III-Trường
hợp thứ hai ,bài thơ di sản chữ Hán "Ngôn hoài" của
Không Lộ thiền sư (?-1119)
Phần
III – Kẻ Đốt Đền : Dàn Đồng Ca - Đoạn III B
***
Đoạn III A -
1- Thói quen khó bỏ
của lớp đàn anh khi đọc một bài cổ văn và Tài
năng Tán phét của văn giới trong nước.
2- Dàn Đồng Ca họ là ai? Và nhập cuộc như
thế nào? ,Các lý luận dẫn đến
sự phỉ báng nhân thân Không Lộ thiền sư .Lý lẽ để
loại bản văn Ngôn Hoài ra khỏi sách Giáo khoa và Văn Học
Lý Trần .
Đoạn
III B -Phản biện và bác bỏ các lạp luận sai trái
của Dàn đồng ca
Kết luận
Nhóm Hà Văn Tấn
nêu vấn đề
Điều mà Hà Văn Tấn
không ngờ là từ nhận xét sơ khởi của minh rằng
có sự giống nhau của 14 ký tự giữa hai bài Ngôn Hoài và
U cư. Đàn em ông, Đinh Tiến Bảng
từ đó tiến xa hơn là phủ nhận nét đẹp của đất Lĩnh
Nam. Đinh Tiến Bảng, nhân thân ra làm sao mà ông thực
hiện đúng như ý đồ của Hán tộc?
. Bọn họ đang ẩn núp đâu đó trên đất nước này,
ngày đêm chỉ huy đám âm binh qua các
bang hội phá nát văn hóa Việt Nam?. Có hay không có "quyết
sách đã được vạch ra, cứ bôi bẩn trước đã ,sau đó
"chúng mình" dùng phương tiện truyền thông độc
quyền để tạo dư luận ?" (12 )
Rõ ràng Hà Văn Tấn
đã mở hộp Pandora. Dàn đồng ca dựa vào đấy
để tấn công bài thi kệ Ngôn Hoài của Không Lộ
thiền sư. Tôi hình dung nhóm họ tiến hành việc so sánh như
sau,Xét trên hai bản văn,một của bài U cư và một của
bài Ngôn Hoài
Bài U Cư của Lý Cao
Tuyển đắc u cư khiếp
dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thì trực thượng cô phong đính
Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thanh
Bài Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư
Trạch đắc long xà
địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong
đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Đã có
1)-8 từ (8 /28) giống nhau, gồm các từ nằm
trong ba câu, thứ nhất, thứ hai và thứ tư, đó là các
từ đắc,cư , dã, tình, chung, khiếu, nhất, thanh
2) giống nguyên câu thứ ba " Hữu thì trực thượng
cô phong đỉnh"
Kết luận :
1-Thiền sư Không Lộ không làm bài thơ này"
( viện trưởng Hà Văn Tấn )
2- "ta không thế hình dung một người tài cao
đạo rộng, phấm hạnh tuyệt vời,
cuộc đời như huyền thoại được người tôn sùng
mà lại đi " THUỔNG " thơ của một
quan chức mộ đạo;hơn nữa, bài thơ của vị quan nọ-Lý
Cao. ( Đinh Tiến Bảng )
3- Loai bài Ngôn hoài vào tuyển tập Thơ Thiền
Lý Trần (Nxb Văn nghệ thành phô Hồ Chí Minh, 1998)? " PGS ĐHSP
TPHCM , Đoàn Thị Thu Vân
4- Bộ GD và ĐT bóc bản
văn Ngôn Hoài ra khỏi chương trình ngữ văn lớp 10
vào đầu năm 2000.
Phản biện của laiquangnam
Âm Việt đã xuất hiện hàng nhiều ngàn năm
trước mà chữ Việt vẫn chưa có, người Lạc Việt phải
dùng thứ chữ vay mượn của kẻ đô hộ mình trong tình thế
ngặt nghèo .Họ rất quyền biến. Có khoảng 1700 từ Hán
Việt cơ bản (tạm gọi là lớp thứ nhất) mà người học
chữ Nho thời xưa phải thuộc mặt chữ. Số từ Hán Việt
cơ bản này đã hòa vào ngôn ngữ thường ngày của người
có hoc chữ nho, do bởi họ phải dùng cho việc thi cử ngày
xưa. Các từ này có tần số xử dụng cao, nó chỉ sau các
từ sinh hoạt thuần Việt mà thôi. Có 27/28 từ trong bài thơ
Ngôn Hoài này đều thuộc lớp thứ nhất (gồm 1700 từ
này trừ chữ Phong chỉ là ngọn núi,đỉnh núi cao nhất trong
vùng khác với vài âm phong khác trong Việt ngữ thường nhật
ngày nay như phong dao ,phong tước , kinh phong ,vv.)
Một từ khi gia nhập Việt ngữ lập tức
có nhiều lớp nghĩa, từ đơn giản
đến phức tạp, do tình huống trong câu. Phải trả lời cho
được câu, Ai đã dùng? Việt (dân nước B vay mượn
) hay Tàu ( nước A , chữ của chính dân tộc Tàu ) . Thế
nên khi giảng nghĩa, ta buộc phải hỏi Họ là ai ? . Họ dùng
với ngữ cảnh nào? ; bởi vậy mà tuy cùng thể hiện một
mặt chữ nhưng ngữ nghĩa khác nhau xa là vậy.
Nay ta xét các từ giống
nhau như nhóm Hà Văn Tấn đã nêu
1-Đắc và cư
Dàn đồng ca bảo giống
từ "Đắc" và "cư". Thế ngày ấy Ngài không dùng từ
này thì dùng từ gì nào ?. "Được " và Ở " là hai từ thuần
Việt tiếng Nôm cùng nghĩa với "Đắc" và "Cư". Họ không
sao dùng được bởi thời điểm đó
chữ Nôm chưa hình thành. Ghi lên giấy qua chữ Tàu cho
dễ nhớ là giải pháp tối ưu thay vì dùng một hình vẽ
vội vụng về trên giấy . Đắc và Cư thuộc nhóm bất khả
thể hiện như thế .
Với nhóm từ thuộc lớp thứ hai thì phức
tạp hơn. Có những từ có thể tách riêng để giảng xưa
nay như kiểu Tam Thiên Tự, kiểu "tử con, tôn cháu" , nhưng
cũng có những từ mà ngữ nghĩa phải được giải nghĩa
theo một cặp từ, một dạng cặp từ bất ly thân và có
nghĩa đặc biệt mà ta hiểu
nó là một thuật ngữ . Thuật
ngữ chỉ được hiểu nếu như ta có được nghe ai đó
giảng ,nó không có sẳn trong ngôn ngữ bẩm sinh hàng
ngày.
"Ai đó" đã từng đọc
thơ Đường, nhất là dòng Tứ Tuỵệt, vị trí mỗi
câu có một vai trò trong việc triển khai bố cục và phân
bố ý tưởng của tác giả. Sự khác biệt sâu xa khi nó
rơi vào một trong bốn câu trong bài thơ tuyệt cú . Câu thứ
nhất câu "khai đề" ,Câu thứ hai là câu "triển khai", làm
rõ những gì mà câu khai đề thứ
nhất đề cập.Dạng thức cấu trúc chức năng từng
câu trong dòng tứ tuyệt cũng tương tự bốn cặp trong dòng
thất ngôn bát cú ( xin xem lại bài Qua Đèo Ngang của laiquangnam
)
Dã tình
a) dã tình?. Nghĩa thật sự xuất hiện
trong bản văn của Lý cao là nằm ở cuối câu thứ nhất
. "Tuyển đắc u cư khiếp dã tình". Dã là tính từ liên quan
đến ruộng đồng. Nó "đối nghĩa
với "thị " trong cụm thị tứ.
b) dã tình? , Nghĩa thật sự xuất hiện trong
bản văn Ngôn Hoài của Ngài Không Lộ thiền sư nằm ở
đầu câu thứ hai "Dã tình chung nhật lạc vô dư ".
Khác nhau về ngữ nghĩa của cặp từ này
" dã tình " ở trong câu thứ nhất của Lý Cao
mang tính giới thiệu ban đầu về
nội dung bản văn .Nghĩa chính là " tình nơi thôn dã"
thật là tỉnh lặng, nó không có cái " ồn ào " của chốn
thị thành làm phân tâm người muốn
đi tu .
"dã tình " ở trong câu thứ hai của Không Lộ
thiền sư mang tính triển khai câu khai đề
thứ nhất . Nó đã đi sâu vào nội dung bản văn . .Từ
"dã tình " của Ngôn Hoài mang ý như sau: "dã" là hoang
sơ. Dã trái nghĩa với khai, với hóa. Dã tình là tình "ban
sơ, tình nguyên thủy" là Tình chưa bị ô nhiễm bởi bối
cảnh sống của xã hội. Đó mới là nghĩa đen
thuộc lớp nghĩa thứ nhất . Trong văn bản thi kệ ,trong
bài pháp kệ truyền thừa này , nghĩa rộng của nó là
"Bản lai diện mục ",là chân tâm(13) - Không Lộ thiền sư
ngay tại đây đã hé cho thấy " cách
tu của cánh thiền sư nước Đại Việt chúng ta rồi đó
! .
CHUNG
Từ chung nằm tại câu
thứ hai. Đây là câu thứ nhất của " thân bài " khi
triển khai ý câu đề với hai câu thứ hai và thứ ba.
Từ chung của Lý Cao , nằm trong câu thứ hai
"Chung niên vô tống diệc vô nghinh" . "chung" là "trọn gói ",
là suốt. Câu này tạm dịch -suốt năm chả tiển ai và đón
ai- . Hàm ý là nhờ vậy,nhờ lý do đã nêu ở câu thứ nhất
( tu tập tại chốn Lâm sơn cùng cốc) mà nay Ông không bị
phiền phức
Từ "chung’, của bài Ngôn Hoài nay cũng nằm
trong câu thứ hai. "Dã tình chung nhật lạc vô dư " . Chung
nhật là một thuật ngữ Phật triết được Ngài Không
Lộ thiền sư dùng để dạy cho người Thị giả lộ trình
thực hiện các bước của Bát Chánh Đạo.Do
chung không đi rời mà đi liền thế nên "Chung nhật"
là cặp từ bất ly thân" . Chung nhật nên được viết liền
là "chungnhật" chỉ cho thấy nó là một thuật ngữ. Từ
nghĩa đen vô cùng đơn giản là "suốt ngày, trọn ngày" nó
đã biến thành một thuật ngữ Phật triết của nước
Đại Việt xưa. Từ này đi sau thuật ngữ "dã tình" /Bản
lai diện mục / theo đúng lý luận truyền thừa kinh điển.
Các bước tuần tự bắt buộc người hành giả phải " thực
hiện trên đường tu tập" . " chung
nhật " nay được hiểu là sự TRÌ GIỚI. Trì giới
là một trong các bước hành thiền bắt buộc cho mọi người
thiền giả.
Bạn đọc lại Lĩnh
Nam Chích Quái, người xưa đã thuật lại ,"Sư xem xong
bảo: "Ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi nhận,
ngươi mang nước đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào
mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?". Bèn cất tiếng
cười ha hả.
Bạn có thấy , trước
khi thục hiện các động tác thực hành tu tập , người
hành giả dòng Vô Ngôn Thông phải "trải tâm". Từ được
nhắc kín đáo qua từ" địa" (14) ở câu thứ nhất "trạch
đắc long xà địa khả cư" .Địa là điển từ," mở rộng
Địa tâm" để ánh sáng chiếu vào tận ngóc nghách đẩy lùi
vô minh của người thị giả , người hành thiền , và nay
thì Ngài Không Lộ thiền sư tiếp tục triển khai rộng
ra một cách mạch lạc và rất khéo . Với "Bản lai diện
mục" được đặt ở đầu câu thứ
hai và tiếp đến " trì giới " ở giữa câu thứ hai..
Bạn có thấy ,Ngài Không Lộ thiền sư như
rút ruột gan khi ngài bảo " thì có chỗ nào mà ta lại không
cho ngươi tâm yếu?". Lời tâm yếu
đó là gì? , đến đây bạn
cũng đã nhận ra một phần nào lộ trình tu tập của
tăng sĩ Đại Việt thời Lý
( 13 )
Hữu thì trực thượng
cô phong đỉnh thì sao ?
Điểm
chính mà Dàn đồng ca xoáy vào là trọn câu thứ ba "
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
".
Tại câu này các giáo sư đầu ngành như Nguyễn
Đình Chú , như Nguyễn Khắc Phi
,như Trần Đình Sử và rất nhiều giới chức có " vai
vế " khác trong cánh văn chương tham gia phản biện. Họ đã
dùng luận lý chống đở như
thế này: "xưa nay sự mượn ý cuả nhau là điều
bình thường. Nó đã xảy ra từ Đông
sang Tây, thế nên sự giống nhau này là điều dễ hiểu."
Lý luận này theo tôi khá yếu ớt, bởi trong giòng lý luận
đó họ đã mặc nhiên thừa nhận
có " đạo văn " hay " từ "thuổng " mà Đinh Tiến Bảng
và thầy Hà Văn Tấn của anh đã
phát biểu, bọn họ không hề lay chuyển lập trường "Thuổng"
gán cho Ngài Không Lộ thiền sư .
Thực tế thì sao? ,
-Giống thì ít mà khác nhau thì nhiều .
1-Giống nhau duy nhất ở dạng chữ Tàu , 有
時 直 上 孤 峰 頂, khi ta đọc từng
âm .
2- Khác nhau về nhiều lẽ vì xưa nay " Việt
là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu."
Một là về hình thức thể hiện
Câu thơ của Ngài Không Lộ thiền sư nếu
được diễn dịch dưới dạng chữ quốc ngữ thì ta thấy
ngay sự khác nhau .Từ Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
( F1) ==> Hữu, thì trực thượng côphongđỉnh
(F2). Tại đây có sự can thiệp ở dấu phẩy và từ
viết liền,viết dính liền (thuật ngữ)
Hai là,khác nhau về bố cục.
Tuy cùng nằm ở câu thứ ba, thế nhưng trong
bài U cư của Lý Cao, câu thứ ba là câu khởi đầu
cho câu cuối thứ tư - kết luận biến cố-dẫn đến tiếng
cười của Người vừa đốn ngộ. Việc hành thiền đến
đây coi như xong khi mà nhà tu vừa đốn ngộ. Trong bài
U cư của Lý Cao, " Hữu thời trực thượng
cô phong đỉnh ( F1) , Cụm hai từ "hữu thời" mang nghĩa, có
lúc, có khi, thỉnh thoảng …" Hữu thời trực thượng cô
phong đỉnh ==> có lúc lên tận đỉnh núi cao đơn độc để
"mình chỉ là mình" , một mình,bốn phía đều " Không
" , mình có lúc sẽ " gặp may " đốn ngộ (câu thứ tư )
Trong bài của Lý Cao, câu " Hữu thời trực
thượng cô phong đỉnh" vừa là câu mô tả thực tế những
gì xảy ra trong đêm có tiếng hú của DUY NGHIỄM vừa đồng
thời được hiểu rằng đây là một phép tu lấy sự
diện bích làm con đường hành thiền. Phép tu này được
truyền từ Tổ thứ nhất của Thiền Tàu là Bồ Đề Lạt
Ma .Ngồi thiền diện bích, lúc chiêm nghiệm chỉ có một mình
ta gói trong cụm ẩn dụ lẫn thục dụng "cô phong đỉnh".
Không gian cô độc tuỵệt đối ,chỉ có ta với ta .Chính
vì hiểu như thế mà Đinh Tiến
Bảng đã viết câu này " Một là, "đời sống tinh
thần của thiền sư (tất nhiên là thiền sư chân chính) thường
hướng nội : mọi hành vi đều kín
đáo, không ồn ào; họ biểu hiện bằng im lặng ("diện
bích" : ngồi ngó vách)….
Trong bài Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư
thì sao? .Câu thứ ba "lại là" câu cuối khi người thị giả
theo sát sự hướng dẫn của Ngài Không Lộ thiền sư trên
đường tu tập, người thị giả
đang đạt đến bến bờ giác ngộ .Hữu. Hữu
, thì trực thượng côphongđỉnh (
F2) . Như thế đã có một sự khác biệt sâu xa về
nội dung câu giữa hai trường phái tu thiền ,một của tăng
si Đại Việt và một của Tàu .
Ta không lấy làm lạ, bởi xưa nay " Việt là
Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu" ,lần này mách cho ta ở
câu thứ tư. Lúc này các thuật ngữ Phật triết xuất
hiện dày đặc.Trườngkhiếu ,nhấtthanh, phát huy tác dụng.
Thủ pháp dùng Hán tự của người xưa , là hãy dùng từ
Hán như là một " vỏ âm Hán " để ghi lại một bài pháp
kệ truyền thừa của riêng đất nước này (13). Do vậy
câu thứ ba "Hữu, thì trực thượng côphongđỉnh (F2) lại
là giai đoạn "thành quả" ,"viên mãn" và chạm bờ "Giác ngộ".
Một khi lời dạy của Ngài Không Lộ thiền sư được
người Thị Giả tuân theo áp sát ở câu thứ nhất và thứ
hai. Bạn có thấy không, tại cuối
câu thứ hai, chân trời giác ngộ , cảnh giới thiền đã
hiện ra – lạc vô dư-?. Một khi trên đường
tu tập , " có chuyển biến " tức là
"hữu ", hay sâu xa hơn là chạm mặt với "sự bóc tách thành
công ,các vô minh ,các thẩm lậu từ Thập nhị Nhân Duyên
gây ra" , "thì ‘(liên từ ,conjunction), ngay lập tức phải
thông qua thiền định để biết
đó có phải là một xác quyết "đúng" ngoài chấp Ngã
của chính mình hay không? . Một khi các thấm lậu từ vô
minh đã được đoạn căn thì
ngay lập tức phải thông qua Bát Chánh
Đạo bằng trí tuệ bát nhã ( tức Huệ giác ), (15 )
.Lúc này Chánh Định, Chánh tư duy,hai chặng trên con đường
hành thiền theo lời dạy từng bước theo Bát Chánh Đạo
mà Đức THẾ TÔN đã vạch ra . Thế nên câu thứ ba, ở
dạng F2, "Hữu, thì trực thướng côphongđỉnh",
hoàn toàn khác xa với nội dung của Lý Cao hoàn toàn.
Tu Phật của cao tăng
Đại Việt không hề có con đường nào đi ngang về tắt
, phải kinh qua các con đường " gian khổ ,dằng dặc " mà
Đức THẾ TÔN đã đi và đã vạch ra cho chúng
ta .Đó là lời dạy vô cùng Tâm huyết của Ngài Không
Lộ thiền sư với người Thị giả trong Lĩnh Nam Chích
Quái .Tuyệt tác là ở đây. Tiền nhân ta hơn người là
vậy. Tiếc thay, kẻ xướng người họa, bọn Kẻ Đốt
Đền nghênh ngang mà không ai trừng trị !
Nay ta quay lại ba từ cuối cùng. "Khiếu" và
"nhất thanh" tại câu thứ tư, Khiếu
Khiếu
Khiếu trong hai bản văn
hoàn toàn khác nhau khi thể hiện bằng Hán tự.Khiếu
[嘯] và "khiếu" [叫], Khiếu trong cả hai bài U Cư của Lý
Cao và Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư đều xuất hiện
tại câu thứ tư, sau câu thứ ba. Câu thứ ba là câu " biến
cố", câu đỉnh của tình thế để
dẫn đến "câu luận" vị trí thứ tư trong dòng Tứ
Tuỵệt. Tùy theo Hệ phái mình theo,dòng thiền mình ngộ mà
họ có cách thể hiện tâm tư khác nhau. Do tính cách khác nhau
nên nghĩa dùng cũng khác nhau .
1-Khiếu của bài thơ Lý Cao là khiếu này [嘯]
.Từ chỉ trạng thái reo vui vì "đốn ngộ " của thiền sư
Duy Nghiễm ( Tàu ). Dòng thiền Đốn ngộ của Tàu thì Khiếu
(của Lý Cao ) là tiếng "Huýt " hay tiếng "hú". Lý Cao là một
nhà thơ, ông đã mô tả đúng như
những gì mà thầy ông là thiền sư Duy Nghiễm thực
hiện trong đêm trang rằm ấy ( 16 ) .Khiếu nay là "Hú" huýt
của một con người đang ở vào trạng thái bị kích động
cao độ .
2- "Khiếu" của bài thơ Ngôn Hoài là khiếu
này [叫], từ "khiếu" này rất khác với Khiếu [ 嘯] này
của Lý Cao. Khiếu [叫], của Ngôn Hoài là "kêu" . Ngài Không
Lộ thiền sư dùng nó với nghĩa rất rộng; đơn
giản thôi bởi nó đã được Việt hóa . Một khi
từ ngữ nhập vào dòng dân tộc B thì từ phát triển trên
đa tầng ngữ nghĩa. "Khiếu" là âm thanh chung được phát
ra tiếng từ mọi loài động vật. Tạm dịch là " kêu " .Tùy
theo ngữ cảnh mà ta hiểu " kêu " đó là tiếng mang nét đặc
trưng gì. Ví dụ: vượu "kêu" là vượn hú. Cọp " kêu " là
cọp gầm. Trẻ " kêu " là trẻ khóc đòi ăn
,đòi bú . Người "kêu" . có thể là rống ,là huýt ,là
hú, là khều khào tùy theo người ấy là ai ,đang ở trong
trường hợp nào. Và khi xuất hiện " khiếu" tại câu thứ
tư, do một vị cao tăng vừa giác ngộ "kêu" . Từ "kêu" lần
này là kết quả của một quá trình tu tập theo một dòng
thiền "chắc lọc và tổng hợp từ các tinh hoa" như tác giả
của nó, Ngài Không Lộ thiền sư. Vị này là bậc cao tăng
duy nhất của đất Lĩnh Nam mà phương Bắc không hề có
một người tương tự. Ngài là vị cao tăng kết tinh từ
các dòng thiền Đốn ngộ -Vô Ngôn Thông, cộng với dòng thiền
đầy chất văn học và trí tuệ
là dòng thiền Thảo Đường, cộng với dòng Mật tông Đarani,
cộng với dòng thiền Phật giáo tinh chất – Phật giáo
Therevada mà ngài Không Lộ thiền sư đã theo thụ giáo với
một sa môn Tây Trúc.- Data đó là những gì mà Lĩnh Nam Chích
Quái, và danh tác Phật giáo Việt Nam Sử Luận của Thiền
sư Nhất Hạnh và lịch sử ghi lại . "Khiếu" là "kêu" .
Ở đây, vị Bồ Tát "kêu" . Bồ tát này là ai ? _là Không
Lộ thiền sư hay người thiền giả vừa đến Bến Bờ Giác
Ngộ . Lĩnh Nam Chích Quái ghi , Ngài thường đọc
kinh Đarani. Đarani , là một dòng Mật Tông tinh hoa ,không
phải dòng mật tông cấp thấp của baTàu đầy
chất Đạo và " ấy phà " của một anh phù thủy như
ta thường gặp ở giới thầy cúng xuất hiện tại Việt
Nam trước đây . Người đọc kinh
Đarani luôn đọc "lời hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế
Âm" (17) , "Khiếu " chính là "lời cầu cho mọi chúng sinh được
luôn an lạc" . Vậy "khiếu" của họ chính là " phát
lời hạnh nguyện, lời phát ra từ Bồ Đề
Tâm của một vị đã đến bờ Giác ngộ " . Phật giáo
Tàu , đắc đạo xong rút . Phật giáo Đại Việt , đắc
đạo xong thì phát hạnh bồ đề tâm tiếp tục nhập thế
,tiếp tục hoằng pháp để độ chúng sinh ,đi theo đúng "
y chang " con đường của Đức THẾ TÔN từ hàng ngàn
năm trước .
Trong nhiều nguồn tư liệu, Lý Cao viết lại
câu chuyện này,Thầy ông đã cất
tiếng cười rất lớn sau khi mây kéo đi,vầng trăng tròn
lộ rõ. Thế nên từ đúng phải là "tiếu" ,tiếu là tiếng
cười. Vậy thì số từ giống nhau chỉ là 14/28 là 50%. Tuy
nhiên suy cho cùng, do hai ký tự cùng âm là" khiếu" viết khác
nhau thì đã là 14/28 từ rồi.
Nhất thanh
‘Nhất thanh" dịch là "một tiếng", nghĩa đen
theo kiểu Tam Thiên Tự, thì nghĩa này hoàn toàn phù hợp với
bản văn của Lý Cao nhưng lại không
đúng cho bản văn Ngôn Hoài.
Nhất thanh trong Ngôn Hoài chỉ là từ mượn
vỏ âm của Tàu để chuyển tải một thuật ngữ Phật
triết vào giai đoạn mà nước ta tạm thời
chưa có chữ viết. Thời điển đó đang manh nha một thứ
chữ quốc ngữ cho dân tộc mình. Do vậy "nhấtthanh" được
hiểu là một lời. MỘT LỜI là một khẩu ngữ hàm
ý chắc như đinh đóng cột. MỘT LỜI
có nghĩa là nhất quán với lòng kiên định không hề
lay chuyển .
Lúc này Phật giáo của nước Đại Việt
cho thấy đã có một sự khác xa với thứ Phật giáo Tàu.
Phật giáo Tàu là một thứ đạo
Phật yếm thế, đầy chất Lão Trang. Khi tu cũng chọn
chốn " cùng cốc" xa lánh thế gian . Trong khi đó
Phật giáo Đại Việt là Phật giáo Nhập thế đã
quá rõ nét .Việt là Việt, Hán là Hán, Tàu là Tàu
chính là hai câu thứ ba và thú tư này . THÚ VỊ LÀM SAO! .
TUYỆT PHẨM!
Chính bài Pháp kệ này giúp cho chúng ta tìm
được vết " sống đời thiện nguyện
" với lời thề hạnh nguyện trong hai triều Lý Trần , một
giai đoạn vàng son của lịch sử; độc lâp không hơn 150
năm mà mang quân đánh tận hang ổ kẻ thù vào năm 1075;
thắng ba lần quân Mông cổ, quân Nguyên xâm lược đời Trần.
Lời hạnh nguyện đó là gì?, Là người cư
sĩ Lý Trần,con xin phát nguyện lời thề Tam hộ, hộ
quốc, hộ pháp, hộ gia. Thề
đặt tổ quốc lên trên đạo
pháp. Khi giặc đến cho dù là cao tăng, là cư sĩ cũng
phải cầm giáo gươm xung trận .Các vua Lý ,vua Trần có thể
họ là các bậc chân tu nay phải tạm khoác màu áo Cư sĩ .
Họ cởi áo TU khoác áo chiến bào, chấp nhận phạm giới
cấm đầu tiên trong ngũ giới.
Tôi nghĩ rằng với một lý luận sơ sài như
thế cũng đã đủ để bác bỏ bất
cứ luận điểm sai trái của ông viện trưởng Hà Văn Tấn
và của ông Đinh Tiến Bảng khi ông này viết lếu láo
như trên .
Nay đã rõ. Dàn
đồng ca đã lầm do vội vả?
, hay do cái tầm? ,nếu thế thì chúng ta đồng ý "tha Tào"
, nhưng nếu do cái tâm thì nhất định chúng ta phải cạch
cho tởn . Cho dù gì thì gì, dưới mắt tôi họ là những
kẻ Kẻ Đốt Đền. Vừa ngu, vừa
hỗn là Đinh Tiến Bảng. Đây hiện tượng đáng xấu hổ
trong văn học trong nước vào thế kỷ thứ 20. Mong rằng
nó chỉ xảy ra một lần rồi thôi .
Tôi nghĩ rằng, không biết họ có đủ
" trí tuệ ",hay được tha thứ khi họ có hội đọc bài
"Giải mã bài Pháp kệ truyền thừa Ngôn Hoài của Ngài
Không Lộ thiền sư của Tôi hay không, nếu như nay họ có
phép lạ để đội mồ sống dậy,
bởi vì tôi đã để gần mươi năm thu thập tư liệu và
suy nghĩ về bài thi kệ nổi tiếng này.
Sách tham khảo
(12 ) .khó mà không nghi ngờ đám âm binh này.
Văn hóa Việt Nam bị tấn công mọi hướng, Ngày xưa Phan
Thanh Giản vốn là một anh Tàu vài đời , người chủ biên
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục dưới triều Tự
Đức, ông đã bịa ra chuyện đức thánh Trần lấy
người cô ruột của mình trong khi thực tế đó là người
cùng tuổi ở ngang vai vế trong cùng họ nội. Đó là một
tội ác. Tội ác này được tiếp tục với một anh tàu
mới 5 đời là Tạ Chí Đại Trường càng ác liệt hơn. Chúng
ta có mỗi THĐ là thánh nhân , mà một khi mang ra làm cha già
dân tộc mình để "so cựa " cùng với các dân tộc khác thì
thế giới này hoàn toàn chấp nhận vì công lao chống quân
Nguyên của Ngài và là một trong các nguyên nhân khiến người
Tàu có động cơ phù Chu nguyên Chương và đaọ quân này phải
tan rã .
( 13 ) Tôi biết bạn khó khăn khi theo dõi đoạn
này , bởi có 28 từ trong bản văn rất nhiều thuật ngữ
Phật triết. Do vì Hà Văn Tấn chỉ nêu 14 từ giống nhau
thế nên laiquangnam áp sát 14 từ mà Dàn đồng ca gọi là giống
nhau mà thôi ; thế nên tại bài cuối cùng của loạt bài về
Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư , bài "Giải mã Ngôn
Hoài " laiquangnam sẽ kỹ hơn. Nay tôi đành xin lỗi Bạn hiền
vậy .
Trong phần thứ ba này không tiện giải bày bởi
không phải chủ đề của nó , Đây
là một thuật ngữ Phật Học ,bạn sẽ gặp lại
trong bài cuối cùng , bài ,Giải Mã bản văn Ngôn Hoài với
phần lý thuyết kỹ hơn . xin thông cảm .
14 , Địa , nằm trong
hai từ "Địa tâm" đó là tinh hoa của dòng thiền Vô
Ngôn Thông. Tổ dòng thiền này là Vô Ngôn Thông đã
được Thầy mình dạy rằng ,"con hãy mở rộng "
địa tâm " của con ra, ánh sáng mặt trời sẽ soi rọi vào
mọi ngóc ngách vô minh , ánh sáng sẽ đẩy
tan các Vô minh nó giúp Con đến bờ giác ngộ "
( 15 ) Huệ giác này chỉ có ở người hành thiền.Tu
Phật là thực hành, thực hành và thực hành. Có trãi nghiệm
thì có thông hiểu sâu xa về lý thuyết. Người không hành
thiền phải có trí tuệ cao mới có hiểu được
(16 )-xin đọc lại bài
thứ hai .
(17 ) Quán Thế Âm ? ; https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A1n_Th%E1%BA%BF_%C3%82m
laiquangnam
Những ngày cuối năm con
khỉ tại quê người,Irvine, Jan 18 ,2017
Và ngày đầu
năm con gà tại SG .
-o0o0o-
Kỳ tới
Phần IV - Giải mã "mật ngữ" trong thi kệ Ngôn
Hoài của Không Lộ thiền sư. Tại sao người xưa lại tài
hoa như thế ? . |