II
-Trường hợp thứ nhất, những gì xảy ra trên bài thơ
danh tác: Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (1).
Phần
thứ nhất, bản kê các văn bản F1 và F2
Trong vai trò một
cô giáo dạy chữ nghĩa thơ phú cho các công chúa, Bà
Huyện Thanh Quan đã hiểu mình phải làm gì tốt nhất
cho các cô học trò bé nhỏ của mình. Các cô nàng có thể
sẽ trở thành các quan bà tương lai dấu mặt sau công đường.
Vua Minh Mạng có 64 Công Chúa. Các nàng công chúa này phải
được học thi ca một cách chính quy và chính thống. Phải
thông thạo dòng thơ thất ngôn bát cú để trở nên người
vợ hiền, giữ được niềm vui cùng hạnh phúc khi tự mình
có thể xướng họa thi phú cùng chồng trong chốn riêng
tư. Chồng của họ sẽ là các quan tân trạng trong các khoa
thi định kỳ hàng năm. Đây có thể là mục tiêu mà vua
Minh Mạng muốn nhắm đến.
Bài thơ Qua Đèo
Ngang là bài thơ duy nhất của nữ sĩ được giáo sư Dương
Quảng Hàm nhắc đến trong sách Giáo khoa của mình. Văn bản
F1 như sau
Bước tới Đèo
Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá
lá chen hoa.
Lom khom dưới núi
tiều vài chú,
Lác đác bên sông
chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng
lại trời non nước,
Một mảnh tình
riêng ta với ta.
F1, Bà Huyện
Thanh Quan
Nữ sĩ đã áp
sát quy ước hành văn trong dòng thơ thất ngôn bát cú
mà giới sĩ tử xưa của ta rất am tường. Vì lý do trên,
ta sẽ không lạ khi Bà Huyện rất tài tình phân bổ bố
cục quy ước gồm bốn phần Đề, Thực, Luận, Kết. Bà
đã dùng nhiều ước lệ để nén ý, dùng động từ
"biểu thị động thái khác thường" khiến ta phải tự
hỏi, tại sao nó lại xuất hiện đúng lúc và đúng chỗ như
thế. Ví dụ: câu kết số 7. "Dừng chân đứng lại....".
được hiểu "Dừng chân" để làm gì? ,"đứng lại" ,tại
sao lại phải đứng hẳn lại? Dừng không đủ sao?. Dừng,
đứng đã đủ để ngắm cảnh sắc nơi đây lần cuối?
. Không đủ " đô " về ngôn ngữ. Từ "lại " xuất hiện hổ
trợ ngay sau động từ " đứng ". "đứng lại! " như một
lời lệnh yêu cầu phải thực hiện ngay và nữ sĩ......?
, lặng lẽ " lau giòng lệ đang chảy tràn làm nhạt nhòa mọi
cảnh sắc xung quanh" , trước đó tại câu luận số 5 , "nhớ
" được hiểu là nghĩ về . 'nhớ nước" là nghĩ về tổ
quốc vào thời điểm 1847...vv ... .Thời điểm 1847 đã làm
nữ sĩ trào dâng cảm xúc. Nữ sĩ quá đỗi tài hoa ngoài
sức tưởng tượng của người đang viết !.
Bà dùng địa
danh Đèo Ngang để nhắc về lịch sử dân tộc một
cách kín kẻ. Dùng từ đa nghĩa, đa chức năng về văn
phạm như "cái, con,quốc, quốc, gia, gia ". Từ những đông
từ ẩn dụ sâu thẩm và chắt lọc đã dẫn đến nhiều
cách hiểu chợt đến trong đầu của "ai đó" khi họ tiếp
cận một câu thơ hay một cụm từ trong văn bản. Cách tân,
làm mới hóa, sức thưởng ngoạn của mình, một văn bản
F2 ra đời. F1 ngày càng lung linh trong tâm khảm người Việt.
Cái nền này sẽ làm kiên cố ý tưởng chắc gì thơ Đường
đã hay hơn thơ Việt. "Xưa rồi Diễm ơi !", câu mất dạy
từ những người mất gốc "nôm na là cha mách qué".
Văn bản F1 &
và vài văn bản F2 khác
F1,Bà Huyện Thanh
Quan
Bước tới Đèo
Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen
đá lá chen hoa.
Lom khom dưới
núi tiều vài chú,
Lác đác bên
sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng
lại trời non nước,
Một mảnh tình
riêng ta với ta.
Bà Huyện Thanh
Quan
oOo
F2, Dương
Quảng Hàm
Bước tới Đèo
Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen
đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới
núi, tiều vài chú,
Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng
lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình
riêng, ta với ta.
Dương Quảng Hàm
,Văn học Việt Nam Hanoi 1939 . BQGGD,TrungTâm Học Liệu tái
bản, trang 47 )
Sách trên đây,
Bạn có thể load về từ cánh "Người Việt Hải Ngoại tử
tế" . "Người Việt Hải Ngoại tử tế" là người đang
học thứ mà người Việt xưa nay hiếm , "tinh thần thiện
nguyện" ,thứ tinh thần tạo nên sắc thái Mỹ .
Ghi chú riêng
của người viết về bản văn F2, Dương Quảng Hàm
Giáo sư Dương
Quảng Hàm đã đọc rất chính xác 56 chữ nôm trên văn bản
F1. Bản văn F2 của Dương Quảng Hàm tại câu luận (5,6 ) không
có dấu phẩy.Thời ông, các vị khác như Ôn Như Nguyễn văn
Ngọc hay giáo sư Nghiêm Toản không sao sánh kịp về độ
nghiêm túc trong việc viết sách Giáo khoa. Cách đọc chữ
nôm trong văn bản Qua Đèo Ngang sai trái trước đây ,nay đã
được ông ĐINH VĂN TUẤN, hóa giải và ông đã giảng rất
tường minh.
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n15156/
Ve-cai-gia-gia-trong-bai-tho-Qua-Deo-Ngang-cua-Ba-Huyen-Thanh-Quan.html,
.
Chúng tôi tri ân
Ông. Rằng công lao của ông TUẤN không người này thấy thì
người kia cũng thấy. Rằng người Việt hiện nay " không
đui" như các vị giáo sư tiến sĩ đã và đang dạy tại
các trường ĐHKHvà NV tại Hanoi và TP .HCM. Việc cho đăng trên
trang của Trường mình các bài viết của '"Học giả đường
phố "AN CHI ,có liên quan đến bài thơ Qua Đèo Ngang của
Bà Huyện Thanh Quan khiến cho SV của các ông giáo sư tiến
sĩ phẩn nộ. Nay " các "Ngài Giáo Sư Tiến Sĩ " này phải
tự " tái tạo " kiến văn của mình một cách " khẩn trương
". Tại sao gấp gấp không dùng?; dùng daoto búalớn đã quen?
. Học lại cách đọc chữ Nôm, nhờ tiến sĩ " thiệt "Nguyễn
Xuân Diên dạy cho , và đừng quên nhờ giáo sư " thiệt "
Nguyễn Văn Dân dạy lại cho môn "Phân tích văn học" mà mình
rất yếu đi, bởi hành vi cho post bài của '"Học giả "AN CHI
trên trang website của nhà trường đã là một sự "tố cáo
" rồi. Các Ngài làm ơn thận trọng dùm, tội nghiệp cho con
trẻ,nay là học sinh phổ thông vô tội. Xin hãy tha cho "bọn
nó", chương trình Ngữ Văn các ngài soạn " nặng quá " làm
sao mà đám học sinh tuổi teen kia kham nỗi.
oOo
F2,Hanoi , bài
được dùng từ năm 1963 đến nay .
Bộ Giáodục và
Đàotạo ,
Ngữ Văn, lớp
7 ,tập I , NXB-GDVN-2015, , trang 102-104
Lần tái bản thứ
12 .
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo
Ngang (1), bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá,
lá chen hoa.
Lom khom dưới núi,
tiều (2)vài chú,
Lác đác bên sông,
chợ (3) mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng, con quốc quốc (4),
Thương nhà mỏi
miệng, cái gia gia(5).
Dừng chân đứng
lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình
riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh
Quan ,trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập III,
NXB Văn hoá, Hà
Nội, 1963)
Ghi chú riêng
của người viết về bản văn F2Hanoi
Kèm theo bản văn
F2
của sách Ngữ văn lớp 7 là lời chú thích các số 3
,4, và 5 rất "lạ ", lồng vào tư tưởng của " người
xứ lạ?". Họ là các giáo sư tiến sĩ .
(3)
Có người nói "rợ mấy nhà" chứ không phải "chợ mấy nhà"
vì ở Đèo Ngang heo hút, không phải là nơi đã đông dân cư.
Nhưng cũng có ý kiến bác lại.
(4)
Con quốc quốc (cũng viết là cuốc cuốc): chim đỗ quyên (chim
cuốc). .
(5)
Cái gia gia (cũng viết là da da) : chim đa đa, còn gọi là gà
gô.
Các chú thích (3
),(4),( 5) chỉ ra sự "?" , "?" biết dùng từ nào cho thích hợp
với ban bệ của Ban Giáo sư tiến sĩ này. Nay laiquangnam
tạm thời không liệt kê danh sách. Giáo trình Ngữ văn 7, niên
khóa 2016-2017 đã bán cho học sinh. Tôi ước mong chư vị "
ngó tới ngó lui dùm ". Không kê ra thì chỉ có Người Việt
Hải Ngoại không biết mà thôi nhưng. làm sao dấu người
trong nước được bởi họ chính là cha mẹ phụ huynh học
sinh lớp 7
oOo
F2,Nghiêm Toản
Qua
Đèo Ngang, tức cảnh
Bước tới Đèo
Ngang bónq xế tà,
Cỏ cây chen đá,
lá chen hoa.
Lom-khom dưới núi
tiều vài chú,
Lác-đác bên sông
chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con cuốc-cuổc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia-gia.
Dừnq chân đứng
lại : trời, non, nước,
Một mảnh tình
riêng ta với ta.
VIỆT-NAM VĂN-HỌC-SỬ
Trích-yếu, 1949,
Hạo-nhiên NGHIÊM TOẢN , trang 91
*bài của, ĐINH
VĂN TUẤN, trên Sông Hương . chúng ta xem như giáo sư NGHIÊM
TOẢN đã nhầm khi đọc theo Ôn như NVN.
Ghi chú riêng
của người viết về bài viết F2,Nghiêm Toản
Các từ con cuốc-cuốc,
cái gia-gia. Có ngang nối. Cho dù giáo sư Nghiêm Toản có sửa
lại con quốc-quốc ,thay vì con cuốc-cuốc , cái gia-gia.
thì các cụm từ quốc-quốc, gia-gia viết có dấu - cũng
trong văn bản F2 NT đã rất khác với quốc quốc và gia
gia viết không có gạch nối, bởi một khi buộc chặt hai
từ với nhau bằng một dấu gạch nối thì ngữ nghĩa của
từ đã bị thu hẹp lai. .
oOo
F2, laiquangnam
giới thiệu
Bước tới..."Đèo
Ngang"!,_ bóng xế tà!
_Cỏ cây chen đá,
_lá chen hoa!.
_Lom khom dưới
núi, tiều vài chú,
_ Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà "? & !".
Nhớ nước đau
lòng con!, _quốc !quốc!,
Thương nhà mỏi
miệng cái! , _ gia !gia! .
_Dừng chân, _đứng
lại, trời! _ non nước?,
Một mảnh tình
riêng, _ ta với ta!.
Ghi chú riêng
của người viết về văn bản F2 laiquangnam
Laiquangnam đã dùng
dấu chấm câu can thiệp vào văn bản F1. laiquangnam đưa vào
bản văn thêm yếu tố "kịch" bằng hình thúc câu thoại nội
tâm với dấu _,dấu gạch đầu giòng.
Với âm sắc nặng
của từng miền do người thao giảng, tức thầy cô giáo,
học sinh sẽ nghe như là ...
F1, ==> Nhớ
nước đau lòng con!, _quốc !quốc!, (1)
==> Nhớ nước đau
lòng con!, _quấc !quấc !, (2)
==> Nhớ nước đau
lòng con!, _quất !quất! ,(3)
Ý thơ trong câu
(1)/F2 ? , Thời điểm câu thơ đúng lúc biến cố lịch sử
xảy ra vào năm 1847 tại kinh thành Huế. Người Pháp bắn
chìm tàu đồng của nhà Nguyễn tại cửa Thuận An, rồi kéo
quân vào Nam Bộ . Chạnh lòng trong cảnh sắc Đèo Ngang. Ưu
tư về thời nô lệ mới, mất nước ám vào tâm lòng nữ
sĩ người HANOI năm xưa, khiến bà phải kêu lên lời thảng
thốt .Nhớ nước đau lòng con!, _vút ! vút !, "quất !quất!"
được nghe như là âm thanh xé gió của làn roi quất vào thân
thể nữ sĩ.
Và câu
Thương nhà mỏi
miệng cái! , _ gia !gia! .
Gia là nhà, gia là
người chồng.
Câu hàm ý ,
_ chàng ơi chàng
, con ơi con , các người có nghe lời thở than lẫn thương
nhớ của tôi chăng?. Các người luôn hiện diện trên từng
bước chân của tôi trên đường về .
F1, Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia ==> . Thương nhà mỏi miệng cái,
_Gia! _gia!
bằng hình thúc
câu thoại nội tâm với dấu _,dấu gạch đầu giòng.
Với âm sắc nặng
của từng miền do người thao giảng truyền đạt, tức thầy
cô giáo đang đứng lớp, học sinh sẽ nghe câu này như là
...
Thương nhà mỏi
miệng cái! , _ da ! da !.
Ui da ! ui da !
Nữ sĩ cắn răng
trân mình chịu đựng . "úi da! úi da1 ".
Đã hơn 150 năm
qua từ khi bài thơ Qua Đèo Ngang này xuất hiện, các thế
hệ hậu bối chúng tôi vẫn còn nghe âm sắc " ui da ! ui da
! " phát ra từ người nữ sĩ , người con yêu của HANOI
năm xưa . Nữ sĩ ngày ấy khóc vì Tổ quốc này sắp đến
hồi phân rã. Đau đớn thay và cao thượng thay một Tâm Hồn
của người HANOI năm xưa sao nay đà quá hiếm! . Ngày này
, tháng năm 2016 , cụm từ chứa hai âm " ui da ! ui da !" càng
lúc càng lớn hơn thêm trong tâm thức người Việt khắp
năm châu . Ngậm ngùi.
laiquangnam
Một ngày tháng Năm
ngột ngạt tại Quê Nhà
-----------------
*( 1) thủ pháp
Ngụy biện" lá bùa" Quy Hán là gì ? .
Đây là phép
ngụy biện dựa vào những gì mà Hán tộc đã ghi thành
sách vở . Mọi hiểu biết của sắc dân Hán nay đều là
chân lý để NhàBiênkhảo VọngHán dựa vào đó làm cội
nguồn giải thích những gì mình còn lúng túng, chưa hiểu
thấu đáo. Thuật ngữ "Thủ pháp Ngụy biện" lá bùa"
là từ của GV ĐH Lê quang Đức (Tuệ Lãng ) cho laiquangnam
mượn xài .
(2) *bài của, ĐINH
VĂN TUẤN, năm 2014
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n15156/
Xem như kết thúc
sự phiên âm sai của giáo sư NGHIÊM TOẢN và toàn bộ
những ai đọc khác giáo sư Dương Quảng Hàm
----------------------------------------------------------
Xin mời khách
thơ đọc tiếp,
II
-Trường hợp thứ nhất, những gì xảy ra trên bài thơ
danh tác: Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan .
Phần
thứ hai
===========================
Trong đó Giải
mã bài thơ Qua Đèo Ngang .Bài
viết cũng nằm trong loạt bài
Thử
tìm một giải pháp khác khi giới thiệu dòng thơ cổ của
tiền nhân
Laiquangnam
Mục đích là
giải quyết dứt điểm sự nhầm lẫn từ bao đời
nay khi "Ai đó" cho rằng chim quốc quốc của người Việt
chính là chim cuốc cuốc,hay chim Đỗ Quyên bên Tàu. Và
từ bài viết " Cái gia gia chẳng là cái gì cả ?" đã
được các website thuộc các trường ĐH Khoa Văn trong nước
đồng loạt đăng tải hổ trợ. Bài viết này đã lôi
cuốn hai giáo sư Nguyễn Quảng Tuân,trong nước, và nữ
giáo sư Tiến sĩ Chân Quỳnh tại Pháp tham gia phản biện.
Tuy nhiên hai vị tuồng như đã " bó tay" trước sự hàm
hồ của y. Ông này đã mắng mỏ Bà Huyện Thanh Quan bằng
lời những lẽ "mất dạy". Với bài viết này, laiquangnam
kết luận rằng, lý luận của y đã hoàn toàn sai trái.
Y là một người Tàu Hán,ra đời tại Saigon. Khóa mỗm
y là điều cần phải làm ngay vào thời điểm này,thời
điểm trước khi y chết. |