IV
- Giải mã "mật ngữ" trong thi kệ Ngôn Hoài của Không Lộ
thiền sư :
.
Đoạn thứ nhất , Dẫn nhập và tâm tình
Để việc giải
mã bài thi kệ Ngôn Hoài không gây lấn cấn và hiểu lầm
giữa người viết và bạn đọc, nếu như cả hai chúng
ta cùng thông qua định luật ngôn ngữ này.và những gì
mà Arthur F Wright viết về "Thời kỳ đầu Dịch kinh Phật
của người Trung Quốc" mà laiquangnam đã chuyển theo cùng
với bài viết này .
NGÔN
NGỮ SINH HÓA , LUẬT DARMESTETER :
......"
NGÔN NGỮ SINH HÓA là sự biến nghĩa theo thời đại, theo tác
giả, theo vị trí lời văn....."
Định
luật Darmesteter : "Ngôn ngữ có sinh hóa như một sinh vật.
Nếu một sinh vật trải qua 3 thời kỳ ấu trĩ, trưởng thành,
lão suy thì ngôn ngữ cũng có 3 thời kỳ : thô sơ với một
vài nghĩa, phong phú với nhiều nghĩa tế nhị và cuối cùng
mất hẳn nghĩa sâu xa chính yếu." trích nguồn từ Giáo
sư Thạch Trung Giả
Xin
nói thêm, chỉ khi tiếng Trung chuyển biến sang từ VIỆT
HÁN thì luật này càng đúng. Ban đầu tiếng Trung nhập
vào kho tàng Việt ngữ Việt Nam do các nhà nho ,người
Việt có ăn học , nó được gọi là chữ nho .Ngày nay
chữ Hán không mấy người biết đọc, chữ nho mất
dần rồi biến hẳn. Chữ Nho nay đã thành một thứ
tử ngữ chỉ dành cho giới nghiên cứu.
Ví
dụ minh họa, chúng tôi thử chọn một cách tình cờ
vần A , âm" Áp" .Áp đang tồn tại trong kho tàng Việt
ngữ ngày nay và trong các từ điển . .
1
áp ( áp 鴨./ là con vịt của tiếng Trung ,ông bà ta nhận
từ này để ghi cho một một con vật nuôi trong nhà. Vịt
quá quen thuộc nhưng ngày đó chúng ta chưa có chữ viết
, không biết làm sao ghi lại thông tin này lên giấy , vẽ
con vịt lên giấy ? -không khả năng, thôi đành học lấy
chữ viết của người đô hộ mình, cũng tiện nhưng
khi với con ta là một người mù chữ Tàu ,thấy 鴨, _ổng
đang " vẽ bùa" lên giấy !.
2-
nếu áp (壓 ) như áp lực , áp là đè sát , nguyên là
tiêng Trung ( tức tiếng Tàu 100%) nhưng nay nói đàn áp ,áp
suất thì người Việt biết ngay là nói về cái gì
,vấn đề gì . Nó trở nên thân quen , từ từ nó là
từ VIỆT HÁN .Tiến trinh từ chữ Nho sang từ VIỆT
HÁN là một quá trình lâu dài. Nó phải kinh qua Hán Việt
,từ này người Việt học khi đến trường, người đi
học phải dùng từ điển mới hiểu nghĩa và cách dùng
. Một từ khi đã quen dùng thì ngữ nghĩa còn tùy thuộc
vào sự "SINH HÓA tiếp theo, có sự biến nghĩa theo thời
đại, theo tác giả, theo vị trí lời văn....." , Định luật
Darmesteter như đã nhắc .
Ông
bà ta thủa mà Nho giáo cón thịnh, qua văn chương hay qua việc
điều hành xã hội, họ dùng chữ Nho, hai từ Áp lực
chuyển sang từ Hán Việt, ta có từ áp lực, rồi từ
từ sang từ VIỆT HÁN như đàn áp và áp lực công việc
. Nó nay được xem như tiếng Việt đến 99%
Phần
giải mã này hoàn toàn dựa từng chữ trên " bản văn thư
quy" mà chúng tôi đã viết trong Phần thứ nhất tại
trang Chim Việt Cành Nam .
Rằng
chúng tôi không dùng những từ xa lạ xuất hiện trong các
bản văn của "Ai đó" cho dù có cùng tên Ngôn Hoài của
Không Lộ thiền sư.
Trong
bài thứ nhất ,chúng tôi đã nêu lên hai vấn đề.
Một
là, việc dịch chuỷển một bài thơ từ chữ Hán của
tiền nhân ta sang chữ quốc ngữ bằng phép áp dịch 1-
1 là vô phương. Mọi cố gắng của lớp đàn anh chúng tôi
cho thấy tất cả đều thất bại ,kể cả sự cố gắng
của Thầy Thích Nhất Hạnh. Họ đã để lại những
hậu quả nghiêm trọng cho nền văn hóa của sắc dân Đại
Việt ,một bản dịch vô cùng tệ hại bằng Anh ngữ của
giáo sư đại học Nguyễn Bá Chung đã được đem ra giới
thiệu trong kỳ đại hội VESAT tại Việt Nam trước 700
học giả và tăng sĩ khắp năm châu năm xưa.
Bí
mật nằm ở bài thi kệ này được người đời Trần
đã cố ý đưa vào tại một vị trí độc đáo,sau khi
các Ngài đã chèn các tư tưởng Phật giáo Trung Quốc
mà người Hán xào nấu lại trước đó .Sách Việt Nam
Phật giáo sử luận của giáo sư Nguyễn Lang cho biết
người Đại Việt đã nhận nhiều lần cùng một bản
kinh Đại Tạng cơ bản viết vào năm 938 và được cập
nhật nhiều lần ,lần sau thì thêm vào các kinh sách
do chinh người Tàu trước tác nương theo một lời của
Đức THẾ TÔN nói và sau đó triển khai " rất ư là Tàu",Ví
dụ: các đoạn kinh nói về cõi âm ty,Đại Địa tạng
kinh .. Khi đối chiếu lại với những gì đọc được
từ kinh tiếng Pali ,có lẽ tiền nhân ta đã sớm thấy
nhiều đoạn, nhiều phần trong bộ kinh Đại Tàng này bị
người Trung Quốc bịa thêm, ngụy tạo rồi "gắn nhãn
mác "rằng đó là lời Phật dạy. ."Kinh ngụy tạo" của
đạo Phật Trung Quốc được viết hầu như đồng thời với
lúc khởi đầu các hoạt động dịch thuật kinh Phật vào
giữa thế kỉ thứ 2 sau công nguyên, nhưng theo tôi ,vào
thế kỷ V đến VII , nhất là đời nhà Tùy thì lượng
kinh này nhiều kinh khủng . Theo ghi chép của Đại Tạng kinh
Phật giáo, con số kinh ngụy tạo gia tăng liên tục qua các
thế hệ cho đến ít nhất vào thế kỉ thứ VIII" . Người
Tàu đã chèn một cách khéo léo vào đó, một phép
tu khác thường,một lối lý luận khác thường. Từ
niết bàn ( Nirvana) họ dịch mãi vẫn chưa xong, đôi khi các
từ chữ Nho làm người cư sĩ hay tăng sĩ Việt cảm thấy
nó quá xa lạ khi so với từng bước đi của người Sáng
lập minh triết Phật giáo. Niết bàn ( Nirvana) là Tây thiên
cực lạc ư ? là vườn đào của Tây vương Mẫu ư? ,là
Cõi về khi cái chết đến với người tăng sĩ ư? .
Niết bàn ( Nirvana) là ý niệm bất khả tư duy, không có
trú xứ ,nơi hội tụ bản thể muôn loài .Vô sản vô sinh
. Rằng sự khác nhau giữa các bộ kinh từ Trung Quốc
và từ kinh từ Kinh Pali của vùng Nam và Nam Á là "Các bộ
kinh Trung Quốc hay Tây Tạng có nội dung luôn "để mở" hay
"bỏ ngõ" với mục đích cho phép sự tiếp tục thêm vào dễ
dàng các bản kinh mới từ Ấn Độ qua nhiều thế kỉ. Không
còn nghi ngờ gì nữa, một tình huống như vậy đã tạo cảm
hứng cho ý muốn tân trang các bản kinh và khích lệ sự sáng
tạo ra các bản kinh gọi là kinh ngụy tạo. Kinh Pali của vùng
Nam và Nam Á, trái lại đã được "cố định" rất sớm trong
lịch sử, điều này khiến khó có thể thêm vào đó những
nội dung nào khác."
Hai là, Lớp đàn
anh chúng tôi đã không thấy được sự tinh tế. khi mà
bản văn Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư được Lĩnh
Nam Chích Quái đã chọn làm đại diện cho chuyện KỲ
LẠ tại đất Lĩnh Nam .Hệ tư tưởng này "kỳ vỹ " vì
chỉ có ở mảnh đất Lĩnh Nam ,nước Đại Việt xưa
mà thôi .Và rằng người phương Bắc chẳng bao giờ có
một con người kỳ vĩ như thế và một bài thi kệ như
thế .Thật ra đó là một " dàn bài " với đầy "Mã
ngữ" nhầm ghi lại một bài hoằng pháp của một Đại
sư .
Ngài Không Lộ
thiền sư ( tổ thiền thứ IX ,) bài Ngôn Hoài và sau Ngài
là thiền sư Quảng Nghiêm ( tổ thiền thứ XI ) với bài
Hưu hướng Như Lai (休向如來) ,cả hai đều thuộc dòng
thiền Vô Ngôn Thông nay đã được Việt hóa .Họ đã
"gạn đục khơi trong ", đã hoàn toàn lột xác về tư tuỏng
, thoát khỏi một số dòng Phật Hán cố hữu để
mang giòng thiền này đén cho chúng ta. Việc đối thoại
giữa một tăng sĩ với Đại sưthể hiện trong câu chuyện
Không Lộ đã được thuật lại trong Lĩnh Nam Chích Quái
khá đầy đủ. Hai bản văn này là một minh chứng về
tầm ảnh hưởng của dòng kinh Pali tại đất nước ta
.
Sách Việt Nam
Phật giáo sử luận ghi nhận Ngài Không Lộ thiền sư
đã từng qua Tây Trúc ( tức là qua các nước Đông Nam
Á và Nam Á , nên Ngài đã tiếp cận được kinh điển
gốc,sự tiếp cận kinh MILANDA ,Mi tiên vấn đáp
đã để lại thuật ngữ XÀ trong bài Ngôn Hoài , chính
là đoạn kinh số 265 của Bộ kinh này. Tại đất LUY LÂU
xưa đã người Việt cũng có một sinh hoạt sôi nổi
về việc bàn luận về kinh Phật giáo từ Phạn ngữ.
Thế nên cho dù
bên Trung Quốc hoạt đông mạnh về dịch thuật nhưng không
có tí "ảnh hưởng " nào trên việc các ngài đặt ra thuật
ngữ mới để có mà dùng, bài Ngôn Hoài là một minh
chứng với 11 thuật ngữ.
Chúng tôi tin rằng
vào thời Lý, thời điểm mà Ngài Không Lộ thiền sư
còn sống để viết bài Ngôn Hoài này thì người Việt
đã nắm được minh triết Phật giáo nhờ một con đường
khác rất riêng của người Việt . Tính đến thế kỷ
thứ XII thì bộ kinh duy nhất mà đất nước này tiếp
cận là bộ kinh Đại Tạng ,bản văn viết vào năm 938,
Dù chúng ta đã
biết rõ rằng, từ vài trăm năm trước Trần Huyền Trang
đã có một công trình đồ sộ về dịch thuật kinh
sách Phật giáo Ấn Độ khi đến Ấn Độ. Đại đường
Tây vực ký là danh tác của ông nhưng, chúng tôi nghĩ
rằng không có mấy người Đại Việt thời Lý tiếp
cận được những gì mà người Tàu đã có.. Những
thuật ngữ rất quen thuộc vào thời đại chúng ta đã
không xuất hiện như Tứ diệu đế, Bát Chánh Đạo, chân
như, niết bàn , chân tâm , chân diện mục, LạcVôDư, Lạc
hữu dư, Bồ Đề Tâm đều chưa thấy xuất hiện trên
các văn bản thi thiền, thi kệ của các thiền sư người
Việt vào thời điểm đó; thế mà bản văn Ngôn Hoài
của Ngài Không Lộ thiền sư vẫn thể hiện được cùng
nội hàm sâu xa của các từ trên mang cùng một tư tưởng,một
định nghĩa với các thuật ngữ Phật triết thân quen
hôm nay . Như thế, Tiền nhân ta đã "tiêu hóa hòan toàn"
các minh triết Phật giáo mà không hề lúng túng. Họ
có thể giảng một cách rõ ràng, mạch lạc hoàn toàn,
các đoạn kinh sách Phạn ngữ gốc theo một thứ ngôn
ngữ Việt của mình vào thời đó. Tại sao tiền nhân
ta lại làm được điều kỳ lạ đó cho dù vào thời
điểm đó ,đất nước chúng ta chưa có chữ viết thể
hiện tiếng nói của dân tộc mình. Chữ Hán lại là
thứ chữ vay mượn và số người biết trên đầu ngón
tay. Vấn đề là sự quyết tâm ,là sự phát hạnh nguyện(
khi còn là cư sĩ ), phát Bồ Đề Tâm ( khi đã là một
đấng Giác Ngộ ) ,họ cố trả lời câu hỏi đang làm
họ ưu tư ,
Viết cho ai ? Viết để làm gì?, Làm sao
có thể thể hiện một bản văn mà muôn người như một,
đều hiểu như nhau, Lợi ích lâu dài là gì ?. Đó
là thứ quyền lực mềm như ngôn ngữ ngày nay đề cập
.Tất cả vì sự vững bền của văn hiến của đất
nước này , tất cả vì lời hạnh nguyện
Tam Hộ,
hộ quốc ,Hộ pháp,Hộ gia. Tại đất nước này,
khi giặc đến nhà vua tuy thấm nhuần đaọ Phật từ bi
,là thiền sư hạng nhất, nhưng vẫn sẳn sàng khoác áo
chiến bào, phạm giới sát sinh, tất cả Họ đều huóng
tới sự bình yên và vững bền cho tổ quốc. Câu thứ
ba trong bài Hưu hướng Như Lai " Nam nhi tự hữu xung thiên chí"
khiến ta suy nghĩ. Tu tập hướng đến niết bàn ( Nirvana)
hay phục vụ đất nước để đất nước này đời đời
bền vũng này đều là Chí Cao của người làm trai !
Bài hoằng pháp
Ngôn Hoài hướng đến đại chúng đã được phổ cập;
và sự hồi phục nó là điều TỐI CẦN THIẾT. Và vô
cùng khẩn thiết . Chúng tôi tin rằng đại đa số người
dân ngày đó đều có có thể tiếp nhận dễ dàng những
kiến văn về Phật giáo tinh chất của Ngài Gautama vẫn
không khác biệt lắm so với người Việt đọc sách Phật
giáo ngày hôm nay . TẠI SAO chúng ta lại không hiểu tiền
nhân mình ngày đó hoằng pháp ra sao ?.
Nay sách vở Phật
giáo đã nhiều, đối chiếu với Phác đồ của EDWARD
CONZE ,một trong các bộ óc am tường Phật triết nhất
thời đại chúng ta với bố cục của bài thi kệ Ngôn
Hoài của Không Lộ thiền sư,chúng tôi nghĩ rằng điều
đó sẽ giúp cho các bạn hiểu được sự Tài hoa của
tiền nhân mình. Tuỵệt lắm !
bài thơ Ngôn Hoài
Laiquangnam đề xuất bản văn F2 (4)
Trạch đắc long,xà,
địa khả cư
Dãtình, chungnhật,
lạcvôdư
Hữu, thì
trực thướng
côphongđỉnh
Trườngkhiếu,
nhấtthanh, hàntháihư
Qua hình minh họa-trích
từ sách của Ed. Conze
Nhánh mũi tên
phía bên phải A ==> B ==> Nội tâm tự giác
Đó là câu thứ
nhất và thứ hai
Nhánh mũi tên
phía bên trái A ==> C ==> chân không vô tướng
Là hành trình của
người người hành thiền thông qua việc thực hành Bát
Chánh Đạo,
-
Chánh niệm ==> -Chánh
định ==> chánh tư duy -TUỆ GIÁC BÁT NHÃ ( HUỆ GIÁC)
Ứng với câu thứ
ba trong bài thơ Ngôn Hoài của Không Lộ thiền sư "hữu,thời
trực thướng cô phong đỉnh"
Phần ngang hàng
Nội tâm tự
giác – chân không vô tướng ==> niết bàn ( Nirvana)
Chính là câu thứ
tư- Phát nguyện Bồ Đề Tâm , tuyên bố một cách kiên
định và nhất quán rằng với lời hạnh nguyện
Theo chân Đức
THẾ TÔN đến cùng , Hoằng pháp ,hoằng pháp và hoằng
pháp , tự tích lũy " ĐIỂM " " hữu -tích cực" ==> cõi
niết bàn ( Nirvana)
Bước đi mà Ngài
Gautama đã thực hiện ngày xưa ,thì nay qua Ngài Không Lộ
thiền sư,một Đại sư Đại Việt có thể dạy cho người
đến học tập ,có thể lặp lại được. Sự tồn tại
bởi bản văn Ngôn Hoài được lưu truyền mãi sau khi Ngài
Không Lộ thiền sư qua đời trên dưới 200 năm, mà danh
tác Lĩnh Nam Chích Quái viết vào cuối đời Trần ,
tức cuối thể kỷ thứ 14 ( 1394 ? ) cố tình đưa vào
cách nhau những mấy trăm năm là một minh chứng về UY
LỰC của bản văn .
Chắc chắn rằng
các đại đệ tử của Ngài đã giảng đi giảng lại cho
chúng đệ tử bằng thứ ngôn ngữ Việt rất bình dân
và dễ hiểu như ngài. Người nghe giảng sau đó cũng có
thể lập lại bài giảng một cách dễ dàng như ngài .
Đó là nhờ tất cả họ đã xử dụng văn bản Ngôn Hoài
như là " bản mật ngữ" được sắp xếp như một dàn
bài
Xin đọc tiếp
Đoạn thứ hai
"thuật
ngữ của người xưa"
Trên cùng trang
website này
Laiquangnam
SG , giứa tháng
7 ,năm 2017
Phần tham
khảo và chú thích của người viết
trong khi chời
đợi phần trọng tâm các bạn đọc thử lại các link
này
(1) -http://chimvie3.free.fr/65/lqnn_TimGiaiPhapKhac03a_KhongLo_065.htm
(2) -, ông NBC đã
dạy tại một trường rất danh tiếng tại miền Đông
HOA KỲ. Cho dù cố vấn văn bản là giáo sư Văn học Nguyễn
Huệ Chi hổ trợ phần tư tưởng ,thế nhưng ĐÁNG THẤT
VỌNG , khi ai đó có đọc bộ Thiền luận của Đai sư
D. SUZUKI về đoạn thiền Trung Hoa ,với bản văn U cư của
Lý Cao. Thầy Thích Nhất Hạnh thử thoe hướng của SUZUKI
khi bình về bản văn Ngôn Hoài nhưng có lẽ đã bị thất
bại .
(3) Xin đọc tại
link sau để bạn thấy ngay chính kinh Đại tạng có nhiều
bản kinh rất nổi tiếng cũng là kinh do Tàu ngụy tao https://thuvienhoasen.org/a15607/kinh-nguy-tao-apocrypha
(4) -https://thuvienhoasen.org/a15607/kinh-nguy-tao-apocrypha
(5)- Nguyễn Lang
,Việt Nam Phật giáo sử luận, giúp bạn thấy sư sinh
hoạt sôi nổi trên đất nước Văn Lang ,Đại Việt
(6)- Kinh Mi Tien Van
Dap - HT Gioi Nghiem - Pháp Thí Hội,
www.phapthihoi.org/kinh/Ebooks/.../Kinh-Mi-Tien-Van-Dap-HT-Gioi-Nghiem.pdf
)
và điển từ "Xà" là đoạn kinh số 265 nằm trong Mitien
vấn đáp Ngài Không Lộ thiền sư đã khéo léo nhắc
trong bài Ngôn Hoài của mình là một minh chứng về huyền
thoại cuộc đời của Ngài Không Lộ thiền sư rằng ngài
đã từng "vân du"Tây trúc .
(7) LỊCH SỬ THIỀN
TÔNG TRUNG QUỐC
1- http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/LSTTTQ/NNT_LSTTTQ1.htm
giúp bạn thấy
sư sinh hoạt sôi nổi trên đất nước Trung Hoa
(8)
- https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C4%A9nh_Nam_ch%C3%ADch_qu%C3%A1i
(9)- Được nói
rõ trong phần viêt về "Thuật ngữ của người xưa "
tiếp theo đoạn này
Hữu này là "hữu
tích cực " khác với "hữu tiêu cực" là một trong Nhị
Thập Nhân Duyên ,(9), được định nghĩa rõ ràng trong phần
"thuật ngữ của người xưa" tiếp theo .
(huệ giác tức
tuệ giác bát nhã )- trí tuệ của người hành thiền
khi họ đã bước vào không gian ( trường ,field ) lạc vô
dư ( viết rời ) tại câu thứ hai của bài thi kệ Ngôn
Hoài .
(10) -niết bàn (
Nirvana) đã được dịch tiếng Tàu là những từ nào ?
Niết-bàn
(zh.涅槃,
sa.nirvāṇa,
pi.nibbāna,
ja.nehan)
là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạnnirvāṇa
hoặc tiếng Pāli nibbāna.
Nirvāṇa
nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā
(2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn
lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập
tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ
nirvāṇa cũng
được dịch nghĩa là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅),
Diệt
tận (zh. 滅盡),
Diệt độ (zh. 滅度),
Tịch diệt
(zh. 寂滅), Bất sinh (zh. 不生),
Viên tịch (zh.
圓寂), và vì khổ diệt được hiểu là mục đích tối cao
trong đạo Phật nên
nirvāṇa cũng được dịch ý là
Giải
thoát (zh. 解脫).Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được
hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam,
sân hận, ngu si đã bị dập tắt.
đến như vi-wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ni%E1%BA%BFt-b%C3%A0n
mà còn viết
"Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình
trạng ngọn lửa
tham lam, sân hận, ngu si
đã bị dập tắt." – xin xem lại bài Hưu hướng Như Lai (休向如來)
,anh Tâm Tuệ Hỷ định nghĩa hay hơn và rõ ràng hơn .
=======================
Đoạn thứ hai
"thuật
ngữ của người xưa"
hay
Thuật ngữ minh
triết Phật giáo mà Ngài Không Lộ thiền sư đã dùng
khi hoằng pháp đạo Phật cho đồng bào Đại Việt của
mình vào đầu thế kỷ thứ XII
Ngôn Hoài của
Không Lộ thiền sư,laiquangnam, http://chimvie3.free.fr/65/lqnn_TimGiaiPhapKhac03a_KhongLo_065.htm |