Phần
II - Truyện Không Lộ trong Lĩnh Nam Chích Quái
Vào
năm 1990 bản văn Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư được
đưa vào giáo trình bậc học phổ thông tại Việt Nam. Hai
năm sau, 1992, Viện trưởng Viện Khảo Cổ Việt Nam, giáo sư
Hà Văn Tấn mở màn cuộc tấn công bản văn này. Là người
có chức có quyền, bản văn tấn công của ông ngay lập tức
gây tiếng vang và Dàn Đồng Ca thổi kèn xung trận. Đã có
những tiếng nói kháng cự yếu ớt của các giáo sư văn học
Việt Nam đầu ngành như Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Giáo sư
Nguyễn Khắc Phi, Giáo sư Trần Đình Sử nhưng không ăn thua
gì. Dàn đồng ca sau đó lặng lẽ kèm thêm lời chú thích
cực kỳ tiêu cực vào bài học này trong sách Giáo khoa Ngữ
Văn Lớp 10 sau 75. Người mở hộp Pandora là Hà Văn Tấn. Kẻ
Đốt Đền lần cuối và quét sạch tàn tích là nữ giáo sư
tiến sĩ Đoàn Thị Thu Vân hậu duệ ông. Năm 1998, "phe ta"
đồng loạt bóc bản văn này ra khỏi Tuyển Tập Thơ Văn Lý
Trần. Năm 1999 bản văn bị bóc ra khỏi giáo trình Ngữ Văn
lớp 10. Cuộc chiến kết thúc, thắng lợi. "HUY HOÀNG!. thuộc
về phe ta. (1)
"Ai đó" ngơ ngác
đến não lòng!
Làm sao vô hiệu
hóa thắng lợi vô lý của "Phe Ta" ?
Bước một là phải
có ngay một bản văn thư quy về bài thơ Ngôn Hoài -chúng tôi
đã làm. Bước hai là giải mã câu chuyện về Ngài Không Lộ
thiền sư trong Lĩnh Nam Chích Quái - đang làm. Và cuối cùng
là phải giải mã cho kỳ được bản văn Ngôn Hoài một cách
thuần lý để bài thơ này là một viên ngọc trong kho tàng
trí tuệ Việt Nam và có thể ở bậc cao hơn "?" - Đó là tiếng
gọi của con tim của người Việt Hải Ngoại.
Tại bước hai là
giải mã câu chuyện về Ngài Không Lộ thiền sư trong Lĩnh
Nam Chích Quái - đang làm này, chúng tôi đã dùng hai tài liệu.
Thứ nhất là Lĩnh Nam Chích Quái cuả Viện Văn Học
Hà Nội do Đinh Gia Khánh chủ biên và thứ hai là Thiền
Uyển Tập Anh của giáo sư Lê Mạnh Thát chọn dịch. (2)(3)
Lĩnh Nam Chích
Quái là niềm tự hào của sắc dân sống tại đất Lĩnh
Nam. Niềm tự hào của sắc dân Lạc Việt. Nó giúp củng cố
niềm tin Việt là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu. Nhà bác học
Lê quý Đôn kín đáo nói xa gần rằng :" Tiền nhân ta ta
luôn luôn có ý đồ cạnh tranh về trí tuệ với người phương
Bắc. " Điều này có thật khi ta đọc kỹ câu chuyện về
Không Lộ thiền sư trong Lĩnh Nam Chích Quái.
Qua hai tài liệu
kể trên, tôi đã dùng đến 95% những gì mà ta có thể dùng
lại được. Sai sót chỉ một hai từ trong bài thơ Ngôn
Hoài trong hai bản văn này mà thôi. Và việc này đã được
giải quyết ở phần thứ I .
Cách viết của
người Việt thời Lý Trần?.
Các tác giả của
ta thưở ấy đang sống trên một đất nước không có chữ
viết riêng cho dân tộc mình. Họ học chữ Tàu, đọc sách
Tàu, viết chữ Tàu, do vậy thói quen dựa vào một cái nền
của người Tàu đã làm sẵn là điều dễ hiểu. Tiện và
gọn cho mình, bởi tiết kiệm về thời gian, về giấy mực.
Có khi người xưa cho đó là mẫu mực thưởng ngoạn của
người cùng thế hệ "?".
Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục ghi lại đời sống và sinh hoạt của các cao
tăng Trung hoa được lưu trữ tại các chùa Tàu và các chùa
Việt thuộc dòng Phật Hán trên đất nước này. Câu chuyện
của cao tăng Duy Nghiễm được Lý Cao, thi nhân đời Đường
tán dương qua hai bài thơ, là niềm hãnh diện của dân tộc
phương Bắc về một hướng tu thiền "Đốn ngộ" được Đại
sư Suzuki nhắc lại trong bộ Thiền luận của ông.
I- Câu chuyện
Không Lộ thiền sư trong Lĩnh Nam Chích Quái
( bản văn thư
quy, Từ nguồn của giáo sư Lê Mạnh Thát )
Câu chuyện Không
Lộ thiền sư xuất hiện đồng thời trong Lĩnh Nam Chích
Quái và Thiền Uyển Tập Anh. Cả hai bản văn đều
"giông giống nhau " một cách đáng kinh ngạc về cách bố cục
và ngôn ngữ, giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã viết như
thế; rằng đã có một sự sao chép từ cùng một nguồn. Ngày
nay chúng ta có điều kiện tốt hơn người xưa do bởi phương
tiện truyền thông và đi lại.
THIỀN SƯ Không
Lộ ( ? - 1119)
laiquangnam ghi bên
dòng: Bạn sẽ thích nếu như bạn để ý rằng đã có rất
nhiều data nén vào trong đoạn văn rất ngắn dưới đây.
"Ngài là người
họ Dương. Dòng dõi làm nghề chài, sau bỏ nghề chài, hướng
lòng theo Phật, thường trì tụng Đàlani môn. Trong khoảng
Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) cùng bạn đạo là Giác Hải
cất bước vân du, tạm đến chùa Hà trạch nương thân, mặc
áo cỏ, ăn lá cây, đến nỗi quên chính thân mình. Ngài dứt
ruỗi dong, trọng tu thiền định, tâm thần tai mắt ngày một
nhẹ nhàng, bèn bay lên không, đi trên nước, làm cọp nép,
kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường
nổi
Sau Sư về quận
mình lập chùa. Một hôm, có thị giả thưa rằng: "Từ ngày
con đến đây, chưa được thầy dạy bảo chỗ tâm yếu, nhưng
con mạn phép xin trình một bài kệ:
Nguyên tác
鍛鍊身心始得精
森森直幹對虛靈
有人來問空空法
身在屏邊影集形
Phiên âm
Đoán luyện thân
tâm thỉ đắc tinh
Sum sum trực
cán đối hư linh
Hữu thân lai
vấn không không pháp
Thân tại bình
biên ảnh tập hình.
Sư xem xong bảo:
"Ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước
đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào mà ta lại không
cho ngươi tâm yếu?". Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường
nói kệ rằng:
Nguyên tác
言懷
擇得龍蛇地可居,
野情終日樂無餘。
有時直上孤峰頂,
長叫一聲寒太虛。
Phiên âm
Ngôn hoài
Trạch đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung
nhật lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.
Từ văn bản Phiên
âm F1
Trạch đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung
nhật lạc vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.
Laiquangnam đề xuất
bản văn F2 (4)
Trạch đắc longxà
địa khảcư
Dãtình, chungnhật,
lạcvôdư
Hữu, thì trực
thướng côphongđỉnh
Trườngkhiếu,
nhấtthanh, hàntháihư.
Ngày mồng 3 tháng
6 năm Kỷ hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), Sư viên
tịch. Môn đồ thu thập xá lợi táng trước cửa chùa.
Sau đó, vua ban
chiếu sửa rộng chùa này và đặc cách cho thuế hộ 20 người
để trông coi hương khói. "
II- Câu chuyện
nhà sư DUY NGHIẾM và nhà thơ Lý Cao [ 李 翱 ]
( Theo sát đến
95 % và viết lại từ nguồn của giáo sư đầu ngành về văn
học Trung Quốc Nguyễn Khắc Phi )
Lý Cao [ 李 翱 ]
là ai ?. Ông là Quan Thứ sử đất Lăng châu thời Đường
bên Tàu và là nhà thơ. Trước kia ông có quan điểm chống
Phật giáo bởi sự cao ngạo của người Đại Hán, rằng Phật
giáo vốn xuất xứ từ người Hồ, rằng " Trung Nguyên ta có
văn hóa từ muôn đời nay, tại sao nay ta phải học của họ
". Về sau Ông thích minh triết Phật giáo, cho dù văn hóa Lão
Trang vốn đã có sẳn trong tâm hồn người Trung Hoa như ông.
Nơi ông cai quản có một cao tăng tên là Duy Nghiễm, ông thường
đến đó thăm viếng và học thêm về đạo pháp. Ông nhận
nhà sư làm thầy. Hai bài thơ sau đây, ông viết tặng vị
thiền sư đó là nổi tiếng hơn cả. Nó nhuốm mùi thiền
đốn ngộ.
Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục đã viết một bài dài bàn sâu về bài này. Sau
đây là nội dung hai bài thơ vừa đề cập.
李翱,
Lý Cao
贈藥山高僧惟儼
Tặng Dược Sơn
cao tăng Duy Nghiễm
-o0O0o-
其一
煉得身形似鶴形,
千株松下兩函經。
我來問道無餘說,
雲在青天水在瓶。
Kỳ 1
Luyện đắc thân
hình tự hạc hình,
Thiên châu tùng
hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo
vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên
thuỷ tại bình.
Kỳ 2
幽居
選得幽居愜野情
終年無送亦無迎
有時直上孤峰頂
月下披雲嘯一聲
U CƯ
( tức bài Tặng
Dược sơn cao tăng Duy Nghiễm, kỳ II )
Tuyển đắc u cư
khiếp dã tình
Chung niên vô tống
diệc vô nghinh
Hữu thì trực
thướng cô phong đính
Nguyệt hạ phi
vân khiếu nhất thanh
III- Ta thấy gì
ở hai bài thơ này ?
Giống và khác nhau
( Một của Lý Cao và Một của Không Lộ thiền sư, tiền nhân
ta )
IIIa- Về Lý Cao
Bài thơ thứ nhất,
Lý Cao viết về cuộc gặp gỡ của ông với nhà sư. Ông thường
hỏi nhà sư về tính không, về cách nhìn cho đúng " bản lai
diện mục " của tạo vật. Bài thơ thứ hai, khi nghe người
dân trong địa bàn ông quản lý kể lại " Đêm trăng tròn
hôm qua, có tiếng cười vang dội từ một nhà sư đang đứng
trên đầu núi nhìn trời". Ông đã hiểu điều gì đã xảy
ra với thầy ông. Ông tin Thầy mình nay " Đốn ngộ " do bởi
ông đã thấy được cái "bản lai diện mục", "cái chân tâm
như thường trụ" ngay khi mây đen kéo đi hết, vầng trăng
kia " phô ra ‘cái " đĩa vàng sáng vằng vặc " đó là " bản
lai diện mục " của chính nó; Nhìn lại mình, nay ông đã thấy-cái
chân tâm, cái Phật tánh khi mà mọi " vô mình kéo qua hết",
ông đã đốn ngộ. Từ hình ảnh ấy, ông viết bài thơ thứ
hai kể trên.
Từ thực tế đó,
kinh sách Trung hoa viết lại, " tán ra " câu chuyện trong "Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục", giáo sư Nguyễn Khắc Phi dịch lại
cho chúng ta như sau: (5)
"Thứ sử Lãng Châu
là Lý Cao muốn tiếp thụ đức lớn của thiền sư, nhiều
lần mời nhưng sư không đến. Bèn phải tự thân vào núi
yết kiến. Sư cứ cầm quyển kinh, không màng ngó tới. Người
hầu bạch cụ : "Thưa có quan Thái thú ở đây". Lý Cao tính
tình nóng nảy, nói : "Thấy mặt chẳng bằng nghe danh !". Sư
gọi: "Thái thú !". Cao thưa : "Dạ vâng". Sư hỏi: "Sao lại
coi trọng tai mà khinh rẻ mắt ?". Cao chắp tay tạ lỗi và
hỏi : "Thế nào gọi là Đạo ?". Sư đưa tay chỉ trên và
trỏ dưới rồi hỏi : "Hiểu không ?". Cao đáp : "Không hiểu
ạ". Sư nói : "Mây ở trên trời, nước ở trong bình" (Vân
tại thiên, thuỷ tại bình). Cao vừa ý, đáp lễ rồi thuật
một bài kệ như sau :
Kỳ 1
Luyện đắc thân
hình tự hạc hình,
Thiên châu tùng
hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo
vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên
thuỷ tại bình.
Cao lại hỏi: "Thế
nào là Giới, Định, Tuệ ?". Sư đáp : "Ở chỗ bần đạo
không có đồ dùng không cần đến ấy". Cao không đoán ra
được ý nghĩa thâm thuý của câu nói. Sư bảo : "Nếu Thái
thú muốn tu dưỡng chân tính và vận dụng được nó thì
hãy lên đỉnh núi thật cao hay ngụp xuống dưới đáy biển
cực sâu mà đi (trực tu hướng cao cao sơn đính, toạ thâm
thâm hải để hành). Những vật trong khuê các nếu luyến
tiếc mà không cắt bỏ được thì sẽ thấm điều phiền
não !".
Một đêm, sư lên
núi kinh hành. Bỗng mây rẽ trăng ló, sư cười lớn. Tiếng
cười lan xa đến khoảng chín mươi dặm về phía đông Phong
Dương. Cư dân ai cũng hỏi nhà phía đông của mình. Đến
sáng hôm sau truyền hỏi đến tận núi Dược Sơn. Mọi người
bảo : "Đêm qua hoà thượng đã cười lớn trên đỉnh núi
đó !". Lý Cao lại tặng một bài thơ:
Kỳ 2
U CƯ
Lý cao
( tức bài Tặng
Dược sơn cao tăng Duy Nghiễm, kỳ II )
Tuyển đắc u cư
khiếp dã tình
Chung niên vô tống
diệc vô nghinh
Hữu thì trực
thướng cô phong đính
Nguyệt hạ phi
vân khiếu nhất thanh
Mãi sau này, một
người Tàu là Phan Quế Minh giải thích câu thơ của tiền
nhân họ như sau: "Vân tại thanh thiên, thuỷ tại bình", trong
bài thứ nhất như sau; "Đó là Thiền lý mà Lý Cao đã lãnh
ngộ được. Mây trôi nổi phiêu dạt trên trời xanh, nước
đứng yên trong bình, một động một tĩnh, bản chất thiên
nhiên vốn là vậy, chẳng bận tâm làm gì. Đó cũng là ý
của câu "Sơn thị sơn, thuỷ thị thuỷ" mà Thiền gia thường
truyền tụng để ám thị cái cảnh giới sau khi đã đốn
ngộ".
Tại bài thơ thứ
hai của Lý Cao, ý thiền đốn ngộ quá rõ nên người Tàu
không giảng gì thêm. Chính bài tứ tuyệt thứ hai là sự mô
tả cụ thể giai đoạn hành thiền của nhà sư Duy Nghiễm.
Một thiền sư chọn ngôi chùa dựa vào cảnh núi rừng yên
tĩnh. Cái hay là câu cuối, vừa mô tả đúng thực tế, vừa
lột tả phép tu đốn ngộ của dòng thiền Trung hoa ngày đó.
Xin Bạn đọc qua
phần của Lý cao, và phần bình giảng của người Tàu tán
dương về tiền nhân họ. Bạn đã được đọc câu ‘Vân
tại thanh thiên thuỷ tại bình". Tiền nhân ta trong Lĩnh
Nam Chích Quái viết mấy từ "Sư xem xong bảo: "Ngươi đem kinh
đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước đến, ta vì ngươi
uống, thì có chỗ nào mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?".
(Lĩnh Nam Chích Quái ).
Trí tuệ người
xưa thật là kinh hồn và tinh tế làm sao. Hành văn nén chặt
không chê vào đâu được !
Mời bạn đọc
tiếp bố cục trong câu chuyện trong Lĩnh Nam Chích Quái
IIIb- Về Không
Lộ thiền sư & Ngôn hoài.
.
Tiền nhân ta khi
viết từ lại từ cái nền ấy trong Lĩnh Nam Chích Quái gọn
hơn, nén hơn, nhưng áp sát theo mô thức của Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục. Bước thứ nhất đưa ra thơ mồi rồi tiếp đó
đưa bài thơ chính Ngôn Hoài vào bản văn.
Đoán luyện thân
tâm thỉ đắc tinh
Sum sum trực cán
đối hư linh
Hữu thân lai vấn
không không pháp
Thân tại bình
biên ảnh tập hình.
Sư xem xong bảo:
"Ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước
đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào mà ta lại không
cho ngươi tâm yếu?". Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường
nói kệ rằng:
Ngôn hoài
Trạch đắc long
xà địa khả cư
Dã tình chung nhật
lạc
vô dư
Hữu thì trực
thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu
nhất thanh hàn thái hư.
Tại bài thơ mồi,
từ "Bình biên", được dùng là một sự cố ý của tác giả
Lĩnh Nam Chích Quái để hình ảnh minh họa linh động hơn.
Tác giả cho người hành giả ngồi sát hay áp sát mặt vào
tấm gương của chiếc bình phong thì hiện tượng này xảy
ra ảnh tập (tập hay là rập như nhau ). Ảnh "đồ", rập /tập,
ảnh trong gương soi y chang người ngồi trước nó. Bài thơ
mồi có đại ý như thế này: " Rèn luyện thân tâm thì
mới được có tấm thân như ý mình, Tâm thanh tịnh, thể
cường tráng. San sát thân người đối diện với hư linh.
Người mang Hình hài này vốn vướng bận về Không Vương
Pháp, (tức Lời Phật dạy về tính không ( không tánh), nay
lòng mang điều còn nghi hoặc chưa thông, xin được ngài chỉ
dạy. Tại sao thế?. "
Vừa nghe xong lời
đệ tử, Ngài Không Lộ thiền sư của chúng ta đã đọc được
ngay dòng tư tưởng của Anh ta, thế nên Ngài bảo:
1-Ngươi đem kinh
đến, ta vì ngươi nhận.
Kinh gì?, Kinh luận
về tính không bát nhã, về Trung Quán Luận, bởi "ngươi" có
ý muốn nhắc ta về Lý Cao, Duy Nghiễm ?. - laiquangnam nhắc
tuồng bạn, " Ngài Không Lộ thiền sư là tổ thứ ba của
dòng Thảo Đường, một dòng thiền chuộng văn học". Ta đang
biết "Ngươi" chưa thông. "Ngươi" không biết là phải, bởi
ngay cả điều đơn giản nhất mà "ngươi" còn chưa thông (
ảnh rập hình khi dựa tường, dựa gương ), vậy thì làm
sao mà "ngươi" hiểu về tính không, luận về NHÂN VÔ NGÃ
VÀ PHÁP VÔ NGÃ thường trụ ở cõi niết bàn. "
2-Ngươi mang nước
đến, ta vì ngươi uống.
Tại sao tác giả
Lĩnh Nam Chích Quái, và Thiền Uyển Tập Anh lại chèn từ "nước"
vào đây. Thì ra từ bản văn của người hành giả, học trò?,
Ngài biết " cậu ta" đã dùng câu thơ cùng lấy ý trong các
dòng kinh khá khó là Viên Giác, Pháp Hoa, Kim Cương. Loại kinh
cùng nguồn với bài thơ thứ nhất của Lý Cao viết tặng
nhà sư Duy Nghiễm có từ NƯỚC, trong câu "Vân tại thanh
thiên thuỷ tại bình"-. Mây trên trời và nước trong bình.
Nước là từ thân quen thường được các Tổ mang ra làm ví
dụ. Nước, sóng trên bề mặt đại dương có khác gì với
lớp nước đại dương sâu thẳm. Này, xưa Đức THẾ TÔN
khi hoằng pháp, Ngài đâu có giảng quá phức tạp như thế!.
Nay cứ từng bước một theo điều được dạy trong Bài pháp
kệ Ngôn Hoài truyền thừa, nó sẽ giúp mngươi tìm đến bến
bờ giác ngộ mà không quá lao tâm lạo lực như thế. .
3-Sư thường
nói kệ rằng:
Điều này cho thấy,
bài Ngôn Hoài được thiền sư thường được Sư mang ra giảng
cho chúng sinh, từ người mới bước chân vào cửa Phật cho
đến một bậc cao tăng. Bài thơ thiền này chính là "bài pháp
kệ truyền thừa" được thường xuyên giảng dạy trong Thiền
phái. Đây là điểm khác biệt của hai bản văn: bản
văn của Lý Cao và bản văn của Không Lộ thiền sư.
Tác giả Lĩnh Nam
Chích Quái gởi cho chúng ta nụ cười. Tác giả đã thay mặt
thiền sư dấu mình sau trang sách, gởi đến thế hệ chúng
ta nụ cười này: "- khờ quá, ông bạn nhỏ của ta ơi! ".
Ảnh là bóng, Hình hài là thật. Ảnh hình giống nhau do mắt
thấy, từ Ngã chấp mà ra. Có tiếng "cười ha hả. " rộ ra
sau trang sách. Ô là là ! tiền nhân của chúng ta, Tuyệt lắm!.
Quá nhiều hàm ý
ẩn dụ, vừa thương hại, vừa bao dung, sau hai âm "ha hả"
ấy. Người đã đại ngộ thì "Lạc vô dư" là vậy. Lạc
là "sukha" trong cảnh giới Phật, cảnh giới thiền, đâu phải
là Lạc của cảnh giới Lão Trang. Có khi nào Bạn hiền nghĩ
rằng tác giả Lĩnh Nam Chích Quái, tiền nhân ta đã "cười
nụ" trên bản văn của Cảnh Đức Trấn Truyền Đăng Lục?.
Thành Phật đâu có dễ dàng như thế, - bạn có để ý ngài
rất đa hệ -đâu phải chỉ là Tổ ở dòng thiền Vô ngôn
Thông, thôi đâu.
Chính vì không đọc
kỹ những gì mà tiền nhân ta viết, lại dồn nổ lực tra
cứu trong kinh điểnTàu; choáng ngợp những gì họ viết, quay
lại phát ngôn " vô trách nhiệm " trên di sản tiền nhân ta.
Người thì mở hộp Pandora, Kẻ kia châm lửa Đốt Đền!.
Tất cả đều đã là kẻ phạm Tội ác, tội hủy hoại di
sản tiền nhân ta.
Xin các "người
" trong Dàn đồng ca nhớ rằng, - Ai đó một khi đến cửa
Phật, thì câu đầu tiên mà họ phải tự đọc là "Quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng ". Một lần nữa, xin đừng quên rằng
Ngài Không Lộ thiền sư trong sử sách viết ngài học đạo
với một Samon khi qua Tây Trúc : với bài thi kệ Ngôn Hoài,
nội dung thể hiện những gì mà Lời Phật dạy về vai trò
của một tì kheo, tức tăng sĩ Phật giáo như sau:
1-Tỳ kheo là từ
hàm chứa sự đầy đủ về giới hạnh (Pàli: Sìla; Skt: 'Sìla’)
và trí tuệ (Pàli: Pannã; Skt: Prajnã).
2-Một tu sĩ chân
chính khi vị ấy không những xa rời sự tham dục và những
trạng thái xấu ác, mà còn thể nhập vào 4 trạng thái của
thiền định (Skt: Dhyànas; Pàli: Jhànas).
3-Tỳ kheo nên làm
những công việc đáng làm như sự tu tập về đức tính tàm
quý, về thân-khẩu-ý hành thanh tịnh, về mạng sống thanh
tịnh, sự phòng hộ các căn, sự tiết độ trong ăn uống,
sự chánh niệm và tỉnh giác;
4-Tỳ kheo phải
sống như hòn đảo của chính mình, hãy nương tựa chính mình,
không nương tựa ai khác, để giải thoát mọi tham dục và
phiền não thông thường ở đời.
Cuối cùng, Đức
Phật kết luận lời dạy của Ngài rằng
5-một tu sĩ Phật
giáo được gọi là hoàn hảo phải có 8 đặc tính:
a) có lòng tin,
có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, có sống với hội
chúng, có vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với bốn Thiền
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được
không khó khăn, chứng được không mệt mõi, chứng được
không phí sức, do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát;
Thành tựu 8 pháp
này, -này các Tỳ kheo, Tỳ kheo được tịnh tín hoàn toàn
và được viên mãn về mọi phương diện (6)
Thích Quang Thạnh Ph. D
Xin các "người",
người đánh trống kẻ thổi kèn, cầm đuốc, mở hộp xông
tới ngôi Đền thiêng -Ngôn Hoài nhớ cho một điều là "bản
văn Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư của chúng ta vô cùng
kỳ ảo, bởi nó áp sát Lời Phật dạy trên, mà trong bài
thơ của Lý Cao không sao có được một chữ, một dòng - (7)
Đối chiếu với
câu chuyện của Lý Cao, bản văn mà tiền nhân ta đã viết
tuy rất ngắn nhưng đã làm rõ nét thuộc tính Việt, Việt
là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu.
Phần tham khảo.
(1)
- ta sẽ trở lại vấn đề này trong một bài riêng, Kẻ Đốt
Đền di sản tiền nhân, nằm trong loạt bài về Không Lộ
thiền sư này, ngay trên trang website này.
(2)
- đã nhắc tại phần I, Đinh Gia Khánh chủ biên Lĩnh Nam Chích
Quái và thứ hai là Thiền Uyển Tập Anh của giáo sư Lê Mạnh
Thát
(3)
- Lê Mạnh Thát
Thiền Uyển Tập Anh
Lê
Mạnh Thát, Thiền Uyển Tập Anh, bản khắc vào thế kỷ 18,
đời Hậu Lê.
(4)
- Các từ viết liền, là viết dính liền lại một đề xuất
của laiquangnam nhằm thúc đẩy sự phát triển tự vựng tiếng
Việt qua chữ quốc ngữ hiện nay, đây là của thuật ngữ
Phật giáo, minh triết của nhà Phật, hay gọi là Phật triết.
Trong
bản văn F2, các từ viết liền, là viết dính liền lại,
đó là của thuật ngữ Phật giáo, hay nói khác hơn là các
từ Phật triết của sắc dân Đại Việt thời Lý. Có ba cách
viết trong bản văn Việt ngữ, viết rời, viết dính liền
và viết có ngang nối. Mỗi cách viết khiến một cặp chữ
mang một thẻ trạng khác nhau -
(5)-
Nguồn của từ sách của giáo sư Nguyễn Khắc Phi, Trung Quốc
Thiền tông tư tưởng lịch Kim Nhật Trung Quốc xuất bản
xã, Bắc Kinh, 1992, trang 335.
Phần
liên quan đến Lý Cao, laiquangnam lấy trong sách Nguyễn Khắc
Phi tuyển tập. Xin cám ơn giáo sư Nguyễn Khắc Phi.
(6)-
(https://www. giacngo. vn/PrintView. aspx?Language=vi&ID=52C650
Đại
đức Thích Quang Thạnh-Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành
của Học Viện Phật Giáo Việt Nam TPHCM
(7)-
phần này sẽ dược làm rõ trong bài cuối cùng là bài Giải
mã Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư
Những
tháng ngày cuối năm "Con khỉ"
Laiquangnam
___________________
Mời bạn đọc
bài giải trí
Phụ lục 1- Hộp
Pandora là gì ?
---------o0o----------
Kỳ tới
Phần IV: Giải
mã "mật ngữ" trong thi kệ Ngôn Hoài của Không Lộ thiền
sư.
Bạn sẽ đọc
vào ngày đầu Xuân con Gà
|