhất. Gia còn có nghĩa thứ
hai, nó được hiểu là "người lớn nhất trong
gia đình", Gia là người chủ gia đình ,Việt ngữ có
từ "gia chủ" ; Bà hướng đến, chính là người
chồng yêu thương bà từ quê nhà đang
ngày đêm thương nhớ Bà. Gia Gia còn là tiếng vợ
gọi chồng,từ khẩu ngữ của một vài gia đình có
học thời xưa. Vậy , gia là gia đình,
là mái ấm gia đình ta. Câu "Thương nhà mỏi miệng
cái! , _ gia !gia!". Hàm ý, mẹ đây
luôn nghĩ về, luôn luôn nhắc đến gia đình ta. Mẹ luôn nhớ
đến bốn con của mẹ. Rất tinh tế, than thầm và
khóc thầm, lo âu cho vận nước
trước khi tỏ rõ lời thương nhớ gia đình nhỏ của
mình ,nơi đó có chồng và bốn con. Chuẩn bị cho ý
thơ của cặp kết(7.8 ) .Tuyệt hảo! .Tài hoa !
Xin đọc lại và so
sánh hai câu F2, F2DQH ,không có dấu chấm câu.
Nhớ nước đau lòng
con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Với âu F2LQN, có dấu chấm câu ở ngay sau từ
con và cái
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
Mỗi F2 có một độ
cảm xúc khác nhau.
3-2.4 .Cặp
kết(7.8 ) ,Vai trò của cặp kết?.
Câu kết là câu kết thúc bài thơ. Người
đọc còn nhớ bài thơ hay tác giả
là từ cột mốc nơi đây. Cặp kết (7.8 ) luôn để
lại dư vị sau cùng.Trong dòng thất ngôn bát cú ,câu số
7 gọi là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối cùng là "hợp".
Người làm thơ thất ngôn bát cú đầy kinh nghiệm ,hạng
siêu sao, thường khi làm câu kết trước khi gieo vần câu
đề. Hai cặp thực (3,4 ) luận( 5,6) làm sau cùng bời
người Việt mình có thói quen
thích đọc cặp đối đầy kỹ thuật. Được kỹ thuật
thì mất ý. Người làm thơ với hai cập đối này
đạt cả hai rất hiếm. Chơi chữ cần nhiều thời
gian, ý đạt mới là điều quan
trọng. Như mọi cặp khác, câu đầu là câu dẫn đường
vào.Với riêng cặp kết(7.8 ) là làm sao cho ý thơ của
sáu câu trước câu số 7 lan tỏa ra một lần nữa như
một sự nhắc nhở và trước khi khách thơ được thi
nhân dẫn ra từ một khung cửa hẹp đày hoa khiến
khách thơ ngoái nhìn lần cuối.Câu
thơ này đẹp quá, Cặp kết (7,8)
Dừng chân đứng lại
trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
F1BHTQ
Bà Huyện Thanh Quan đã
đạt đến đỉnh cao mô tả bên trên. Để chia sẻ
cùng khách thơ, laiquangnam xin khách thơ dừng lại và cùng
ngẫm về các ẩn dụ qua từ mà nữ sĩ đã dùng
Dừng chân đứng lại
trời non nước,
Trong câu trên có hai đông
từ đều chỉ động tác kéo thời gian ngừng lại.Đó
là một sự níu kéo, trì kéo vô cùng tinh tế
của người xưa.
Dừng chân đứng lại
trời non nước,(F1BHTQ)
"Dừng chân đứng lại",
hay "Dừng chân; đứng lại".hay "Dừng chân; đứng lại!" ,và
"Dừng chân đứng lại" để làm gì?,
mục đích gì ? . "Dừng chân đứng lại ",theo F2 của
Dương Quảng Hàm "Dừng chân đứng lại: trời, non. nước,",Bà
Huyện Thanh Quan " Dừng chân đứng
lại" để ngắm cảnh sắc quê hương nơi đây lần nữa
chăng?. Đẹp quá ! .?. Từ đây mà 60 năm qua, nhiều
người bình bình bài thơ này cho rằng Bà Huyện
Thanh Quan đang trên đường vào
kinh thành Huế nhận nhiệm sở. Suy nghĩ như thế
sẽ phải giải quyết điều nghịch lý theo sau , vì cặp
luận (5,6)
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia!
Nhận nhiệm sở, lẽ ra lòng nữ sĩ phải
phấn chấn, bởi Bà vừa mới ra đi chưa được bao lâu,
lẽ nào lại như thế. Hai nữa, trong toàn văn bản không
hề có lấy một từ ngợi ca cảnh sắc Đèo Ngang, toàn
văn bản chỉ có các từ buồn đến rơi nước mắt.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung ghi nhận bài thơ này với
tổng kết, đại ý như sau "... một
nỗi lòng, một thái độ chán sống, bởi đời này
đâu có gì vui" .
Một suy nghĩ khác về cặp
kết(7.8 )
"Dừng chân đứng lại",
hay "Dừng chân; đứng lại". hay "Dừng chân; đứng lại!" ,và
"Dừng chân đứng lại " để làm gì?, mục đích gì ?
. F1 "Dừng chân đứng lại ", ==> F2LQN, "Dừng chân; đứng lại!"
.
Tại cặp đề (1,2
),nội dung bài này là nước nhà qua phân, dân chịu cảnh
nồi da xáo thịt, đời sống dân đen không sao khá nổi
và không sao kham nỗi sức đòi hỏi của triều đình
của các đời trước . Nhìn xưa nghĩ nay và cảnh nhà
chồng đau, bốn con đang chóng chọi với cuộc đời,
tất cả đều xảy ra vào thời điểm 1847,như đã nêu
. Tuồng như , ....? , ! , " ...nước mắt nữ sĩ cứ mãi
tuôn trào ": . Mắt mờ lệ. Lệ chảy cần lau khô. Quê
hương nay nhìn qua màn "sương khói ". Vong quốc sử!. Tâm trạng
của Bà Huyện Thanh Quan lúc này là:
"Một bước chân
đi, một bước dừng,
Lau làn lệ chảy mãi khôn ngưng,
Chàng ơi!, gắng gượng qua cơn sốt,
Đất nước ngàn
năm !, sắp khốn cùng !".
Điều mà laiquangnam
mô tả trên đầy chất bi quan và chán sống chăng? Phi thực
tế chăng?. Khách thơ đọc lại bản văn. Ngôn từ thể
hiện trong 8 câu thơ của bài thơ Qua Đèo Ngang đều phù
hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước này vào
năm 1847 cũng như với gia đình bà. "Dừng
chân đứng lại trời non nước" F1BHTQ Được hiểu, nước
mắt rơi theo từng bước chân thi nhân, vừa chậm dòng
nước mắt tuôn trào, trời ơi , trời ; " trời !" ; "_
non nước" tươi đẹp này, sẽ còn hay mất, khi mà giặc
Pháp vừa bắn chìm hai tàu đồng tại cửa Thuận An;
mà nhà vua ta, một ngày lâm triều, một ngày bỏ
triều chính vào hầu hạ mẹ. Bọn
quan lại, quan văn, quan võ nhắm đui con mắt lại "bưng bợ
" mong vua được hài lòng, cỏ súy kế hoạch xây
Khiêm Lăng của ông vua Tự Đức.
Rằng cần có một chỗ cho nhà vua ra đây tìm thi tứ
", trời ! _ non nước ! ",sẽ về đâu. Nỗi niềm
này biết ngỏ cùng ai. Chàng ơi chàng, con ơi con, "Thương
nhà mỏi miệng cái , gia, gia"
câu luận (6) .Lúc này đây, nước non và cảnh nhà nào
biết cùng ai chia sẻ. Cô đơn tuyệt đối.
_Dừng chân, _đứng
lại!, trời! _ non nước?,
Một mảnh tình riêng, _ ta với ta!.
F2lqn
Nước
mắt rơi,mờ lệ trên đường về ....
Rùng mình vì tương
lại đất nước thân yêu này trong vài ngày tới.
Chạnh lòng nhớ đến "Người chồng yêu nay đang
đau tại quê nhà". Thế nên
chúng ta thấy ngay trong 56 từ được dùng trong bài thất
ngôn bát cú này hoàn toàn không có một hình dung từ
nào mang âm sắc "tích cực", đó đây chỉ là nhuốm
một màu "tiêu cực ", "tiều tụy" , lan tỏa gần
như suốt chiều dài của bài thơ,
đúng như những gì mà giáo sư Nguyễn Văn Trung, với
cái nhìn của một triết gia, một giáo sư phân tích
văn học ở bậc đại học, ông
đã phát hiện qua 56 từ. Trong giáo trình dành cho sinh
viên Đại học Văn Khoa ,SaiGon, nhận
xét về bài Qua Đèo Ngang :"... trong
thơ Thanh Quan, không hề thấy hình dung từ. Nhìn sự vật,
bà chỉ kể tên mà không chú ý tới vẻ bề ngoài của nó;
bà lãnh đạm với màu sắc, thanh âm, hình dáng của sự vật.
Bà nói tới cỏ cây, hoa lá, núi, nhà, hoàng hôn,
trời, nước, nhưng không xác định cây xanh hay lá vàng, hoặc
trời đẹp, non cao. Bà không chú ý tới cái vẻ bề
ngoài của sự vật, nên không tả nó và không chú ý vì không
thèm buồn nhìn ngắm, không thích thú gì mà nhìn, không muốn
hưởng thụ cuộc đời, vì cuộc đời
chẳng có cái gì được đáng hưởng thụ." (Rải rác từ
trang 205 đến trang 211). (1*
)
Người Việt Nam, Người làm thơ và bình thơ,
đọc bài thơ này với cách chia dòng thơ thất ngôn bát
cú, tám câu thành bốn cặp với bốn chức năng theo một
quy ước chặt chẻ, đề,thực
luận và kết. Hiếm có bài thơ nào của Việt Nam và
Tàu được sáng tác một cách khéo
léo như thế, thơ Tàu đời Đường e cũng khó gặp. Người
làm thơ và bình thơ,nay thường đọc bài thơ thuộc
dòng thơ thất ngôn bát cú qua kiểu bình thơ Đường
của Kim Thánh Thán, phân bài thơ thành hai khổ ,tiền
khổ và hậu khổ, thì bài thơ càng thêm hay. Danh tác
là vậy .
Tiền khổ
Bước tới..."Đèo
Ngang"!,_ bóng xế tà!
_Cỏ cây chen đá, _lá
chen hoa!.
_Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
_ Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà "? & !".
Hậu khổ
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
_Dừng chân, _đứng lại,
trời! _ non nước?, & !
Một mảnh tình riêng, _ ta với ta!.
Kịp về đến
quê nhà vào năm 1847, gặp chồng
không được bao lâu, ngay trong năm này chồng mất, năm sau
1848 bà mất. Cả hai người đều đang ở độ tuổi
chín muồi tình vợ chồng. Lệch nhau một tuổi, đều
ở lứa tuổi 43-44. Nếu thời gian ngừng trôi
thì nữ sĩ cùng chồng đều cùng tuổi đời 43 gặp
nhau tại cõi vĩnh hằng .
Có lẽ nỗi đau mất
chồng làm bà suy sụp và quá buồn phiền. Bài thơ
Qua Đèo Ngang chính là trang nhật
ký đầy nước mắt, nỗi buồn kéo dài trên từng
bước lữ hành của nữ sĩ
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
_Dừng chân, _đứng
lại, trời! _ non nước?, & !
Một mảnh tình riêng, _ ta với ta!.
Từ lý do đó, Bà
Huyện Thanh Quan đã ra đi nhanh đến như thế. Niềm
an ủi lớn nhất cho họ, bởi cả hai vợ chồng người
gốc gác ThăngLong này đã không
chứng kiến cảnh đau lòng vì Việt Nam vào giờ "vong
quốc sử". Năm 1862 mất ba tỉnh miền đông (nếu ông
bà sống thì vào thời điểm này
họ (58 tuổi). Năm 1874 mất ba tỉnh miền Tây, (nếu
ông bà sống thì vào thời điểm này họ (70 tuổi ).
Năm 1884 thì Việt Nam bị vong quốc hoàn toàn ( nếu ông
bà sống thì vào thời điển này họ 80 tuổi). Sống
lâu mà sống trong trong ô nhục mất nước thì liệu sống
lâu có là đáng sống . " sống
lâu là kẻ có phước có phần ", Hai Kẻ sĩ hẳn quyết
liệt lắc đầu.
Đọc
lén trang nhật ký vào năm 1847 gồm 200 từ của Nữ sĩ
Hà thành .
Chạm măt Đèo Ngang,
ta bước vào Hoàng Sơn quan trú nắng vào lúc cuối chiều.
Trên nền đá thô ráp
của ải quan, ta thấy từng ngọn cỏ chen nhau sống; vậy mà,
cũng có những bông hoa nhỏ khoe màu trên kẻ đá.
Dưới chân Đèo là
vài người tiều phu lom khom làm việc. Đau lòng ta. Đưa mắt
nhìn về phía bờ bắc sông Gianh, vài ba ngôi chợ của do nhà
Trịnh xây cất. Xưa là nơi thị tứ, nay cũng đà nhuốm vẻ
hoang sơ.
Chạnh lòng, ta nhớ
đất nước này, tổ quốc này vào thời xa xưa.Tổ quốc ấy
đã cho ta đã những ngày vui và an bình.
Lòng ta như lửa cháy.
Không biết giờ này chồng ta đang đau ốm ra sao. Bốn con ta
không biết đói no thế nào?. Cha con họ liệu có đở đần
cho nhau chu đáo?.
Lòng bồn chồn. Ta phải
dừng bước nhiều lần. Lau nhiều lần mà không sao làm
khô được dòng nước mắt ràn rụa khi nghĩ về tổ quốc
mình sắp đến hồi lâm nguy,vong quốc vì nay giác Pháp đã
đến tận cửa rồi.
Vận nước, nỗi nhà,
nỗi lòng này nào có ai chia sẻ được với ta.
Và F2lqn
Bước tới..."Đèo
Ngang"!,_ bóng xế tà!
_Cỏ cây chen đá,
_lá chen hoa!.
_Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
_ Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà "? & !".
Nhớ nước đau lòng
con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ gia !gia! .
_Dừng chân, _đứng
lại, trời! _ non nước?,
Một mảnh tình riêng, _ ta với ta!.
4- Thay lời kết
Một là
Danh tác Qua Đèo Ngang
của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan đã gói gọn trong tám
câu bằng chữ nôm, thứ chữ quốc ngữ, âm sắc Việt
100% đã bị chìm khuất trong hơn 70 năm qua với nhiều
lời bình có cánh. Nhiều giả thuyết " sai trái " được
đặt ra, làm bài thơ danh tác Qua Đèo Ngang bị vấy bùn
khi "Ai đó" GOOGLE SEARCH trên mạng internet nhận ra ngay, bởi
nó không được giải mã một cách rạch ròi, chỉ cần
' kỹ hơn trước một chút ", sao bấy nhiêu lâu nay
lại không chịu làm .
Đã có nhiều cách
chèn kín đáo, đầu độc tư tưởng con trẻ Việt
từ nhiều cái đầu đội Hán
của ta có ăn học lẫn từ bọn đại Hán mang quốc tịch
Việt . Các "học giả" đội Hán nặng nề này hoặc
đã vô tình hoặc đã cố ý chèn văn hóa Hán tộc
vào đây. Mọi sự lý giải đều đi mỗi lối mòn, vọng
Hán tộc. Họ đã phạm lỗi khi chèn vào đầu con trẻ
hiểu sai các câu thơ (5,6 ) . Họ biến các từ thiêng
liêng đối với sắc dân Lạc Việt,
"quốc, quốc , gia, gia" thành các
con chim theo tư tưởng Tàu Hán. Chính các từ quốc quốc
gia gia , nước nhà này đã làm cho tổ quốc này đứng
vững ngàn năm trước sự đe dọa và xâm lăng dai dẳng
của sắc dân Hán, trong khi 99 dòng Việt khác
đã diệt vong hay đã bị sáp nhập vào Hán từ ngàn
năm trước.
Tư tưởng và văn hóa
Tàu Hán đã len vào từ đây, từ bài thơ danh tác này,
kéo dài từ thế hệ trước chúng tôi đến thế
hệ sau chúng tôi. Sách Giáo khoa ở bậc lớp 7, hiện
nay đang là nơi chứa nọc độc
này. Hiện tượng này, sự ô nhiễm này được
xóa sạch khi có các bản văn F2 tốt song hành bên bản
văn F1 của tiền nhân ta .
Hai là
Giá trị lớn thứ nhất
của bài thơ Qua Đèo Ngang là giúp chúng ta tìm gặp
được phong cách qua câu hỏi , "Hồn
người phụ nữ Hanoi muôn năm cũ" đâu rồi. Chúng ta nay
đã biết sợ với câu hỏi quá " rùng mình": "Tại
sao cái hồn Việt vô cùng đẹp của
người người phụ nữ Hanoi năm xưa nay lai không còn
một chút dấu vết gì trong đời sống hiện nay?". Nói một
cách kém bi quan hơn là " quá khó " để tìm gặp "Hồn người
Hanoi muôn năm cũ" vào năm 2016 này tại Việt Nam.
Ba là
Mục đích khi giải
mã bài thơ Qua Đèo Ngang này là nhằm giúp cho các
em học sinh ở bậc học phổ thông hiện nay có
thêm một tí một hành trang đủ
trọng để vào đời.
Giúp bọn trẻ tự tin rằng, khó ai trả lời được câu
hỏi của bọn trẻ , chắc gì đã có một bài trong
số 15 bài thơ Đường dòng thất ngôn bát cú
mà bọn trẻ phải học trong bậc học phổ thông có được
một bài thơ có "nội hàm sâu sắc" về tư tưởng lẫn
ngôn từ rất đỗi tài hoa và bố cục " đẹp
và chặt" đến thế này. Bài thơ Qua Đèo Ngang đã minh
họa dòng thơ thất ngôn bát cú kiểu Việt nam,
nay được bố cục như thế nào, và cách mà nữ sĩ
đã " nén " ý thơ rất sâu về hai chủ đề, một là
tình tự dân tộc, nhắc người
lớp sau đọc lại lịch sử nội chiến, hai là tình gia
đình luôn réo gọi trong tim, bài thơ Qua Đèo Ngang đã
thể hiện được tình nhà
đến độ "quá mẫu mực và rất giáo khoa "đến như
thế. Giúp bọn trẻ cũng cố lòng yêu nước, cũng
cố miềm tin rằng, mình "dư sức kháng cự "lại tư tưởng
"hèn " mà thầy cô trong nước hiện nay hàng ngày đang
cố nhét vào đầu mình tư tưởng vọng Hán, quy Hán do
vì một lý do hắc ám, phát lệnh từ cấp trên, mà ngay
cả chúng ta cũng không hề được biết, hay được giải
thích một cách tường mình huống gì bọn trẻ.
Cuối cùng ,
Tạo niềm tin ,rằng
đã có chân lý , " Việt ngữ chúng ta quá lung linh
và kỳ ảo" mà rất nhiều người Việt có học ,đầy
người bằng cấp cũng không làm sao am hiểu Việt
ngữ được hết tính đa dạng của nó. Tàu ngữ trong
họ cho dù rất giỏi, họ cũng 'âù ơ ví dầu', ú ớ
, bình bậy, chú nghĩa bậy.
Từ yêu thơ, yêu tiếng Việt đến yêu tổ
quốc là bước đường vô cùng
ngắn. Nó chính là cái neo phải ném xuống nước trước
tiên khi con thuyền Việt Nam
đang tứ bề thọ địch,có khả năng chìm hẳn như hiện
nay thế hệ chúng ta đã thấy. Người thủy thủ tuổi
teen phải vững tay chèo với lòng đầy phấn khích,tự cứu
mình, bởi lúc ấy,lớp chúng
ta đã thành người thiên cổ mất rồi. Thương
thay thế hệ 70,80 với cái nhìn đầy bất lực. 70 tính
từng tháng , 80 tính từng giờ. Ngậm ngùi.
Những ngày ngột ngạt cuối tháng năm, 2016,
Laiquangnam
----0o0o0--
5- Nguồn link tham khảo
*NVT,LKVH ,tập I ,NVT là Nguyễn văn Trung;
LKVH là Lược Khảo Văn Học
(1 ) Nguồn Wikipedia đúc
kết từ nhiều sách uy tín nhất của VNCH lẫn Hanoi
,
Có từ nào không hiểu ,xin đọc lại bài thứ
nhất, phần thứ nhất ,cùng tiêu đề
(2 ) từ bài viết của Nguyễn Tôn Hiệt đăng
trên trang talawas tại link (1 ) http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14440&rb=0106
Nguyễn Văn Trung , Lược
khảo văn học, tập 1, xuất bản tại Sài Gòn vào năm
1963 (Xuân Thu in lại tại Hoa Kỳ, 1990),
(** Dùng hình dung từ nghĩa là chú ý tới sự
vật và tin vào cái vẻ bề ngoài của nó để nhìn ngắm,
lĩnh hội.....NVT ,LKVH .
(3) Thỉnh thoảng thử
đọc lại, nghe rất đổi ngậm ngùi .Thử nghe và cố
nhận ra sự lung linh với âm sắc Việt ngữ của người
thầy giáo có cội nguồn xuất phát từ miền Trung
eo gió cát đầy "màu sắc "
Nhớ nước đau lòng
con!, _quất!, quất! ,
Thương nhà mỏi miệng cái! , _ da !da!
_ quất!, quất! , là âm thanh của làn roi
quốc vào người nô lệ mất nước.
_ da !da! là tiếng kêu đua
thương của người người phụ nữ Đại Việt ,
phải cam tâm cắn răng nằm trân
mình chịu trận khi bị giặc phương Bắc hãm hiếp. Họ
đang cố mà chịu đựng,người phụ nữ cần sống sót
để nuôi con và nuôi mẹ già. Bọn đàn ông Việt nay đang
ở đâu. Trong một câu truyện ,
nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn viết , .... " khi thằng TâyđenGạch
(bọn lính Lê Dương người Phi) mặt kéo lê người người
vợ mình vào ổ rơm để thỏa mãn thú tính ,người
đàn ông từ căn hầm bí mật
lén nhìn ra. Người đàn ông Việt này không nghe
tiếng rên và sự vùng vẫy tuyệt vọng của vợ mình
mà vì lòng ghen . y chỉ nghĩ đến sự kiện "như là
một sự đồng tình " . Xong việc
,tây kéo đi . từ căn hầm ,y nhảy lên tát vào mặt vợ
,kèm theo lời mắng cay độc , bộ sướng lắm sao mà
hẩy hẩy hở con kia . " . Cha mẹ làm thinh trước giờ
vong quốc sử đã khiến con gái mình phải trả
giá khi làm người mất nước .
4) Vào GOOGLE SEARCH gỏ từ khóa , "Cái gia gia
là con chim gì?" , bạn sẽ giật mình đọc
được nhiều bài viết . Tại sao lại có kẻ lếu
láo như thế đối với tiền nhân ta.
==========0o0===========
Kỳ tới xin mời đọc
Laiquangnam
giới thiệu phần III nằm
trong loạt bài
Thử tìm một giải pháp
khác khi giới thiệu dòng thơ cổ của tiền nhân
Laiquangnam giới thiệu phần
III
III-Trường hợp thứ hai ,bài thi kệ danh tác
:
Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư
Bài thi kệ thể hiện nét độc
đáo của dòng Thiền Đại Việt . laiquangnam giải mã kỹ
để xóa sạch vết bẩn do đám ruồi bọ tấn
công tư tưởng của tiền nhân ta. Việt là Việt, Hán
là Hán, Tàu là Tàu. Làm sao mà một câu thơ F1,"Hữu
thời trực thướng cô phong đỉnh" của Không Lộ thiền
sư lại giống y chang một câu thơ Đường của một
thi nhân Tàu Hán "Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh"
cho được. Từ sự thiếu am hiểu này, "cácthầy"
giáo sư tiến sĩ hoặc là đang
dạy tại trường ĐHkhoa Văn hoặc đang làm việc tại Viện
Hán Nôm nhất định đòi bóc bài thơ này ra khỏi
chương trình phổ thông hiện nay vì Không Lộ thiền sư
là người "đạo văn". Trời
đất!
|