Chim Quốc trong tâm thức
người Hán & người Việt
Laiquangnam
Bài viết này nằm trong loạt bài
Thử tìm một giải pháp khác khi giới thiệu
dòng thơ cổ của tiền nhân
Laiquangnam
Mục đích là giải
quyết dứt điểm sự nhầm lẫn từ bao đời nay khi
"Ai đó" cho rằng chim quốc quốc của người Việt chính
là chim cuốc cuốc ,hay chim Đõ Quyên bên Tàu
=================
Bài viết sau đây nhằm
hổ trợ kiến văn cho các em học sinh tuổi teen thân yêu
của chúng tôi. Rất buồn khi chúng
bị đầu độc bởi những " người lớn". Mong "Ai đó"
chấm dứt việc ghi chú sai trái trên sách Ngữ văn lớp
7, thuộc BGDvaĐT của nước CHXHCN Việt Nam,sách đã hơn
12 lần tái bản .
Chim Quốc trong tâm thức
người Hán & người Việt
1-Chim
quốc trong tâm thức người Hán , câu chuyện Đỗ Quyên-Đỗ
Vũ-chim quốc quốc (Tàu ) .
Người Tàu rất hãnh diện khi họ bịa
truyền thuyết này. Ngu trung Trần Danh Án, người theo
hầu và tham mưu cho nhà vua bán nước Lê Chiêu Thống
đã đem rác rưỡi này nhập vào
kho văn hóa Việt .
Ruồi bu!
Đỗ Vũ là vua
nước Thục. Miết Linh là quan tướng quốc Thục, y có người
vợ rất đẹp. Nhà vua bị người đàn bà đẹp này hớp hồn.
Bà đẹp không những vì trời cho khuôn mặt và nước da
nõn nà mà còn do vì kinh nghiệm phấn son, y trang, ngôn ngữ
cũng như "cách giao tế "với cánh hẫu đàn ông quyền lực.
Dẫu mà "Ngàn vàng đổi lấy
nụ cười cũng cam". Đànbàđẹp-đãCóChồng
xưa nay luôn luôn hút hồn cánh đàn ông trồng trộng
tuổi và đầy quyền lực .Thục Đế, vua Tàu liếc
nhìn .
Đỗ Vũ là tay
sành điệu. Ông có tam cung lục viện, gái non chưa khui hộp
thiếu gì. Vua Tàu mà lị. Có điều chắc trong tam cung lục
viện của ông thiếu "dạng quý bà" như vợ Miết Linh. Cơ
hội đến, nước Thục bị lũ lụt,
Đỗ Vũ giao việc cho tướng quốc Miết Linh. Ở nhà, vua mời
nàng vào cung. Được ăn ngon, thêm ngọc ngà trên
cổ do chính tay nhà vua đeo cho nàng.
Cho sờ chút đâu có mòn gì . Lấy vàng thử đàn bà
. Riết, Thắng lợi!. Đàn ông thử xài đàn bà đẹp thì
biết . Có Chúa mới có khả năng lắc đầu. Vua quên
ngày tháng. Sa đà. Mẹ cha ơi , Miết Linh xong việc, vào
triều báo công. Sao đây. Nghe gia nhân thuật lại chuyên
nhà, nổi cơn ghen, vác giáo gươm vào
cấm cung. Binh quyền lính láp đang có trong tay. Vợ rét quá,
vua cũng rét . Bà khuyên chồng mình hãy bình tâm
mà nghe thiếp phân giải đôi lời .Hãy từ từ, tru di tam
tộc có ngày. Miết Linh rét nhưng cho rằng nàng nói phải.
Khôn ngoan nhất là Mình hãy dùng kế tam không . Không nghe,
không biết, không thấy. Đừng nổi
điên, rách việc, chàng ơi . Mọi sự sẽ tính yên và
rất có lợi cho dòng tộc ông. Việc đã lỡ. Rằng tôi chút
phận đàn bà. Ông có muốn tôi như xưa,nay cũng không được
như những ngày mặn nồng cũ.
Cần ôm tôi? , lúc nào mà chả được!. Miết Linh mềm
lòng. Bà Vợ đem hết tài hèn thổi vào nơi cần thổi .
Vua mềm, đã vậy mà đêm đêm
còn rót vào tai Đỗ Vũ lời ngọt
như mật. Mưa lâu thấm đất , nhà Vua trao ngôi báu cho
Miết Linh. Miết Linh đã có lời thề , giữ kín giao ước
, cấp đủ các quyền lợi cho hai người. Vua OK. Êm ru.
Danh dự không những còn, mà thêm có thần thiếp ngày đêm
hầu bệ hạ bất kể gió mưa.. Vua dẫn vợNgười vào rừng.
Từ nay công khai hú hí. Nhà vua nói
trớ với quần thần rằng, nay Ta muốn tu thiền .Nay Ta mới
ngộ ra, đời con người ta sao mà ngắn ngủi quá!. Nước
của tiên vương cớ sao bệ hạ lại xem nhẹ đến như thế,
các trung quan luân phiên nài nỉ. Lú rồi. Sướng quá,đã quá.
Gạt phắc.
Miết Linh tuy mất người
vợ đẹp nhưng bù lại được ngôi báu và có được cả
tam cung lục viện ngày đêm hầu hạ. Vợ Miết Linh là
người hớp hồn Vọng Đế nhưng không
hớp hồn Miết Linh. Đúng là vợ ta, ta thấy không đẹp bởi
nàng về với ta lúc còn con gái , cũ mình nhưng
mới người hàng xóm . Sợ nhà vua sẽ đổi
ý, phở ăn hoài ngán, Trung thần ngày ngày nuòm lượp
viếng thăm. Xúi dại e sinh loạn.
Miết linh liền bỏ phắt mọi lời mật ước. Nhà vua đói
và chết. Lúc lâm chung ,đã kiệt sức vì bị bỏ đói, vợ
Miết Linh muốn dâng , thấy ngon cơm, chỉ thấy ông lắc
lắc cái đầu. Lúc này mới ngộ ra điều khôn dại. Hồn
Thục Đế không sao siêu thoát. Không biết trời xui
đất khiến gì mà sau khi Thục đế
Đỗ Vũ chết , có loài chim kêu "kì quấc!, kì quấc!"
xuất hiện nhiều,kếu râm ran , khóc than trong các bụi bờ
tại các vùng lấp xấp nước. Dân Tàu bèn gọi loài chim
mới này là chim Đỗ Quyên. Đỗ Quyên tên do cha mẹ đăt
cho Thục Đế. Ông vua biến thành một loài chim hèn ,cánh
ngắn , bay không xa ,chạy không nhanh , lũi là giỏi
. Ngày đêm kêu gào đòi trả cái "quốc quốc " lại cho ông.
Dưới mắt người Việt , Ngu ráng chịu. Chim
đổ quyên là loài chim hèn. Chim có cánh ngắn không bay cao,bay
xa được. Cái đầu chim quốc,nay
là chim cuốc vua Thục chỉ rục rịch cuốc quẩn quanh
trong háng vợ thuộc hạ. Khá gì .
Người có ăn học
tại nước ta, máu Hán , ngu thần Trần Danh Án tuy học giỏi,
biết nhiều tích tàu hơn hơn tục ngữ ,ca dao ,phong
dao ,đồng dao Việt . Án phò Lê Chiêu Thống, bỏ mạng tại
Hán. Trần Danh Án là người đầu tiên của ta giảng chim
quốc quốc của ta chính là "con chim Đổ Quyên" của Tàu.
Đỗ quyên rất giống cuốc cuốc của ta. Đội
Hán đến thế là cùng. Ngu trung vốn là anh quá ngu bởi
làm sao y biết "Việt là Việt, Hán là Hán, Tàu là
Tàu"
2-Chim quốc trong tâm thức
người người Lạc Việt ,
Loài chim này có thể hình ảnh của nó
đã xuất hiện trên Trống Đồng
mà xưa nay ta gọi là chim Lạc chăng?
Quốc tự thân mang nghĩa gì?. Âm Quốc có
từ lúc nào trong ngôn ngữ Việt?. Quốc là tên được
gán cho một loài chim thiên di hàng năm
bay qua lãnh thổ nước ta từng bầy, từng đàn đông
đúc,ngay từ khi dân Lạc Việt còn là một bộ
tộc hùng mạnh ở phương Nam. Xưa nay cách nghe tiếng chim
và đặt tên cho nó bằng chính
tiếng kêu của nó là điều thường tình đối
với mọi dân tộc trên thế gian này.
Tiền nhân ta để ý rằng rằng thường thường
đến cuối thu, trên trời có một loài chim thiên di này
bay từ phương Bắc xuống phương
Nam trốn cái giá lạnh tại quê nhà. Mùa xuân sang, bọn chúng
lại quay đầu bay về nơi xuất phát. Đi đâu rồi cũng
quay đầu về cội nguồn. Nơi xuất phát, khác gì cái
tổ ấm để quay về . Nơi ấy mình thấy mọi người
giống mình, cùng chia se buồn vui với mình, chỉ có mỗi nơi
ấy ,"cái ổ quốc đó" mình được hiểu và mình cũng
hiểu người. Ấm và ổn.
Hàng ngàn năm sau, rất
lâu sau đó , người Hán nuốt các tiểu quốc của
các bộ tộc khác. Hán tộc rướn về phương Nam. Nơi
đây có người lái buôn tơ lụa
khờ dại đã ngây thơ xúi vua Nam dâng cho người Tàu phương
Bắc con chim trĩ. Thói con buôn, bọn bọn đại Hán gian
ác này tìm đường đến phương Nam .Quen chinh chiến
hàng ngàn năm, dân lúa nước hiền
hòa làm sao đánh lại được với dân du mục khát máu.
Ngây thơ như hạt bột, tin người nên dân Lạc Việt
vong quốc. Nước ta bị đô hộ
từ thuở đó. Dân nô lệ phải dùng chữ viết
của ông chủ nô để điều hành
xã hội mình. Nước Tàu có chữ viết. Có một ký tự
đọc ra âm "quốc" rất giống như
âm quốc của người nước ta đã có trước đó hàng
vạn năm. Từ này là khái niệm quốc gia, lãnh thổ,
dân tộc, nước nhà . Từ đó âm " ổ quốc" của ta chỉ
cái tổ của loài chim quốc , được một ký tự Tàu
thể hiện và dân Lạc Việt chấp nhận nó ,từ
tổ quốc gia nhập vào ngôn ngũ Lạc Việt. Tổ quốc
là xưa là cái tổ chim của loài di trú , chim quốc thiên
di theo mùa vụ , nay là mảnh đất dung thân của một quần
thể có chung một cội nguồn.
Người Việt cổ chấp nhận, đó
đây là loài chim Hạc, chim Hồng, chim Lạc nằm trên
bề mặt trống đồng Ngọc Lũ
,Đông sơn. Một sự tình cờ của lịch sử . sau này
các âm "ba ba" ,"me me" mà người Việt chúng ta chấp nhận
vào phép xưng hô trong gia đình Việt từ khi người Pháp
đô hộ ta . Một baby trong một gia
đình Việt nào đó dạy con trẻ đang líu lo nói.
Quốc là từ rất khó định nghĩa, mặc dù
ai ai cũng cảm nhận mình có nó ,
một tổ quốc để yêu thương, thề bảo vệ cho tổ
quốc của mình đến cùng cho dù phải hy sinh cuộc sống .
Đôi khi có một loài
chim lớn màu đen, có đốm trắng bay
vút qua đầu. người Việt hiện tại nhìn lên , chim
đã bay xa nhưng âm "quấc quấc" vẫn còn vọng lại. "Ai đó"
trong cộng đồng người Việt mình cho đó là con
chim quốc xưa kia. Chim hồng ,chim hạc ,chim lạc trên trống
đồng cũng đều gọi là một
loài chim quốc. Hình thái chim quốc bất định, cùng giông
giống âm kêu , nghe chừng như là quốc quốc, quấc,.quấc
..
Thử hỏi người Việt ở nơi thôn dã ,hình
thù chim quốc ra sao . Mỗi người mô tả mỗi cách, chỉ
có bọn đã học Hán, theo Hán thì
mới cho quốc là cuốc , là Đổ Quyên như bọn
Trần Danh Án theo hầu Lê chieu Thống mà gởi thân tại
Tàu mà thôi. Làm sao ta trách Trần Danh Án cho được
bởi ngày ấy sách vở không dồi dào và dễ tiếp
cận như hiện nay .
Laiquangnam
====
Kỳ tới ,trong loạt bài
Thử tìm một giải pháp khác khi giới thiệu
dòng thơ cổ của tiền nhân
Laiquangnam giới thiệu phần III
III-Trường hợp thứ hai ,bài thi kệ danh tác
:
Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư
Bài thi kệ thể hiện nét độc
đáo của dòng Thiền Đại Việt . laiquangnam giải
mã kỹ để xóa sạch vết
ruồi bọ tấn công tư tưởng của tiền nhân ta. Việt
là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu .Làm sao mà một
câu thơ F1 ,
"Hữu thời trực thướng
cô phong đỉnh" của Không Lộ thiền sư lại giống một
câu thơ Đường của một thi nhân Tàu Hán "Hữu thời
trực thướng cô phong đỉnh" cho được .
|