III-Trường
hợp thứ hai ,bài thơ di sản chữ Hán "Ngôn hoài" của
Không Lộ thiền sư (?-1119)
Phần
I-Ngôn hoài là một bài thơ đời thưòng ?
I- Đi tìm bản
văn Thư quy
Thư quy là gì ?
Thư quy là một bản văn đúng nhất được phép lưu hành.
Mọi bản văn khác với bản văn này đều phải bị loại
bỏ cho dù chỉ sai một từ. Một khi có sự lưu hành song
song của nhiều bản văn là có sự hỗn loạn trong cộng đồng.
Sự hỗn loạn này là nguyên nhân gây chia rẽ, gây sự mất
mát, làm tổn thương cộng đồng do vì hiện tượng tranh cãi
bất tận phát xuất từ các " từ, ngôn từ " trong bản văn
" dõm " gây ra. Các bản văn phiThưQuy đều là vô ích, làm
tốn công sức của nhiều thế hệ, bởi họ cần đính chính
và "rửa bỏ nọc độc " từ những ý tưởng của Kẻ Đốt
Đền gây ra.
Bài thơ này xuất
hiện trong rất nhiều tập sách văn học Việt Nam quý giá,
từ Thiền Uyển Tập Anh đến Lĩnh Nam Chích Quái.
Thiền
Uyển Tập Anh có trước, Lĩnh Nam Chích Quái có
sau. Người viết Lĩnh Nam Chích Quái lại là một
tiến sĩ đời Trần viết. Ông được đánh giá là nhà
bác học, hiếu cổ và có tài soạn thuật. Ông từng là một
Đô Tổng Tài Sử Quán đời Trần. Ông hành văn cực kỳ tinh
tế, bố cục và có cách sắp xếp rất lạ. Ông không dài
dòng nhưng gởi gấm rất nhiều " niềm kiêu hãnh quốc gia
" vào đoạn văn này. Từ hai nguồn chính văn đó dẫn đến
các nguồn thứ cấp trong đó có danh tác Hoàng Việt Thi
Tuyển của Hoàng giáp Bùi Huy Bích, bản văn này được
viết vào đời Minh Mạng ( 1826). Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng
Chi và nhiều người khác chép lại từ người chính hay nguồn
thứ cấp này. Càng về sau, càng có quá nhiều bản cùng mang
tên Lĩnh Nam Chích Quái hay Thiền Uyển Tập Anh
chép tay, cùng lưu truyền đồng thời. Sự tam sao thất bổn
xảy ra. Khi giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát dịch và khảo
sát Thiền Uyển Tập Anh cho Viện Đại Học Phật
Giáo Vạn Hạnh thời VNCH, ông đã tra cứu rất nhiều văn
bản từ nhiều nguồn đã nhận xét, "…. . Phải chăng
cả Thiền uyển tập anh lẫn Lĩnh nam trích quái truyện
đã sao truyện của mình từ một bản gốc chung mà Thiền
Uyển Tập Anh cho biết là Nam Tôn Tự Pháp Đồ của
Thường Chiếu? Hay chúng hoặc những người hiệu đính chúng
đã sao chép lẫn nhau?. Đây là một vấn đề khá lôi cuốn
cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. ".
Rất may giữa sự lộn xộn đó, một thiền sư tinh thông
Hán ngữ xuất gia từ thuở nhỏ, lại được du học tại
Hoa kỳ đến bậc tiến sĩ. Ông trở thành giáo sư đại
học tại HOA KỲ trong một thời gian, đó ngài là thiền
sư Thích Nhất Hạnh. Với cái nhìn và với cái tâm của
một người yêu nước, Ngài đã viết quyển Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận và ký tên là Nguyễn Lang vào trước
75. Quyển này được hội đồng văn học sau 75, mà giáo
sư văn học Nguyễn Huệ Chi là người đại diện đã đánh
giá rất cao. Cao về nguồn sử liệu, Cao về sự uyên bác
lẫn độ nghiêm túc khi viết, khi cân nhắc, khi chọn lựa
các nguồn thông tin. Văn bản của Nguyễn Lang cung cấp cho
chúng ta, hiện nay, để "Ai đó" muốn tìm hiểu dòng tư
tưởng Phật giáo thuần chất Việt Nam trong thời kỳ lập
quốc là đáng tin cậy hơn cả.
Ngôn Hoài
là bản văn hay nhất và mạch văn thống nhất, phù hợp với
thứ ngôn ngũ của một cao tăng thuộc hai dòng thiền Vô Ngôn
Thông-ngài là tổ đời thứ Mười lẫn dòng thiền Thảo Đường-
ngài là tổ đời thứ Ba. Ngoài ra trong Lĩnh Nam Chích Quái
cho biết Ngài Không Lộ thiền sư thường đọc kinh Đàlani
- dòng mật tông -. Trong nhiều sử liệu ghi lại Ngài đã từng
qua Tây trúc -Tây trúc được hiểu ở thời điểm Lý Trần
là các Thánh địa Phật giáo có tăng sĩ gọi là Tì Kheo
-kinh sách viết bằng Phạn ngữ, Trong VNPGSL - từ trang 150
đến trang 170 - Nguyễn Lang cho biết thời đó và trước
đó đã có nhiều vị thiền sư dạy tiếng Phạn tại đất
nước này, Có thể kinh sách của Phật giáo Nguyên Thủy
đã được lưu hành. Do bối cảnh lịch sử đau thương của
dân tộc này, vào năm 1407- 1428, nước ta bị nhà Minh đô
hộ. Trần văn Giàu trong bộ sách Lịch sử Việt Nam
cho biết, Minh Thành Tổ lệnh cho Trương Phụ mang về Tàu
200 nhà sư để tái đào tạo nhằm mục đích, buộc tăng sĩ
Việt phải đọc thông kinh sách Phật do người Tàu sáng
tác hay các ngụy tác. Người Tàu cần xóa sạch tư tưởng
Phật giáo Đại Việt xây dựng gần 500 năm sau ngày độc
lập ( 938), người Việt đang cách ly văn hóa Tàu. Cùng
lúc này, nhà Minh đã mang theo nhiều sĩ tử sang Tàu để tái
đào tạo về các kiến thức lịch sử và văn hóa Tàu. Rằng
người Việt nay phải biết đọc chữ Hán theo âm Bắc Kinh
đời Minh, bởi khi ấy nước ta, người có học đều đọc
ký tự Hán theo âm đời Đường mà người Tàu đã bỏ
trước đó. Nước ta chính thức bị nhiễm bẩn từ đây.
Văn hóa Việt ngày càng suy đồi so với trước đó. Chính
sách của nhà Minh là phải đồng hóa dân tộc này vào Tàu.
Hai điều phải làm ngay, một là con người, đó là tăng
sĩ Phật giáo và giới sĩ tử; hai là phải thay đổi tiếng
nói dân tộc. Tiếng Tàu sẽ nảy nở từ các bản văn trong
sáchTàu; đó là kinh sách Phật giáo hay qua sách vở dành
cho tử sĩ. Tiếng Tàu xâm nhập qua chữ viết sẽ dần dần
lấn át tiếng nói của người Việt. Thâm độc thay!.
Tất cả chi tiết
về lý lịch của Ngài Không Lộ thiền sư tưởng chừng
rất nhỏ đó nhưng vô cùng lớn bởi những trãi nghiệm trong
đời. Ngài Không Lộ thiền sư nay đã nén và dấu kín lời
dạy trong bài thi kệ, đúng ra là bài pháp thoại có tên
là Ngôn Hoài.
Văn bản của thiền
sư Nhất Hạnh, Làng Mai viết trước 75 trùng khớp với
văn bản trong sách Giáo khoa ở bậc phổ thông của NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1991. Giáo khoa ngữ văn lớp 10 dùng văn bản
này đến cạn năm 2000 *. Rất tiếc, do vì không am hiểu hết
mật ngữ của văn bản mà ngày nay bản văn này đã bị các
Kẻ Đốt Đền loại ra khỏi văn bản tuyển tậpThi văn thời
Lý Trần ( năm 2008 tại THÀNH PHỐ HCM ) và cuối cùng thì
đã bị bóc ra khỏi sách Giáo khoa bậc phổ thông sau năm
2000. Lý do được đưa ra : " Ngài Không Lộ thiền sư của
chúng ta đã đạo văn, đã " thuổng " hay "Ai đó" đã sửa
lại bài thơ của Lý Cao thuộc đời Đường rồi gán cho
Ngài Không Lộ thiền sư, theo nhận định của Viện trưởng
Viện khảo cổ Việt Nam Hà Văn Tấn vào năm 1992. tiếp
tay ông là dàn đồng ca, đến năm 2008 thì Họ đạt yêu cầu.
Tại sao lại ra
nông nỗi này?. Giới làm văn học Việt Nam chết hết cả
rồi sao ? Không bao giờ có điều bất hạnh như thế xảy
ra. Đã có nhiều giáo sư đại học đầu ngành lên tiếng.
Đã có nhà sư cao tăng lên tiếng. Nhưng, tất cả bài viết
chỉ là những lời than khóc thì đúng hơn. Ngay cả chúng
ta là người Việt rất yêu thương Ngài Không Lộ thiền
sư, một cao tăng uyên bác bởi ngài là tổ thứ ba của dòng
thiền Thảo Đường, dòng thiền đẫm chất văn học, và với
những phẩm chất khác đã nêu trên đã ngó lơ và làm thinh.
Qua những bài viết với lời biện hộ của các "luật sư,
luận sư tiến sĩ " ấy dựa trên sự phân bua, mét bu ( cộng
đồng Việt), van xin tình cảm là chính. Họ mong được Kẻ
Đốt Đền xét lại. Rằng xin đừng bóc bài thơ ấy ra khỏi
cơ thể Việt. Chả ăn thua gì !; Cái đầu đội Hán lạnh
lùng, Kẻ Đốt Đền lại là người có thẩm quyền " sinh
sát " nhất hiện nay.
Để có một
lời bình tốt nhất bắt buộc chúng ta phải có một
bản văn tốt nhất. Văn bản tốt nhất là văn bản không
có từ " trôi sông lạc chợ " làm sai hỏng bản văn. Các từ
" trôi sông lạc chợ" ấy do sự không phù hợp hay không cùng
với hệ tư tưởng được viết một cách thống nhất trong
toàn văn bản. Một khi văn bản là một khối thống nhất
về mặt tư tưởng thì từ cái nền ấy sẽ dẫn đến
chỉ có một cách hiểu tốt nhất. Với mọi giới biên
khảo văn học sau khi đã có một bản " thư quy" trong tay,
thì lúc đó mới phát khởi tìm hiểu và giải mã đúng
tư tưởng của tiền nhân ta. Còn " dật dờ" thì đôi khi
từ cái tâm của mình lại là kẻ ngộ sát, hay không đủ
sức ngăn cản được ngọn lửa của "kẻ đốt đền". Các
giáo sư tiến sĩ đầu ngành đã quên điều này!.
Xưa nay trước
một bản văn thư quy, bản cổ văn viết bằng chữ Hán
thì người biết chữ Hán cứ đọc nó như là một bài
thơ Đường như xưa nay họ vẫn làm như thế. Nhập cuộc
như thế thì cứ lấy cái kiểu lý giải ngữ nghĩa xưa nay,
mỗi từ Hán dịch thành một hai từ Việt như lối học
Tam tự kinh, "tử con, tôn cháu... " khi xưa. Họ đã quên rằng
đây là một văn bản cổ thuộc dòng thi thiền đời Lý vào
đầu thế kỷ thứ 12, thời điểm mà nước ta mới vừa
dành độc lập với Tàu trên dưới 150 năm; lúc này dân
tộc ta vẫn chưa có chữ " quốc ngữ "để ghi lại tiếng
nói của dân tộc mình. Tiền nhân ta đang dùng chữ viết
của kẻ thù để ghi lại, một manh nha tạo nền cho chữ
Nôm hình thành dựa theo lục thư của Tàu. Với số từ cực
kỳ hạn chế so với số tiếng nói của đồng bào mình,
họ cố lập quy ước thể hiện. Hiểu sai nội dung chỉ một
từ thôi, thì cũng dẫn đến bản văn dịch xuôi bá láp. Dịch
xuôi bá láp thì dịch sang văn vần ( tạm fọi là thơ đi )
bá láp và vô hồn.
Xưa nay dịch thơ
là một quá trình gồm nhiều giai đoạn - đọc -hiểu -cảm
-thấm -ngấm -giảng- bình -và cuối cùng mới chuyển thành
thơ. Thế nên với 28 chữ, một khi đã viết lại thành văn
xuôi với cách hiểu nghĩa của một người đọc thông mặt
chữ Tàu kiểu "Tam tự kinh" thì thật là tai hại. Người,
giỏi tiếng Tàu hơn thì vào GOOGLE SEARCH xem thử Tàu đã
dùng từ này ở nghĩa nào, sách nào dùng. Các cái đầu đội
Hán kiểu đó dẫn dắt thế hệ sau đi vào ngõ hẹp về mặt
tư tưởng. quá nhiễu thông tin, rờ đâu cũng đụng Hán,
đều khắp nơi tư tưởng Hán. Tư tưởng Việt bị chèn
đến ngạt thở bởi họ có nghĩ đến tư tưởng Việt đâu.
Đừng quên rằng dân tộc này đã có một địa dư thuận
lợi. Đất nước này nằm ngay trên dòng hải lưu gió mùa,
Họ có quá nhiều cơ hội để tiếp nhận các nền văn minh
trước khi bị người Hán đốt sạch và phá sạch khiến cho
người Lạc Việt không biết đâu là cội nguồn. Người
Hán chủ trương nhất quán, đốt sạch, phá sạch là nhằm
tăng thêm sức mạnh cho các lời ngụy biện của đám đội
Hán tay sai sau này. Sử viết, sau khi xâm lược và hủy diệt
thật sạch đất nước này thì Mã Viện đã báo với vua
Hán rằng dân Lạc Việt đã có mười phong tục khác ta -
tức khác Hán tộc và đã để lại trên đất nước bé
nhỏ này vào lúc đó 20.000 Mã dân, là đám dân " trôi sông
lạc chợ", đám phu phen gồng gánh binh lương phục vụ cho
đội quân xâm lăng của Mã Viện. Cái gì cho còn!. .
Như đã viết bên
trên, nay dựa vào sách của thiền sư Nhất Hạnh, laiquangnam
nay đã có bản văn thư quy này, "Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận, Saigon, nxb Lá Bối 1973". (Nguyễn Lang là thiền
sư Nhất Hạnh, Làng Mai )
Bản văn thư
quy
-Nguyên tác (
thư quy )
言 懷
擇 得 龍 蛇 地
可 居,
野 情 終 日 樂
無 餘。
有 時 直 上 孤
峰 頂,
長 叫 一 聲 寒
太 虛。
Phiên âm
Ngôn hoài
Trạch đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung nhật
lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.
Các bản văn
nhiễm bẩn
Với Lĩnh
Nam Chích Quái
Khi dịch và chú
giải bản văn Lĩnh Nam Chích Quái, Vũ Quỳnh &
Kiều Phú, Nxb văn học Hanoi, 1990, ( bản in lần thứ hai ),
hai tác giả Đinh Gia Khánh & Nguyễn Ngọc San cho biết
có ba văn bản tại Viện Hán Nôm Hanoi, có sự sao chép như
sau của ba bản văn
Bản văn nhiễm
bẩn thứ nhất
Tuyển* thủ giao
long địa khả cư
Dã tình* chung nhật
lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong lĩnh
Trường tiếu nhất
thanh hàn thái hư
Bản văn nhiễm
bẩn thứ hai
Tuyển* thủ giao
long địa khả cư
Dã tình* chung nhật
mễ vô dư
Hữu thì trực
thượng cô điên tại
Khiếu nhất thanh
hề* hàn thái hư
Bản văn nhiễm
bẩn thứ ba
Tuyển* thủ giao*
long địa khả cư
Dã tình* chung tất*
lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong lĩnh*
Trường tiếu*
cao* thanh hàn thái hư
Các từ có dấu
(*) là các từ " trôi sông lạc chợ"
Với Hoàng
Việt Thi Tuyển
Tôi đã thấy trong
danh tác "Hoàng Việt Thi Tuyển", nxb Văn Học, tái bản
2007 có sự tham gia và chỉ đạo của Trần Thanh Mại - bản
văn gốc của cụ Hoàng Giáp Bùi Huy Bích viết vào đời Minh
Mạng, năm 1826. Đây là sách được cả hai miền Bắc Nam trước
75 đặc biệt quan tâm.
Bài thơ Ngôn
Hoài được ghi lại trong sách này như sau
*Tuyển đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung nhật
lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong lĩnh
Trường *khiếu
nhất thanh hàn thái hư
Trong sách cụ Hoàng
Giáp ghi lại chữ khiếu [ 嘯] này. Chữ khiếu này xuất hiện
trong bài thơ của Vương Duy -một nhà thơ đời Đường
khá lớn - và xuất hiện cả trong bản văn U cư của Lý Cao-tại
câu cuối. Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thinh, 月下披雲
嘯一聲. Khiếu này [ 叫] trong nguyên tác rất khác với khiếu
kia.
.
Về Thiền
Uyển Tập Anh thì sao ?
Giáo sư tiến
sĩ Lê Mạnh Thát cho biết đã có nhiều nguồn chép về các
cao tăng Việt Nam, tương tự như Thiền Uyển Tập Anh.
Bản mà ông cho là tổt nhất để chọn dịch cũng cho kết
quả đáng phàn nàn. Sự tam sao thất bổn về bản văn Ngôn
Hoài là dĩ nhiên cho dù "Ai đó" ghi là chép từ Thiền
Uyển Tập Anh, cũng tương tự như ta đã gặp với sách
Lĩnh
Nam Chích Quái ở trên.
Tóm lại, điều
này cho ta kết luận gì?. Rằng người xưa họ không có điều
kiện làm việc như chúng ta ngày nay. Có được người cho
mượn sách đã là vui, cắm đầu sao chép lại, họ không dễ
gì có nhiều bản văn để phân biệt đúng sai. Rằng người
Việt xưa nay nào có chịu cất công ngồi chọn bản văn "Thư
quy" đâu. Người đi học ngày nay đâu biết để mà tránh
sự sao chép bậy bạ, dẫn đến tranh cãi. Rách việc!. Cho
đến tận thế kỷ 21 rồi, giới sử gia Việt Nam cũng không
cho chúng ta biết nguồn sử nào là thư quy, sách nào là ngụy
thư do Tàu bôi bác. Hôm nay chúng ta đang ở thập niên 20 của
thế kỷ 21 mà đã không có thì nói gì ngày hôm qua đã cách
ta hàng mấy trăm năm!.
Lê Mạnh Thát cho
biết, bài thơ của Lý Cao đời Đường được ông chép lại
từ sách Truyền Đăng Lục của chính người Tàu như
sau :
Tuyển đắc u
cư hiệp dã tình
Chung niên vô
tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực
thượng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ phi
vân tiếu nhất thanh.
Chúng ta thử GOOGLE
SEARCH, chúng ta bắt gặp câu này. Tại link http://www.ctworld.org.tw/turn/lecture/b032.htm
, câu cuối trong bài thơ của Lý Cao Nguyệt hạ phi vân khiếu
nhất thinh, 月下披雲 嘯一聲,. Lê Mạnh Thát đúng hay
nội dung ghi trong cái link của Taiwan đúng. Dĩ nhiên của Lê
Mạnh Thát đúng, bởi khi chép lại trong Truyền Đăng Lục
mà giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát là một cao tăng, ông
tra cứu kỹ. Câu cuối đúng với đoạn văn xuôi mô tả rằng,
nhà sư Duy Nghiễm- thầy Lý Cao- khi thấy mây tan, đáy trăng
lộ một vầng trăng tròn rõ hơn lúc nào hết, thầy ông ngộ
ra cái Chân Tâm Như nơi ông, Ông đã có, nó vẫn thường
hằng mà ông không hay, do Ông vì bị vô minh và nhiều vô
lậu làm cho nó mờ đi. Ông đã cười to, cười rất to. Ông
đã đốn ngộ. Cười là tiếu, trong khi khiếu là la là huýt,
là hú, là rống …Vây thì liệu ai đó thường lấy chữ
Tàu ra hù ta, ta có chết khiếp ?
Cái đau của người
Việt hiện nay là sách vở mạnh ai nấy " tung hê". Một khi
họ " lượm hay chôm" đâu được tư liệu nào đó mà họ
cho là quý - quý có nghĩa là trước đó chưa hề xuất hiện-thì
ngay lập tức đưa lên báo, lên mạng. Người phóng viên đưa
tin trên báo lấy điểm cũng "nổ " dùm cho họ. Họ là kẻ
có công. Đó là điều đáng quý đối với người Việt. Đành
rằng cũng có khi người biên khảo này nghĩ mình vừa có
thêm một nguồn thông tin mới, nhưng ác thay thông tin này thường
" dõm ", do nó có nội dung chống lại tính thống nhất tư
tưởng trong toàn văn bản, hay chống lại tính cách của tác
giả bản văn, điều này tôi đã gặp khi đọc bản văn Qua
Đèo Ngang của Không Lộ thiền sư khi GOOGLE SEARCH. Thật
tội nghiệp cho người làm văn học có lương tâm. Họ quá
tốn thì giờ để đính chính hay chống đỡ cho tiền nhân
mình. Điều tiên quyết như là tiếng gọi của con tim, Xin
"Ai đó" đừng chậm tay để thế hệ người Việt trẻ
sinh tại hải ngoại bị nhiễm bẩn. Trước khi có chữ quốc
ngữ thì nước ta đâu có mấy ai chịu cầm viết, số tác
phẩm mà tiền nhân ta để lại đâu bao nhiêu. Nên nhớ rằng
chữ Hán là thứ chữ của kẻ thù mà dân tộc này đã cắn
răng vay mượn, trước khi họ có được thứ chữ Nôm vào
thế kỷ thứ 19 hay chữ quốc ngữ vào thế kỷ cuối thế
kỷ thứ 19.
II- Phần dịch
nghĩa
Sách giáo khoa Văn
10 (Nxb. Giáo dục-Hà Nội 1991 đã dịch nghĩa như sau :
Chọn được mạch
đất long xà (rồng rắn) là nơi ở được,
Tình quê suốt
ngày vui không chán.
Có lúc lên thẳng
đỉnh núi trơ trọi,
Kêu dài một tiếng
lạnh cả bầu trời.
http://www.phatgiao.vn/bai-viet/
tu-cach-dich-den-cach-hieu-noi-dung-bai-tho-ngon-hoai-cua-thien-su-khong-lo_619.html
Các trẻ tiếp nhận
bản văn dịch nghĩa này nghĩ gì ?, _rằng các cháu có yêu
thích bản văn của tiền nhân ta không ? Các giáo sư tiến
sĩ đã diên dịch cho các cháu theo tinh thần tam tự kinh, "
tử tôn -con cháu " như trên. Đành rằng người viết sách
Giáo khoa rất giỏi chữ Hán, họ là giáo sư tiến sĩ cả
đấy, nhưng đó là cách dịch nghĩa robot - vì sao?
Như laiquangnam đã
viết ở phần trên, bản văn này do một thiền sư thuộc
hai dòng thiền Vô Ngôn Thông-ngài là tổ đời thứ chín (
vi-wikipedia) / mười(Thích Nhất Hạnh). Ai cũng đúng bởi
đang có câu hỏi Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là
hai hay chỉ là một. Ngài Không Lộ thiền sư trong dòng thiền
Thảo Đường- ngài là tổ đời thứ ba. Trong Lĩnh Nam Chích
Quái cho biết ngài thường đọc kinh Đàlani - dòng Mật
tông -và trong nhiều sử liệu ghi lại Ngài đã từng qua Tây
trúc -Tây trúc được hiểu ở thời điểm Lý Trần là các
Thánh địa Phật giáo có tăng sĩ gọi là tì kheo -kinh sách
viết bằng Phạn ngữ. Nếu để ý như thế thì sẽ hiểu
sâu từng từ trong văn bản thư quy này. Mỗi từ là một
mật ngữ truyền thừa.
Trạch đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung
nhật lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.
Đặc tính của
Việt ngữ là từ kép. Một khi ở dạng từ kép, từ phức
thì nó đã mang một nghĩa khác thường. Ví dụ: từ mít
đặc (viết rời, viết rời rạc ) và mítđặc ( viết liền,
là viết dính liền lạc ) khác nhau xa lắm. Khi viết liền
thì nó là một thuật ngữ mà không có một chữ Tàu nào
có thể thay thế được.
Trạch đắc longXà
địa khảCư
Dãtình, chungNhật
lạcVôdư
Hữu, thì trực
thượng côphongđỉnh
Trườngkhiếu,
nhấtThanh, hàntháihư.
Mỗi từ viết
liền là một thuật ngữ Phật triết Việt. Ví dụ: longXà
là thuật ngữ Phật giáo Đại Việt, nó nhắc cho người
thiền giả những gì đã dạy trong kinh Milanda. Trườngkhiếu
là Lời hạnh nguyện, là Bồ Đề Tâm của người vừa
đốn ngộ ( hữu tại câu 3 …. .)
Dịch thơ:
Kiểu đất long
xà chọn được nơi,
Tình quê nào
chán suốt ngày vui.
Có khi đỉnh
núi trèo lêu thẳng,
Một tiếng kêu
vang lạnh cả trời.
Phan Võ dịch
Sách Giáo khoa đã
lấy bản dịch của Phan Võ đã in trong -Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam tập II. Nxb. Văn hoá, 1962). Bản in trong Thơ
văn Lý Trần tập 1, (Nxb. KHXH, Hà Nội,1977)
http://www.phatgiao.vn/
bai-viet/tu-cach-dich-den-cach-hieu-noi-dung-bai-tho-ngon-hoai-cua-thien-su-khong-lo_619.html
Giá trị của
bản văn dịch thơ
Nếu họ chịu khó
cho cái não bộ rục rịch chun chút thì có lẽ họ đã không
dám dịch như vầy. Làm sao mà chúng ta là lớp hậu sinh dám
chê trách lớp đàn anh của mình. Chính nhờ họ mà những
" lời có cánh" bung ra trong xã hội Việt ngày nay, khiến người
cầm súng hay sẽ cầm súng xông tới.
Chế Lan Viên (nhà
thơ lừng lẫy của Hanoi ) : "Không có tiếng kêu dài này
thì không có chiến thắng Bạch Đằng!"
Hay :
Giáo sư tiến
sĩ Nguyễn Khắc Phi, giáo sư đầu ngành về văn học Trung
Quốc hiện nay trong nước. Ông cho ra lò không biết bao nhiều
là tiến sĩ, lớp thầy của thầy đứng lớp dạy các em
học sinh phổ thông hiện nay. Trong bài Quanh nguồn tư liệu
có liên quan đến bài Ngôn hoài của Không Lộ thiền sư
(Tạp chí Văn học, 12-1996) & Nguyễn Khắc Phi tuyển tập
( nxb Giáo dục, Hanoi, 2006) ông viết :
"Cứ mỗi lần
nghĩ tới ba chữ "hàn thái hư là tôi giật mình khi nhớ chắc
rằng mình đã có "lò sưởi điện" trước "tủ lạnh" và
"máy điều hoà" gần hai mươi năm ! Và trên đất nước ở
vùng nhiệt đới này, ước sao mỗi trưa hè có được một
"tiếng thét dài" "làm lạnh cả không gian vũ trụ" như tiếng
thét của thiền sư Không Lộ ! " !
Ông giáo sư quên
rằng hàntháihư là một từ Phật triết Đại Việt,
chỉ cõi Vô ( nơi đấy vô sinh, vô tử, vô ngã, là cái cõi
niết bàn, chính là nơi thể hiện cho cụm từ "sắc sắc không
không " mà ta thường nghe ). Cái đích ngắm của mọi người
tăng sĩ là đến cõi niết bàn, cõi phật, nơi đó mọi vật
trong vũ trụ đều có cùng một "ngã " như nhau. Vì sao? -
Xin hẹn ở bài sau. Bài Giải mã mật ngữ trong bài thi
kệ Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư ngay trên
trang website này.
Thái hư là
từ của Đạo, của nho gia Trung Quốc. Khi chạm mặt với
từ Nirvana một Phạn ngữ người Tàu ban đầu dịch
lung tung. Không ai chịu ai. Cuối cùng họ đành phiên âm. Niết
bàn là một từ phiên âm như thế. "hàntháihư" từ này không
có trong Hoa ngữ. Nó là mật ước truyền thừa. Nhờ thế
mà nội dung nhất quán trên từng từ xuất hiện trong văn
bản. Nghe âm thế, thấy như thế thì hiểu như thế, đó là
một quy luật của ngôn ngữ khi chữ viết còn đang trên
đường manh nha, thứ chữ tượng hình trước khi nó bị trũ
bỏ và thứ chữ ký âm như quốc ngữ của chúng ta hiện
nay lên ngôi. Hẹn bài sau đi sâu hơn.
Nay ta thử lướt
qua bản dịch của thiền sư Thích Nhất Hạnh xem sao.
Bản dịch của
thiền sư Nhất Hạnh, ký tên Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận, Saigon, nxb Lá Bối 1973:
Chọn nơi địa
thế đẹp sông hồ
Vui thú tình
quê quen sớm trưa
Có lúc trèo
lên đầu chóp núi
Kêu dài một
tiếng lạnh hư vô.
Hoà thượng Thích
Thanh Từ trong cuốn Thiền Sư Việt Nam giảng giải như
sau: "Câu chót nói lên cái phi thường của người đạt
đạo ở núi rừng. Kêu dài một tiếng mà lạnh cả bầu trời.
Ý ngài nói chỗ núi rừng vắng vẻ rất thích hợp với người
tu, khi lên chóp núi tĩnh tu, đạo lực đầy đủ rồi thì
làm kinh động cả trời đất, hay nói cách khác là cảm ứng
cả trời đất. " trích lại từ nguồn của Chị PHẠM
THẢO NGUYÊN
Bạn có thấy sự
khác biệt giữa hai bản dịch ?
1- Ngôn ngữ
dịch của thiền sư Nhất Hạnh tinh tế hơn. Người dịch
để lại cái hơi Làng Mai. Tỉnh giác trên từng bước chân
thiền. Xưa nay bản dịch cũng thường để lại cái " air"
của người dịch. Thiền sư né không đụng chạm tới bốn
từ cốt lõi ở câu đầu đó là, 1- trạch ( sự cố
tình đặt từ này vào văn bản thay vì tuyển - " chọn
canh kén cá ". 2- long xà, 3 -khả trong khả cư.
Long xà, thiền
sư không động tới bởi sợ sẽ dẫn dắt người đọc bản
văn dịch của mình, sợ người đọc hiểu lầm đây là bài
thơ của một ông thầy địa lý, một ông thiền sư " chúa
mê tín dị đoan, mê phong thủy - bói toán"’. Thà là như vậy
đi !. Long xà là hai từ mà Ngài Không Lộ thiền sư chọn
vào văn bản, đó là vết của sự uyên bác của một người
thiền giả từng trãi, người đã từng có cơ hội đọc
bản thánh kinh của người theo đạo Phật -nguyên thủy-,
bản kinh Milanda, - bởi trong sử sách nói ngài đã học với
một Samon trong thời gian ngài qua Tây Trúc. Hai từ đó nhắc
nhở lời dạy của cao nhân. Người tì kheo ngay bước đầu
tu học phải học các thuộc tính của loài rắn. Con đường
hành thiền với sự quyết tâm chặt đứt vô minh, chặt đứt
" lậu " từ ngã chấp của mình. Bài học đầu đời về Tứ
Niệm Xứ và con đường Bát Chánh Đạo do Đức THẾ TÔN
đã vạch ra. xin đọc http://thuvienhoasen.
org/a969/mi-tien-van-dap
MI TIÊN VẤN ĐÁP
(MILINDA PANHA), Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha
Thera Thita Silo), Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính, ấn bản 2003.
Bạn có thấy tiền nhân ta dùng " khả cư" trong khi bản
văn của Lý Cao là "U cư". Trong bản văn của Lý Cao,
ông dùng U cư bởi đúng như những gì thực tế diễn
ra. Người Tàu có người đã dùng cụm " khả cư" trong
thơ văn của họ. Tại đây ta thấy ngay sư Tàu khác sư Việt.
Duy Nghiễm khác Ngài Không Lộ thiền sư của ta. Việt là
Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu. Duy Nghiễm kén bởi trong
ông "ngã chấp" còn quá mạnh ( "tuyển" để rồi chọn
"u cư’, thâm lâm cùng cốc. Ngài Không Lộ thiền
sư của ta, là một cao tăng quốc sư, nhưng ngài dùng trạch.
Từ cho một độ chọn rất rộng, phù hợp với con đường
hoằng pháp của mình. Rằng nơi nào còn có chúng sinh đau
khổ là nơi đó có bước chân người thiền giả. Tì kheo
vốn dĩ là người " rày đây mai đó ", "người lang thang",
thế gian cần thì người Giác ngộ đâu
dùng chân. Xin bạn đọc lại cuộc đời Đức THẾ
TÔN qua mạng.
Bài thi kệ này
áp sát những gì mà Ngài Không Lộ thiền sư học được
ở Bậc Chánh Đẳng Chính Giác ấy. Để có thể viết lại
một bài kệ truyền thừa như thể là một bản kinh pháp
cú tóm tắt sau mỗi bài pháp thoại mà Đức THẾ TÔN đã
làm, bạn sẽ gặp các bất ngờ dằng dặc trong văn bản này.
Tiền nhân ta cực kỳ thông minh và cười khoan dung với mỗi
chúng ta. Mỗi từ không dùng mô tả cụ thể mà là gói một
lời truyền thừa, một ý tưởng. Lời là ý.
2- Chỉ tại
bạn vô tình đấy thôi. Bạn đừng mất công đọc các bản
dịch khác của các người khác bởi hai bài là đã đủ.
Vì sao? _ khi mà sự thấu hiểu bản văn do thói quen, đọc
bản văn như đọc và dịch thơ Đường. Người dịch đã
không bung hết ra nội hàm qua bản dịch xuôi. Đầu còn bị
kẹt thì đuôi làm sao qua. Chính vì vậy mới sinh chuyện!.
Phủ nhận và bôi bác như dàn đồng ca " kẻ đốt đền" mà
laiquangnam đã viết ở phần dẫn nhập.
Sự không am hiểu
này đã đẫn đến một hệ lụy bi thương hơn, họ đã làm
tổn thương không biết bao nhiêu triệu cánh chim Việt đang
chọn một quốc gia nào đó làm quê hương mình. Nơi Quê
người xa tít kia, bên trời đại dương kia, mà hồn vía họ
vẫn thường bay về nơi quê cha đất tổ thăm chừng, rằng
nay dung nhan tổ quốc mình ra sao. Thương thay và buồn lắm
thay !.
III - Mang chuông
đi đánh xứ người
Phần này laiquangnam
trích ra từ Nguồn "Thơ Thiền Lý Trần, nhà thơ Nguyễn
Duy chủ biên, nxb Văn Hóa Sài Gòn, ấn bản lần thứ hai, 2008,
trang 58 và các trang tiếp ". Tập thơ này in ra nhân Đại Lễ
Vesak lần thứ V của Phật giáo thế giới, lần đầu tiên
tổ chức tại Việt nam vào năm 2008 (PL 2552), từ ngày 13 đến
ngày 17 tháng 5. Có khoảng 100 quốc gia với 600 đoàn Phật
giáo và hơn 5000 người tham dự. Và Đại Lễ Vesak lần thứ
XI vào năm 2014, Việt Nam cũng được vinh dự tổ chức,
tại lần thứ 2 này số đoàn khách tham gia đông hơn, và dĩ
nhiên sách cũng được biếu tặng.
Khách tham dự là
ai ? là các cao tăng, là các học giả, là các giáo sư viện
sĩ có liên quan đến văn hóa Việt, đến Phật giáo Việt
Nam, họ được đọc bản văn như thế này :
ZEN MASTER
KHONG LỘ (DUONG
KHONG LO)
(?-1119)
Nguyên tác
( chữ hán ) như
bản thư quy bên trên
言 懷
擇 得 龍 蛇 地
可 居,
野 情 終 日 樂
無 餘。
有 時 直 上 孤
峰 頂,
長 叫 一 聲 寒
太 虛
Dịch nghĩa Việt
ngữ ( cho người Việt năm châu đọc ):
Chọn được kiểu
đất long xà, có thể ở được
Tình quê vui suốt
ngày không dứt
Có lúc lên thẳng
đỉnh núi trơ vơ
Hú một tiếng
dài lạnh cả bầu trời.
Dịch thơ :
Tỏ nỗi lòng
Đất long xà
chọn được đây
Tình vui thôn
dã suốt ngày miên man
Đôi khi thượng
đỉnh núi hoang
Buông dài một
tiếng hú vang lạnh trời
Nguyễn Duy dịch
Phần anh ngữ do
hai ông
Giáo sư Kevin Bowen
& Nguyễn Bá Chung
Nguyễn Bá Chung,
Giáo sư trường Ðại Học Massachusette (Boston- Hoa Kỳ). Giáo
sư Kevin Bowen là đồng nghệp
ZEN MASTER
KHONG LO ( DUONG KHONG
LO)
(?-1119)
English :
Revealing One’s
Reflection
Finding a dragon-sharped
land where I could reside
I pass long days
there in unending bliss
There’s time
a headed directly to a cold, windswept peak
Utter a cry that
chills the great emty sky.
POEM
Reflection Revealed
A dragon-sharped
land to call my own
Long days in unending
bliss
Sometimes I climb
the solitary peak
Utter a cry chills
the emty sky
Kelvin Bowen and NguyenBa
Chung
Lưu ý rằng, Nguyễn
Duy đã bỏ ra năm năm để chuẩn bị. Có giáo sư Văn học
Việt Nam "sừng sỏ’ là giáo sư Nguyễn Huệ Chi giúp đỡ
đọc hiểu văn bản. Có giáo sư tiến sĩ, cao tăng Lê Mạnh
Thát đọc lại. Kỹ đến như thế, vậy mà !
Cho Laiquangnam miễn
có lời nhận xét về bản văn dịch ra Anh ngữ. Tuy nhiên laiquangnam
có mối ưu tư này và cả câu hỏi này xin được gởi đến
các bạn hiền đang theo dõi bản văn này.
1. Trong hàng ngàn
khách mời đó, họ là các giáo sư đại học trên khắp thế
giới quy tụ về đây. Hẳn có các học giả Tàu hiện diện
bên cạnh các học giả người Nhật và Âu Mỹ. Nhiều người
Âu Mỹ trong số khách mời đó đọc được nguyên tác bài
Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư viết bằng chữ Hán.
Chắc trong số Họ, có người đã đọc danh tác "Essays
in Zen Buddhism "của Đại sư người Nhật, Daisetz Teitaro
Suzuki. Và họ đã gặp bài thơ Lý Cao. Họ nghĩ gì nếu như
có một giáo sư người Tàu có máu Đại Hán tấn công
tiền nhân ta. Liệu lúc đó các lời có cánh mà các giáo
sư đại học của ta và nhà thơ của ta trong nước như thế
này có làm người Việt hải ngoại không rơi nước mắt
?
Xin nhường cho câu
trả lời cho các tấm lòng Việt đang đọc đến cuối bản
văn này.
Xin cám
ơn
Laiquangnam
-o0O0o-
Kỳ tới
Ngay trong số này
Chim Việt Cành Nam này, laiquangnam gởi tiếp bài thứ hai có
tên
Giải mã "mật
ngữ" trong thi kệ Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư,
Qua bài này bạn
sẽ thấy trí thông minh của người Việt khi họ vận dụng
thứ chữ viết của Tàu mà hồn là hồn Việt ngữ
Thân ái
Quê nhà chả
có gì vui,
Ngước lên,
cúi xuống, Con chui ngách nào ?
Loay hoay chưa
biết làm sao!,
Thành
phố HCM, Dec 15, 2016
laiquangnam
_____
Bài đọc thêm hôm
nay :
1- Lời có cánh
từ bài Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư
2- Đọc Lĩnh
Nam Chích Quái từ bản dịch của Viện Văn học Hanoi
|