I-Tổng
quan
Lạc Việt là một
dân tộc thông minh, là sắc dân duy nhất trong dòng Bách Việt
chận đường tiến về phía nam của Hán tộc. Việt là Việt,
Hán là Hán, Tàu là Tàu. Lạc Việt có một sắc thái
rất riêng, có một gien đặc biệt thế nên họ không hề
cam tâm chịu khum mình để mong được đồng hóa, để mong
có được một sự yên thân đầy ô nhục như người Sở,
người Việt Đông, cháu con của Việt Câu Tiển thời chiến
quốc bên Tàu. Các dân tộc vừa kể cùng 99 dòng Việt khác
đã vong quốc từ bao đời nay. Trong kho tàng văn minh nhân
loại, dân Lạc Việt đã có các phẩm vật vô cùng quý giá
do tiền nhân họ để lại. Đoạn Trường Tân Thanh, Bộ
Bài Tới Quảng Nam và nhiều báu vật đang tiềm ẩn khác
nữa sẽ lần lượt xuất hiện sau khi "nó" được tẩy xóa
thật sạch sẽ mọi sự nhiễm bẩn vì người "Hántộc
rảy mực lên lýlịch" của nó. Do vì lệ thuộc chặt vào
chữ viết của người cai trị mình trong hàng ngàn năm, người
ĐượcHọcHành mà phần lớn sinh trước thế kỷ thứ 20
chỉ có mỗi nguồn sách vở do người Tàu cung cấp. Như
con ngựa bị bịt mắt, họ chỉ thấy mỗi nền văn hóa Hán
tộc. Họ bất chấp sự thật bày ra trước mắt, dẫu biết
rằng dân tộc Việt đã có một nền Văn hóa rất riêng
được tạo thành trong suốt 500 năm độc lập kể từ ngày
chiến thắng Bạch Đằng. 500 năm văn hóa nay đã hầu như
bị mất sạch khi dân tộc này bị 20 năm Minh thuộc. Khi mở
cửa kho văn hóa Việt; nhiều báu vật tạm thời bám bụi
vì phải chờ được người giải mã; nhiều người Việt
ngày nay nhắm mắt dùng bừa thủ pháp Ngụy biện" lá bùa"
Quy Hán (1) để giải quyết. Sự quy Hán với thủ pháp
Ngụy biện" lá bùa" Hán tộc nay được đem áp lên các
bài cổ văn của dân Lạc Việt lại được các phương tiện
truyền thông đại chúng hổ trợ. Tại sao lại ra nông nỗi
này?. Một trong các nguyên nhân gần là người giới thiệu
bản văn F2 (2 ) quá kém, hoặc là bộ môn giảng văn Việt
về các thơ văn cổ của tiền nhân ta hiện nay chưa phát
triển đúng tầm với sức học của họ, thế nên các bản
văn F2 không đa dạng. Mỗi bản văn F2 chính là một bài giảng
văn của một người bình giảng dấu mặt.Giáo sư Thạch
Trung Giả viết trong tập sách Giáo trình Văn học Phân tích
Toàn thư cho SVĐHSP VẠN HẠNH trước 75 về vai trò giảng văn
như sau:
"THIẾU GIẢNG
VĂN, MỌI MÔN CỦA VĂN HỌC THÀNH TRỐNG RỖNG. Giảng văn làm
khởi điềm cho tất cả. Không có bài lý thuyết nào thay được
việc trực tiếp với tác phẩm cũng như không có thứ nhạc
học nào thay cho những bản nhạc của những tay thầy - nó
chính là dẫn chứng linh động cho lý thuyết, nó chính là
vật liệu để kiến trúc thành những bài nghị luận văn
chương về một tác giả, một thời đại tức là văn học
sử. Giáo sư Daniel Mornet trường Đại học Sorbonne, đã nhận
xét rằng thí sinh cử nhân không sợ những bài nghị luận
tràng giang về một trào lưu văn học bằng một bài bắt phân
tích một đoạn thi văn. Một cựu sinh viên trường Văn Khoa
Đại Học Việt Nam bây giờ là Hiệu trưởng một trường
Trung học có kể lại một kỳ thi lấy chứng chỉ cử nhân
mà hàng trăm sinh viên cắn bút trước một bài đoản thi
4 câu - chỉ vài người giải nổi.
Giảng văn làm
khởi điểm cho tất cả, một công trình khảo cứu văn học
lớn nhỏ thiếu yếu tố này chẳng khác gì lâu đài hàng
mã - và chính tôi cũng nhiều lần đỏ mặt trước những
bộ phê bình văn học đồ sộ mà tác giả thiếu căn bản
giảng văn. Những cái nhìn bao quát về những thời đại,
những trào lưu văn học có bề ngoài như cao rộng, nhưng thực
chất trống rỗng, có khi còn giả trá vì tác giả chẳng những
đọc vội bản văn mà còn thiếu thanh liêm đến mực nhặt
nhạnh những nhận xét cùa người khác, nhặt nhạnh quá nhiều,
thay cho việc đọc sách của chính mình chẳng khác gì người
viết du ký bằng tưởng tượng, hay thằng lùn làm xiếc,
đứng sau đám đông cũng bắt chước vỗ tay hầu la ó.
"
Trong một đoạn
khác giáo sư Thạch Trung Giả viết tiếp
"LUẬT DARMESTETER
: NGÔN NGỮ SINH HÓA
......" chúng tôi
chỉ cần nhấn mạnh vào một điểm này, là sự biến nghĩa
theo thời đại, theo tác giả, theo vị trí lời văn....." Nhà
ngôn ngữ học Darmesteter phát biều một định luật là : "Ngôn
ngữ có sinh hóa như một sinh vật. Nếu một sinh vật trải
qua 3 thời kỳ ấu trĩ, trưởng thành, lão suy thì ngôn ngữ
cũng có 3 thời kỳ : thô sơ với một vài nghĩa, phong phú
với nhiều nghĩa tế nhị và cuối cùng mất hẳn nghĩa sâu
xa chính yếu."
-
Vài định nghĩa ban đầu : Nguyên tác, bản văn F1 và bản
văn F2.
Nguyên tác là
bản văn gốc do chính tác giả công bố. Bản văn này được
gọi là bản văn F1. F1 có thể là bản văn phiên âm từ
thứ chữ Hán sang Hán Việt bằng chữ quốc ngữ, hay
F1 là một bản văn chuyển từ ký tự "chữ nôm" sang "chữ
quốc ngữ" ngày nay.
Dòng thơ thất
ngôn bát cú viết bằng chữ Nôm của ta và thơ chữ
Hán của Tàu đều không có sự can thiệp dấu chấm
câu như thứ chữ quốc ngữ của chúng ta hiện nay. Trong
mạch văn thơ thất ngôn bát cú của Tàu và của ta xưa
kia đều không có dấu chấm câu. Hết một ý thì làm
dấu khoen tròn ngay sau đó. Khi chuyển F1 sang chữ chữ
quốc ngữ, người giới thiệu đã đưa thêm vào đây
các dấu chấm câu của Phương Tây, lúc này bản văn
F1 đã biến thành bản văn F2. Tùy người giới thiệu
khác nhau mà ta có những bản văn F2 khác nhau. Các bản dịch
thơ sang Việt ngữ từ các bài thơ bằng chữ Hán của
tiền nhân đều được xem như là các bản văn F2.
Người đang đọc
một văn bản F2 chắc chắn bị một tư tưởng vô hình
hướng dẫn, họ bị người giới thiệu áp vào đấy
một cách hiểu bản văn F1 theo ý họ. Tùy theo kiến văn
và độ nghiêm túc khi làm việc của người giới thiệu
mà ta có bản văn F2 tốt hay xấu với 11 dấu chấm câu
mà họ có thể xử dụng. Từ bấy lâu nay, nhiều người
trong chúng ta đọc bản văn F2 mà tưởng chừng như mình đang
đọc bản văn F1. Tầm tác động từ văn bản F2 áp lên
người đọc cuối, khiến cho họ có được sư tiếp cận
hoặc là tốt hơn hoặc là xấu hơn so với với bản
văn F1 của chính người sáng tác .
Có hai trường
hợp xảy ra khi "ai đó "cho ra bản văn F2. Người đón nhận
nó có sự phản hồi hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực.
Có lẽ trong tâm thức của mọi người Việt đang làm công
việc quảng bá "tư tưởng Việt " đều mang mối ưu tư là
làm sao thể hiện được một cách tốt nhất, chía sẻ ý
tưởng lẫn tư tưởng của tiền nhân ta, sao cho nhanh nhất,
không gây ra bất cứ một sự ngộ nhận nào một cách tốt
nhất. Tư tưởng trong văn bản xưa F1 có thể có nhiều rối
rắm, nhiều ẩn dụ khó hiểu do bởi sự cản trở của ngôn
từ cổ đa nghĩa lẫn ý tưởng ẩn dụ hàm súc chứa trong
từng câu thơ F1. Người giới thiệu thơ tiền nhân ta ngày
nay làm tốt hơn người xưa nhờ họ có được công cụ
chấm câu phức tạp. Mỗi người đều có thể đưa ra một
văn bản F2 , thể hiện ít ra là một góc khuất mà F1 không
hé lộ ra , giúp tiết kiệm thời gian cho người có nhu cầu
chia sẻ. Một văn bản F2 thật tốt sẽ hổ trợ F1. Chắc
chắn F2 sẽ gây được phấn khích mới cho người đọc.
Việc làm này dẫn đến một hệ quả, ít ra F2 cũng đem
đến cho các em học sinh ở bậc học phổ thông hiện nay
chuyển biến từ một lòng yêu mến thơ tiền nhân và sau
cùng tiến đến bảo vệ tư tưởng mà dòng thơ cổ văn
của tiền nhân ta đã thể hiện. Đó là cái nền tối cần
thiết trước khi các em học sinh này tiếp cận với 15 bài
thơ Đường của Hán tộc mà học sinh lớp 7 và lớp 10
phải học khi còn ngồi ở trường Phổ thông hiện nay. Không
làm như thế thì những viên ngọc quý giá này sẽ bị đào
thải, sẽ bị méo mó trước sức tấn công của dòng thơ
Đường như thế hệ chúng tôi đã từng "cay đắng" trãi
qua trước đó. "cácthầy' tôi với thuộc tính quy Hán tộc,"thơ
Đường, đội Hán trên đầu, cácthầy đâu biết còn lâu
mới bằng"
Vậy sẽ có nhiều
văn bản F2 từ một văn bản F1 duy nhất xuất hiện. Càng
nhiều F2 càng tốt. Một văn bản F2 là một bài giảng
văn có mức quảng bá tư tưởng tiền nhân khá tốt. Không
có giảng văn hổ trợ thì một bản văn F1 cho dù có
hay cũng có khi bị "bụi thời gian làm lu mờ và tạo
ra rào cản ,sự ngán ngại " . F1 sẽ không biến mất vì sự
quên lãng do cuộc sống cơm áo gạo tiền khắc nghiệt hiện
nay khi có F2 song hành.
*
* *
|