Quê
Hương - Phong tục
. Nguyễn
Dư :Việt Nam bây giờ,
muốn ăn, muốn uống gì cũng có. Sai bét ! Đố ai tìm được
món...
xôi thịt và bơ sữa. Vớ vẩn cái nhà ông
này. Xôi, thịt, bơ, sữa, chỗ nào chả có. Hoàn toàn đồng
ý với ông. Bốn món này chỗ nào cũng có. Ai muốn ăn xôi
thì có xôi, muốn ăn thịt thì có thịt. Muốn bí-tết chiên
bơ, cà phê rang bơ cũng có, thèm sữa cô gái Hà Lan cũng được.
Thoả mãn, thoải mái. Nhưng hai món xôi thịt và bơ
sữa thì đố ông tìm ra... Lí do là vì hai món này được
giới làm ăn giữ như giữ mả tổ. Để dành ăn trong gia đình.
Chẳng bao giờ lại dại dột đem ra khoe, mời người khác.
Cũng vì vậy mà từ thôn quê đến thành thị chỉ nghe xì
xào cụ này thích xôi thịt, ông kia khoái bơ sữa.
Chả thấy ai công khai nói rằng mình đã từng thưởng thức
hai món này.
Giữa thanh thiên bạch nhật,
nước ta không có
xôi thịt và bơ sữa.
.
Nguyễn Dư : (...)
Ba lời giới thiệu chùa Kim
Liên gần giống nhau. Cả ba cùng nói đến công chúa Từ Hoa,
con vua Lý Thần Tông. Nhưng cũng khác nhau ở một điểm: Võ
văn Tường cho rằng chùa được xây về đời Trần, trên
cái nền nhà cũ nơi công chúa Từ Hoa ra đời. Trần Quốc
Vượng và Hoàng Ðạo Thúy thì lại cho rằng chùa có từ đời
Lý, do cung Từ Hoa sửa chữa tạo thành. Hai tác giả này còn
cho biết thêm là công chúa Từ Hoa ra ở nơi đây để
"chăn
tằm, sướng khổ với đàn bà bị tội khổ sai" hoặc cũng
có thể "ra tu ở đó, nên vua sai làm cung cho ở".
Ðọc ba lời giới thiệu này
tôi thích quá. "Em là ai, cô gái hay nàng tiên?" . Xin phép được
phạm thượng... mê công chúa Từ Hoa. Vừa đẹp người, vừa
đẹp nết. "Nhân từ, mặt đẹp như hoa" lại còn thích gần
gũi đám dân bị tội khổ sai.
Biết đâu trong đám dân lam
lũ đó lại chả có cả tổ tiên mấy chục đời của tôi?
. Cát Hoàng
:Tháng sáu - Tháng cuối của kỳ nghỉ
hè. Đây là khoảng thời gian nhiều vui lắm buồn của sinh
hoạt tuổi học trò.
Vào thập
kỷ 70 thế kỷ trước (TK 20) đất nước đang trong hoàn cảnh
chiến tranh ác liệt, bọn học trò trung học chúng tôi thường
nói vui với nhau: "Đây là ba tháng quân trường" - Bởi lẽ,
thời điểm nghỉ hè cũng là lúc gia đình chuẩn bị gieo cấy
vụ lúa mùa (làm ruộng mỗi năm một vụ), nên nghỉ hè về
nhà là phải cùng gia đình "Bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời" chớ đâu có được nghỉ ngơi vui thú gì!
. Thu Tứ : Ai
cũng biết văn học tiền chiến có vai trò đặc biệt trong
văn học sử Việt Nam. Trong vô số phát biểu ngắn dài về
vai trò ấy, có lời này: "Và chúng ta đã vùng lên đuổi theo
trong vòng ba mươi năm tất cả chặng đường dài mà Tây phương
đã đi trong ba thế kỷ."
Ngẫm nghĩ,
thấy lời trên không chỉ tóm tắt ý nghĩa chính của một
thời kỳ văn học, mà còn ngẫu nhiên nói lên điều hết
sức căn bản về trình độ tiến hóa của dân tộc.
Trong mười
mấy thế kỷ kể từ lúc Khu Liên mở nước Lâm Ấp đến
lúc người Việt vào xưng chúa ở Nam Hà, dân tộc Chàm bao
phen "lên vinh xuống nhục"(1), chứ đâu phải lúc nào cũng
"nhục".
Đây những
vinh quang:
Thời Bắc
thuộc trong lịch sử ta, khi Giao Chỉ - Cửu Chân đã bỏ cuộc,
chấp nhận đô hộ, thì Lâm Ấp vẫn mãnh liệt tiếp tục
chống cự quân xâm lược Trung Quốc. Vua Lâm Ấp từng sai
sứ sang Tàu đề nghị thiên triều nhường quyền cai trị
Giao Châu lại cho nước mình!(2) ...
Con người
ta vẫn có cái lối hễ động xảy ra chuyện gì là ngoác miệng
kêu réo tận đâu đâu. Ta thì "Trời ơi!" hoặc "Trời đất
ơi!", Tây thì "Oh my God!".
Lời buột
miệng bộc lộ tâm tư. Rõ ràng God Tây không giống Trời ta.
Vì God chỉ một mình, trong khi Trời có thể cặp kè với Đất.
Hãy thử
đi sâu vào lòng ta lòng người xem Đông, Tây thực sự nghĩ
ngợi thế nào về Ai Đó Trên Cao.
Phóng
sự - Ẩm thực :
. Phanxipăng
: Mà
bông hoa chẳng phải thịt hay chả, song qua bàn tay chế biến
tài tình của con người, lại trở thành bao món cực kỳ khoái
chá. Thông thường, đề cập món ăn, thiên hạ nghĩ ngay tới
rau, củ, quả, thịt, cá, trứng, sữa. Mấy ai lưu ý rằng
hoa cũng tích cực góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá
ẩm thực đậm đà bản sắc của nhiều dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Trước
kia, lẩu chỉ thông dụng ở miền Nam nước ta. Bây giờ, tất
cả tỉnh thành trên toàn quốc, đâu cũng có lẩu, mà phổ
biến nhất là lẩu bò, lẩu dê, lẩu thủy hải sản, và lẩu
thập cẩm. Bằng hữu, đồng nghiệp, hoặc bà con gặp mặt,
kéo nhau tới hàng quán ăn lẩu. Trong gia đình, dọn cái lẩu,
đủ để cả nhà quây quần dùng bữa trưa cũng như bữa tối.
Nhiều tiệc tùng, trước món tráng miệng cuối cùng, đầu
bếp thường bày món lẩu.
Lẩu là món vừa ăn chơi, vừa
xơi thiệt. Tức có thể lai rai chén tạc chén thù đu đưa
chuyện vãn, nhưng cũng có thể ăn lấy no. Đòi hỏi dùng nóng
sốt, lẩu là món mang tính tổng hợp và tính cộng đồng
rõ rệt. Ăn lẩu, càng đông người thân, càng vui.
Năm 2010,
với chủ đề "Truyền thống - Bản sắc - Phát triển", Festival
gốm sứ Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức tại thị
xã Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ Bình Dương, từ thứ năm 2-9 đến
thứ tư 8-9.
Nhiều sự
kiện liên quan Festival này thu hút sự chú ý của công chúng,
trong đó có hội chợ Gốm sứ - thế giới sắc màu,
trưng bày Tinh hoa gốm Việt và 3 chương trình quy mô
diễn ra ban đêm: lễ khai mạc thứ bảy 4-9, ca nhạc thời
trang Vũ điệu gốm sứ chủ nhật 5-9, lễ bế mạc thứ
tư 8-9.
World Cup
2010 là Giải vô địch bóng đá thế giới lần đầu tiên
được tổ chức tại một quốc gia ở châu Phi: Cộng hòa
Nam Phi. Thứ sáu 11-6-2010, trong sân vận động Soccer City thuộc
thành phố Johannesburg, lễ khai mạc diễn ra lúc 19 giờ 10 phút
với thời lượng nửa tiếng đồng hồ; rồi sau đó, trận
đấu mở màn vòng bảng giữa đội tuyển chủ nhà và đội
Mexico bắt đầu lúc 21 giờ
Trùng thời
điểm nọ, Festival Huế 2010 cũng hào hứng biểu diễn lắm
chương trình hấp dẫn tại nhiều tụ điểm. Chẳng hạn Đêm
hoàng cung có dạ tiệc ở Đại Nội, các ban nhạc Curtis King
của Mỹ và Los Tradicionales của Cuba cùng nhóm xiếc múa lửa
The Carnival of the Divine Imagination của Úc trổ tài nơi cung An
Định.
. Việt Hải
: "Nói
đến việc thành đạo của Đức Phật là phải nói đến
một chi tiết nhỏ nhưng vô cùng quan trọng. Đó là bát cháo
sữa đã giúp sức cho Ngài tu tập đạt thành chánh quả. Trong
buổi sáng trước ngày Thành đạo, lúc Bồ tát ngồi dưới
gốc cây Bồ đề bên bờ sông Neranjarà, một phụ nữ tên
Sujata đã dâng đến Ngài bát cháo sữa mà nàng đã tự tay
nấu lấy. Sau khi thọ xong bữa ăn có nhiều chất dinh dưỡng
ấy, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần nhật. Có
lẽ nhờ bát cháo Sujata mà cháo đã trở thành một món ăn
quan trọng thường được Đức Thế Tôn nhắc đến trong kinh
điển. Theo Trường Bộ Kinh (kinh số 17) có tám vạn bốn ngàn
loại cháo sữa.
. Anthony
Ducoutumany & Nguyễn Bảo Hưng : "
Chúng ta đã quen sống an tâm trong niềm tin vững vàng của
mình. Thế rồi cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, tác hại
không ít thì nhiều tới mọi quốc gia, không chừa bất cứ
nước nào. Trong khi hầu hết các đại cường quốc lâu
đời phải chịu phần hậu quả lớn nhất, thì lại
phác họa ra một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
này, vai trò của Á Châu và đặc biệt là Việt Nam, vẫn có
một chỗ đứng quan trọng trong tâm tưởng chúng ta, sẽ ra
sao ? "
Văn
học - Luận - Tư tưởng - Lịch sử - Thời đại |
Dân
tộc :
. Nguyễn
Khôi : Sống Chụ Son Sao - Tiễn dặn
người yêu, truyện thơ dân gian của dân tộc Thái ở Tây
Bắc Việt Nam ghi bằng lời hát.
Đây là
lời chàng trai dặn người yêu khi tiễn nàng về nhà chồng,
cha mẹ nàng chê chàng trai nghèo nên gả cho người khác. Có
nhiều tình tiết lắt léo. Lúc đầu, anh dự tính đi buôn,
có tiền về sẽ chuộc chị. Chị chờ đợi năm này sang năm
khác, đến lúc anh trở lại thì cũng là lúc hết hạn người
kia ở rể, chị phải về nhà chồng. Để kéo dài những giây
phút gặp mặt, anh tiễn đưa chị và hẹn ước sẽ lấy nhau
"khi goá bụa về già" Ở nhà chồng, chị trở nên điên dại,
bị đuổi về nhà mẹ. Cha mẹ chị lại gả cho người thứ
hai. Chị càng ngẩn ngơ hơn. Nhà chồng đem chị ra chợ bán.
Tình cờ người mua chị chính là chàng trai ngày trước.
Một tối
mùa thu Hà Nội đến thăm bác Trần Lê Văn, nhà thơ kể rằng:
Trong một lần tiếp một nữ thi sĩ Pháp, bà ta có hỏi:"Cái
gì sâu sắc nhất trong thơ Việt Nam?". Nhà thơ Trần Lê Văn
đọc một đoạn "Tiếng hát làm dâu"(dân tộc H'Mông ở Việt
Nam) cho bà ta nghe(dịch ra tiếng Pháp), bà ta thốt lên:"Chưa
được nghe một áng thơ nào nói về thân phận con người
( phụ nữ) sâu sắc như thế!". Nguyễn Khôi tìm đọc, cũng
một ý nghĩ như thế và chuyển ngữ sang thơ Việt để bạn
đọc các dân tộc anh em cùng thưởng thức.
Giáo
dục :
. Nguyễn
Thị Chân Quỳnh : Thi Hội trỏ vào
kỳ thi dành cho những người đã đỗ Hương cống / Cử-nhân
(1), được tổ chức ngay sau năm thi Hương, thường vào những
năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, và dài độ một tháng thời nhà
Nguyễn. Thời Lê, những năm 1463, 1467, 1652... chỉ dài một
ngày, tức là hôm trước thi Hội, hôm sau thi Ðình.
Lúc đầu,
nước ta chưa phân biệt thi Hội với thi Ðình, chỉ có thi
Thái học sinh, tức là thi Ðại khoa, Ðại tỷ cũng có khi
gọi là Nam Cung thí (2). Tên thi Hội đến 1396 (thời Hồ Quý
Ly) mới có, để phân biệt với thi Ðình / Ðiện thí là kỳ
thi dành cho những người đã đỗ Hội thí, với mục đích
sắp đặt người đỗ theo thứ bậc cao thấp, cho nên người
ta thường coi thi Ðình là kỳ thi cuối của thi Hội, do đó
cũng thường gọi thi Hội và thi Ðình với tên chung "Thi Hội".
------>
Khoa
Cử Việt Nam ( tập hạ ) : Thi Hội ( -
Chương
một : Định kỳ - Phép thi -
Chương
hai : Trường thi )
. Lại Như
Bằng dịch : Lời người dịch (nd):
Emile Roucoules từng là Giáo sư Cố vấn ( Professeur-conseil ),
hiệu trưởng trường Trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn
(1887, ...), phó chủ tịch Hội nghiên cứu Đông Dương (Société
des Etudes Indo-Chinoises de Saigon) và của Ủy ban địa phương
Hội Pháp-văn Liên-hiệp (Alliance Française).
Bài này
được Roucoules đọc tại buổi họp này 23/10/1889 của Hội
nghiên cứu Đông Dương , và được trích từ : Bulletin
de la Société des Etudes Indo-Chinoise de Saigon .- Année 1889 - 2e
semestre / Séance du 23 octobre 1889 / Société des Etudes Indo-Chinoises
de Saigon.
. Phanxipăng
: Chương trình Gặp gỡ toán học tạo
điều kiện thuận lợi giúp học sinh chuyên toán từ
nhiều tỉnh thành đến với nhau để "học mà chơi, chơi mà
học" trong tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Đó cũng
là nơi giáo viên cùng phụ huynh học sinh thoải mái trao đổi
ý kiến liên quan giáo dục. Nên phát triển sân chơi thú
vị bổ ích này với các khối học sinh chuyên khác và đội
tuyển học sinh giỏi các bộ môn khác trên toàn quốc:
văn, sử, địa, lý, hoá, sinh, tin, ngoại ngữ.
Ngôn
ngữ
. Nguyễn
Bảo Hưng : "Ngôn ngữ là công cụ
của nhà văn, nhà thơ cũng như búa, đục, cây đinh chạm trổ
với nhà điêu khắc. Nhà điêu khắc, dẫu thiên tài, nếu
thiếu công cụ tinh vi, cũng không thể hiện được tài năng
sáng tạo của mình. Ngược lại, một nghệ sĩ nghiệp dư,
cho dù có sắm được bộ đồ tinh xảo nhất, cũng chỉ làm
ra những tác phẩm tầm tầm mà thôi. " Liệu tiếng Việt có
thể là công cụ đắc dụng cho nỗ lực sáng tạo văn học
hay không ? Đó là vấn đề cấp thiết mà chúng tôi cho rằng
đã đến lúc cần đặt ra và mong được sự tham gia góp ý
đông đảo.
Trong một
bài viết đã đăng trên diễn đàn này (1), chúng tôi có nêu
vấn đề khả năng diễn đạt của tiếng Việt với chủ
ý chứng minh rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đầy đủ
khả năng đáp ứng cho mọi nỗ lực tìm tòi sáng tạo. Chúng
ta cũng biết một nhà văn muốn đi tìm cái mới thường ngập
ngừng đắn đo mỗi khi cầm bút viết. Ngập ngừng đắn đo
bởi vì ông ta đang tìm cách xua đi âm vang của những sáo
ngữ thời thượng, những nhịp điệu ru êm, những lập luận
công thức đang vo ve khuyến dụ ông, tìm cách lôi kéo ông
lại sa vào vũng lầy của những cảm xúc tiền chế, những
suy tư đã xếp nếp. Có xua đuổi những vo ve ấy, ông mới
lắng nghe được những vang vọng, những thì thầm nho nhỏ
đang muốn cố nhoi lên tự thăm thẳm đáy lòng.
. Nguyễn
Vĩnh-Tráng : Đầu năm nay, tình cờ
tôi gặp được bài " Viết tắt chữ Việt trong ngôn ngữ
@ " của ông Trần Tư Bình, trên tạp chí mạng Chim Việt Cành
Nam. Hiếu kỳ, tôi vào đọc. Càng đọc tôi càng thấy lý
thú, càng đọc tôi càng thấy ông Trần Tư Bình đã dày công
sáng tạo quy luật cho cách viết tắt chữ Việt, hầu thống
nhất cách viết.
Mặt khác,
cũng vì hiếu kỳ, tôi có đọc một vài " ý kiến độc giả
" rải rác trên mạng. Khen chê lẫn lộn, nhưng phải thành
thật mà nói, có rất ít người phản bác. Chuyện ngạc nhiên
là trên đà phản bác, có người cho rằng đụng chạm đến
chữ Việt truyền thống là đụng chạm đến Văn Hóa !
Lịch
sử :
. Bùi Thụy
Đào Nguyên : Đây là một bài phú
Nôm dài 46 câu và kết bằng một bài thơ thất ngôn bát cú,
không rõ tác giả, do học giả Vương Hồng Sển sưu tầm,
đặt lại tên mới là Gia Định phú và chép trong cuốn Tập
Thành (bản chép tay) của ông.
Ngoài bản
này, hiện còn hai bản nữa (so lại, chúng đều khác nhau ít
nhiều, tuy nhiên bản của ông Sển là đầy đủ hơn cả)
đó là:
Cuộc
nổi dậy Ba Nhàn, Tiền Bột (bắt đầu: 1833, kết thúc: 1843),
là cuộc đấu tranh chống triều Nguyễn, do Nguyễn Văn Nhàn
và Lê Văn Bột làm đồng thủ lĩnh, khởi phát từ Sơn Tây
vào đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Đây không
phải là một là một đám "giặc cỏ" tầm thường như vua
quan nhà Nguyễn quen gọi, cũng không phải là một bộ phận
nhỏ bé của cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương, và sau nữa
là của Nông Văn Vân, mà là một cuộc nổi dậy có tầm cỡ
trong những năm 30 của thế kỷ 19, mà bấy lâu nay chưa được
nhiều người chú ý.
. Bùi
Thụy Đào Nguyên :Đốc Ngữ (? - 1892), tên thật: Nguyễn
Đức Ngữ, là người xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ, tỉnh
Hà Tây (cũ). Sinh ra trong nghèo khó, nên ngay từ lúc nhỏ ông
đã phải chèo đò để giúp đỡ gia đình kiếm sống.
Khi quân Pháp đánh Bắc Kỳ
lần thứ nhất (1873), Đốc Ngữ đi đầu quân rồi đóng ở
Sơn Tây. Do lập được nhiều chiến công, ông thăng dần lên
chức Đốc binh, nên tục gọi là Đốc Ngữ.
Khi xảy ra trận Cầu Giấy
lần thứ hai (19 tháng 5 năm 1883), Đốc Ngữ là một trong số
người có đóng góp lớn cho trận đánh thành công...
. Trần viết
Ngạc & Thái Vĩnh Trân : Ngày nay,
đến đền Tiên Nga - một di tích lịch sử văn hóa [1] ở
Quận Ngô Quyền, Hải Phòng, khách viếng thăm có thể chứng
kiến một vị trí trang trọng trong đền có thờ các vị:
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Tuệ, Nguyễn Thượng Hiền,
Trịnh Văn Cấn, Lương Văn Can... Đó là những tên tuổi gắn
bó với phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. (...)
Trong số
các bậc tiên hiền trung liệt đó, Lý Tuệ ít được biết
và nhắc đến. Xuất thân không phải là một sĩ phu Nho học,
và cũng không phải là người lãnh đạo một phong trào, người
con của đất Hải Phòng Lý Tuệ đã ghi dấu ấn trong lịch
sử bằng những đóng góp hết sức thầm lặng mà lớn lao:
. Trần viết
Ngạc & Thái Vĩnh Trân : Những
vị nào say mê khoa tướng số, tử vi thử chấm lá số tử
vi cho Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, hy vọng có thể giải thích
vì sao ông có quá nhiều cơ hội đưa ông đến ngôi thiên
tử mà rốt cục chẳng có lần nào thành.
Cường Để sinh ngày 11 tháng
giêng năm Nhâm Ngọ (28.2.1882), trực hệ của Đông cung Cảnh,
con trưởng vua Gia Long.
Cơ hội đầu tiên khiến Cường
Để có thể lên ngôi vua là vào năm 1894 khi ông mới 12 tuổi.
"Kinh đô thất thủ" (23 - 5 Ất Dậu - 1885), vua Hàm Nghi rời
bỏ kinh thành ra Tân Sở ban dụ Cần Vương.
.Trần
viết Ngạc Kỳ
thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn vào năm 1807 chỉ
dành cho sĩ tử ở xứ Đàng Ngoài trước đây, lấy đậu
61 cử nhân. Ưu ái và vỗ về sĩ phu và nhân dân Bắc Hà chăng?
Khoa sau, 1813, Gia Long mới cho
thiết lập một trường thi ở Kinh đô Huế và một trường
ở Gia Định thành (trường Gia Định). Trường Gia Định được
duy trì từ năm 1813 cho đến năm 1858, tổ chức được 19 kỳ
thi Hương. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), trường An Giang
(1864) thay thế cho trường Gia Định.
Tất cả 20 kỳ thi Hương ở
Nam Kỳ (1813-1864) tuyển chọn được 274 cử nhân. Kỳ lấy
đỗ cao nhất là 20 cử nhân vào các năm 1847, 1848 và thấp
nhất là 8 cử nhân ở kỳ thi Hương đầu tiên (1813).
Có một sự kiện lạ lùng
ít ai lưu tâm tìm hiểu và biết đến là 274 cử nhân thi đậu
tại các trường thi Gia Định và An Giang, duy nhất chỉ có
Lương Khê Phan Thanh Giản là đạt được học vị Tiến sĩ!
Tên
gọi Chiếu Cần Vương hoặc Hàm Nghi đế chiếu
là một nhầm lẫn lịch sử đã kéo dài quá lâu. Điều tai
hại là từ sự nhầm lẫn này dẫn đến những sự nhầm
lẫn khác như sự phát hiện Chiếu Cần Vương 2, và
mới đây, Chiếu Cần Vương 3 (tạm gọi như thế). Chiếu
Cần Vương 2 do Gosselin công bố và
Chiếu Cần Vương
3 của d'Argenlieu do Thái Lộc công bố trịnh trọng trên
tuần báo Tuổi Trẻ cuối tuần với nhan đề Tìm
thấy nguyên bản Chiếu Cần Vương! [1] Những tài liệu
ngụy tạo như thế làm nhiễu một giai đoạn lịch sử của
dân tộc vốn đã phức tạp, giai đoạn phong trào Cần Vương.
. Nguyễn
Vĩnh-Tráng : Thân Phụ chúng tôi, Cụ
Bửu Ngự, là Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Nguyễn-Phước
Tộc - HĐTSNPT, từ năm 1945 đến năm 1947, và Chủ Tịch Hội
Đồng Trị Sự Tôn Nhơn Phủ - HĐTSTNP, từ năm 1948 cho đến
khi Ông mất vào tháng Sáu 1949. Ba chữ " Tôn Nhơn Phủ " được
thấy lại trên các công văn, sau 3 năm không dùng đến (1945,
1946, 1947). (...)
Sở dĩ,
tôi đề cập đến chuyện trên, vì Thân Phụ chúng tôi, Cụ
Bửu Ngự, đã trực tiếp tham dự vào sự lựa chọn Bài Hát
cùng Lá Cờ mà sau nầy trở thành Quốc Ca và Quốc Kỳ của
Quốc Gia Việt Nam và của Việt Nam Cọng Hòa, với tư cách
Chủ Tịch HĐTSTônNhơnPhủ.
. Trần
Viết Điền : Sự kiện
Lí Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân,
cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những
điềm báo có thiên tử ra đời ...là biểu hiện của một
cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức
tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh,
hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện
ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. Cuộc
hôn phối có ý đồ, với đạo diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh
tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà
với " vị thần nhân dựa cột chùa ", một người họ Lý
đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền sư Vạn Hạnh
tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp " thần nhân
", một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lí Công
Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lí vùng
Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang trong
thời kì phải mai danh ẩn tích.
Trong tâm cảm "Từ thuở
mang gươm đi mở nước, ngàn năm nhớ mãi đấtThăng Long",
chúng tôi mạo muội đặt vấn đề: Các nhà sử học thường
nêu bật công lớn của bốn vua triều Lý với cụm từ "phá
Tống bình Chiêm", và các nhà nghiên cứu lại tập trung vào
những sự kiện liên quan Tống, Chiêm. Trong khi đó, vào thời
Lý
Thần Tông, Lý Anh Tông trị vì, Đại Việt đã nhiều lần
bẻ gãy ý đồ xâm lược Đại Việt của vua Suyrayavarman
II, vị vua kiệt hiệt của đế quốc Chân Lạp, thì ít
nhắc đến. Đến thế kỷ 12, Suyrayavarman II từng tiêu diệt
nhiều vương quốc ở Đông Nam Á để bành trướng lãnh thổ,
nhiều lần xâm lược Đại Việt nhằm thôn tính nhưng không
thành công, để rồi hoàn toàn thất bại đầy tủi hận khi
phải mất mạng trong lần thân chinh đánh phá Đại Việt năm
1150.
. Phanxipăng
: Nội các triều đình
quân chủ Việt Nam tổ chức guồng máy hành chính có "lục
Bộ" từ bao giờ? Năm Kỷ Mão 1459, triều Lê sơ, niên hiệu
Thiên Hưng, vua Lê Nghi Dân lần đầu tiên thiết lập đủ
"lục Bộ" gồm: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Kế tiếp,
vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đặt chức Thượng thư - tương
đương chức Bộ trưởng bây giờ - đứng đầu 6 Bộ với
hàm tòng nhị phẩm.
Như thế, trong cơ chế "lục Bộ"
không có Bộ Học. Việc đào tạo trí thức cùng tuyển chọn
hiền tài thông qua hệ thống giáo dục và thi cử trải suốt
bao triều đại đều được Bộ Lễ kiêm nhiệm. Tuy nhiên,
viết về thời quân chủ phong kiến, thỉnh thoảng sách báo
vẫn nhắc "Bộ Học" với "Thượng thư Bộ Học" lẫn "Tham
tri Bộ Học". Vậy Bộ Học ra đời vào thời gian nào?
Đề cập
Hà Nội xưa, thiên hạ vẫn nhắc Thăng Long tứ trấn
và
Thăng Long tứ quán. Tuy nhiên, về hai danh mục di tích
lịch sử - văn hoá đặc sắc này, hiện có rất nhiều người
(kể cả dân thủ đô) hoặc thiếu am tường, hoặc thường...
nhầm lẫn!
Một trong
những lý do khiến đông người nhầm lẫn: hai danh mục mang
tên gọi hao hao nhau. Lại thêm, tổng số di tích của hai bộ
tứ không phải 8, mà là... 7!
Tư
tưởng - Thời đại:
. Trịnh Nguyên
Phước : Kinh Kim Cương (hay Kim Cang),
tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa(Vajracchedika-prajñaparamita),
là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo
Đại Thừa, đồng thời được xem là một bài kinh căn bản
của Thiền tông, vì chứa đựng tinh hoa, cốt tủy của giáo
lý Bát Nhã.
Đối với
người tu học Thiền, Kinh Kim Cương đóng một vai trò khai
ngộ đặc biệt, bởi vì chính nhờ câu "Ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm" trong bài Kinh mà Lục tổ Huệ Năng và nhà vua
Trần Thái Tông đều đạt được đại ngộ.
. Võ Công
Liêm : Buồn Nôn là một lý thuyết
hiện sinh hay Buồn Nôn là một tiểu thuyết hư cấu của Sartre
? Cái hay của tác giả là biến truyện thành lý thuyết một
cách sâu xa, với một hình thức trình diễn mới lạ,một
trạng thái tâm linh đa dạng.Truyện cũng chẳng phải là tự
truyện và chẳng phải là hồi ký...mà là tiểu-thuyết nhật-ký,nghe
lạ nhưng đọc kỷ những lý lẽ trong truyện ít nhiều cho
ta thấy được tính nhân bản của nó, mà trong chúng ta dường
như đã có một cái nhìn hiện sinh của một bản thể tự
tại,mà đôi lúc xẩy ra trong đời làm người, vốn mang thân
phận xót xa và đau khổ.
Sartre đã
đưa nhân vật Antoine Roquentin vào tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée/The
Nausea) như một "người hùng" ;một nhân vật được
xem là mẫu người đàn ông lý tưởng, đứng trước mọi
tình huống của cuộc đời đang sống
.Thảo
Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh : ------>
Bách
Gia Chư Tử (tiếp theo)
(-Khổng
Tử - Các
đệ tử của Khổng Tử - 3.
Mạnh Tử. * 4.
Tuân Tử. * 5.
Lão Tử.
*
6.
Trang Tử. *
7.
Mặc Tử và môn đệ. * 8.
Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi.
* 9.
Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ.
* 10.
Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11.
Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những
việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
*...)
. Võ Hưng
Thanh : Nội dung này nói
chung ông Trần Đức Thảo đã viết vào cuối thập niên những
năm 50 của thế kỷ trước ở miền Bắc VN, tức cách đây
đã ngót 50 năm, nên chính ý nghĩa lịch sử và cả tính cách
triết học của nó hiện nay cũng đã có nhiều thay đổi.
Nói cách khác, thời thế đã đổi thay nên tất nhiên những
gì mà ông Thảo đã viết, giờ đây không còn mấy giá trị
về mặt xã hội khách quan của nó nữa. Nhiều điều đã
không còn đúng như nội dung lý thuyết mà ông đã bày tỏ,
ngay trong bối cảnh của thế giới hiện đại. Tuy vậy, cũng
nên trình bày ra đây, coi như một kinh nghiệm cũ xưa về ý
nghĩa và tính cách của phương pháp luận khoa học hay triết
học nói chung, về những điều gì mà ông Trần Đức Thảo
thật sự đã từng bày tỏ, trong rất nhiều tính cách, trong
các ý nghĩa và nguyên khác nhau, do ở vào chính cái thời điểm
đã qua ấy.
Truyện
ngắn - Ký - Văn - Biên khảo |
. Võ Quang
Yến : Tối
hôm chủ nhật 25.10.2009, Trung tâm Văn hóa Việt Nam phối hợp
với cơ quan Hàng không Vietnam Airlines đã tổ chức ở Paris
một đêm văn nghệ vũ khúc và ca nhạc cận đại Việt Nam
mang tên Đêm Sen. Sen là một bông hoa Việt quý trọng đã đành
mà còn là tượng trưng cho hảng Hàng không Việt Nam. Được
biết đoàn ca múa, trong khuôn khổ hoạt động văn hóa ở
nước ngoài nhắm hướng lễ kỷ niệm 1000 năm ngày thành
lập thủ đô Thăng Long - Hà Nội, trên đường đi trình diễn
ở London, được mời ra mắt khán giả ở Pháp một đêm độc
nhất. Dịp hiếm có lại được xem không mua vé giải thích
Nhà hát Gymnase Marie Bell đông nghịt khán giả, phần lớn dễ
hiểu là người Việt. Chương trình rất phong phú gồm có
hòa nhạc, những vũ khúc cận đại Múa Sen, Mưa hè, Ru con,
Mùa gặt, Thương nhớ Quê hương, Tiếng vọng Núi rừng, Bình
minh trên sông Hương, dựa lên truyền thống, xen lẫn với
những màn dân tộc Hoa Champa, Mưa trên Tháp cũ, Lữa tình Tây
Nguyên, một vở cổ kính tôn sùng đức Quan Âm ngàn mắt
ngàn tay, một bản huyền diệu đã từng làm xiêu lòng những
chuyên gia Nhật Bản đài NHK khi ghi hình ở Huế là điệu
múa cổ điển cung đình Lục cúng hoa đăng.
.Cung Điền
: Cách đây gần 45-46 năm, vào một
đêm hè trong một quán trọ sinh viên nghèo tại ngoại ô Tokyo,
Nguyễn việt Dzã và tôi bàn nhau đặt tên cho một truyện
ngắn mà Nguyễn quân mới viết, định gửi cho tờ báo Văn
ở bên nhà. Sau khi đọc xong, tôi đề nghị cái tên ghềnh
quạ, vì trong đoạn kết của câu truyện có cảnh đàn quạ
bay lên trời, bên ghềnh đá bờ biển, nơi đứa trẻ điên
khùng đã ngã hay tự tử. Sau đó chúng tôi, hai thằng còn
đang tuổi đôi mươi, đề cập tới đàn quạ trong chuyện
Ngưu Lang Chức Nữ, và Nguyễn quân có ý khác về những giọt
mưa Ngâu vào ngày mồng 7-7. Nhân dịp nhạc sỹ Lê văn Khoa,
người đã từng viết lịch sử Việt Nam bằng nhạc,
người đã từng mang dân ca Việt Nam vào nhạc hòa tấu, tới
tiểu bang Indianapolis chia vui với chúng tôi trong dịp trính
diễn văn hoá Việt Nam, chúng tôi cũng xin nhân dịp này dùng
ca dao Việt Nam để viết lại ý đã được gợi ra từ gần
50 năm trước đây trong bản kịch Ngưu Lang Chức Nữ.
. Nguyễn
Chính : "Mình nói với
ta mình vẫn còn son
Ta đi ngang ngõ thấy con mình
bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi xách nước tắm cho con
mình" Trong kho tàng văn học
dân gian, có rất nhiều bài thơ nói về tình nghĩa vợ chồng,
tình yêu đôi lứa, với những câu thơ mộc mạc, chân tình,
mà thấm đượm tính nhân văn. Bài thơ trên chỉ có bốn câu,
nhưng tác giả dân gian đã kể lại được trọn vẹn một
chuyện tình có hậu.
. Đặng
Tiến : Hữu Loan là khuôn
mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca đương đại từ
hơn 60 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng
tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự. Màu tím hoa
sim, làm trong thời chống Pháp, là bài thơ nổi tiếng nhất,
nhưng được nhắc nhở, đôi khi không phải vì lý do văn học,
thậm chí còn làm nhiễu lý luận văn chương.
Khắc họa chân dung văn học
chân chính và phức tạp của Hữu Loan là việc khó nhưng trước
sau cũng phải làm.
Ông tên thật là Nguyễn Hữu
Loan, sinh ngày 2.4.1916, tại làng quê, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non một
trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, đã là
nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan.
. Phạm Xuân
Hy : Tại
Hàn Thành có vị hiếu liêm họ Lư, lên kinh thi tiến sĩ lạc
đệ, bèn cùng tên gia bộc, mỗi người một ngựa, theo đường
Hà Bắc trở về quê ở Thiểm Tây.
Bấy giờ, trời đã về chiều,
mặt trời đã ngả về tây, nhưng Lư vẫn chưa tìm được
quán trọ, trong lòng còn đang lo lắng bồn chồn, thì bỗng
nghe có tiếng chó sủa vang. Chàng cho rằng gần đó tất có
người cư ngụ, nên ra roi thúc cho ngựa đi mau. Nhưng lắng
tai nghe kỹ, thấy tiếng chó sủa hình như phát ra từ một
khu rừng cây, Lư bèn bỏ đường lớn, rẽ vào một con tiểu
lộ, ngoằn ngoèo khúc khuyủ.
.Đỗ
Đình Tuân : Thị xã Hải Dương
lúc đó còn nhỏ bé lắm. Nhộn nhịp nhất vẫn là phố Trần
Hưng Đạo, thứ đến phố Quang Trung và khu Chợ
Lớn. Nhưng vui nhất, bắt mắt nhất vẫn là khu có rạp chiếu
bóng Hòa Bình, nhà kem Thụy Anh và Hiệu sách nhân dân.. Ở
giữa khoàng nhà kem Thụy Anh và rạp chiếu bóng Hòa Bình vẫn
còn có một quán cơm bình dân che tạm bằng một mái lá trên
một ô đất trống. Những ngày đầu ra thị xã, bọn học
trò nhà quê chúng tôi thường đến ăn ở quán cơm này vì
rẻ và cũng khá ngon. Thời ấy, ao chuôm, sông ngòi, đồng
ruộng còn lan vào đến gần tận trung tâm thị xã. Từ vườn
hoa Độc Lập nhìn ra Ga vẫn thấy mênh mông bát ngát và xa
thăm thẳm. Từ vườn hoa Đu Đủ nhìn ra cầu Phú Lương cũng
vậy. Phố Bến Bè (phố Tam Giang bây giờ) một bên còn san
sát nhà tranh vách nứa và một bên là đường con trạch ngổn
ngang tre, nứa, lá.
Không
thấy có lời tuyên án.
Cũng không thấy có pháp trường.
Chỉ thấy có ba ông thợ điện
, không rõ mặt mũi lắm, thì thào với nhau một cách rất
bí hiểm...? Rồi, họ dẫn tôi đi. Cũng chỉ là một ý niệm
rất mơ hồ thôi, chứ không có cảm giác bị dong dẫn, bị
trói tay hay bịt mắt gì. Trên cái "đoạn đường đi"
rất trừu tượng ấy, tôi nghe văng vẳng một tiếng nói:
"Bắn chết! Đem bắn chết!". À, thì ra họ đem mình đi xử
bắn. Thế là tôi bắt đầu lo. Bắt đầu hãi... Chao ôi ...sao
mà tiếc đời thế ! Bao nhiêu là nỗi "tiếc đời" từ khắp
chân tơ, kẽ tóc trong người tôi dường như dồn cả về
lồng ngực làm ấm nóng trái tim tôi. Tôi khóc hu hu...
.
Minh Hương : Dựng
chiếc xe máy vào góc nhà, để chiếc cặp giáo án lên bàn,
Thanh bước đến trước gương đưa tay vén lại mái tóc bị
gió lùa loà xoà trước trán cho thành nếp, cô mỉm cười
với mình. Dường như không cảm nhận được điều gì từ
khuôn mặt phờ phạc trong gương, Thanh cố mỉn cười một
lần nữa, nhưng chẳng có gì vui vẻ hơn bởi đôi mắt cứ
rười rượi kia. Thở dài đánh thượt, cô quay lại xách giỏ
thức ăn chiều xuống bếp và nhớ lời Tiến thường nói:
"Mắt em buồn như chiều mưa".
Nghe tiếng
động biết mẹ về, hai chị em Tuyết - Tùng đang xem ti vi
trên gác vội ào xuống tranh nhau khoe:
- Mẹ ơi!
Có thư ba.
. Sóng
Việt Đàm Giang : Nhà
thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, vừa qua đời
ngày 18 tháng 3 năm 2010. Chỉ trong vòng 24 giờ đồng hồ đã
có hàng ngàn bài viết trên toàn thế giới nói về ông, và
chỉ trong vòng một tuần (ngày 25 tháng 3, 2010) mà những bài
viết đã đạt đến mức độ không kể hết.
Nếu mở Google ra và đánh hai chữ
Hữu Loan vào thì độc giả có thể thấy trong Google ghi nhận
có hơn hai triệu links nói về Hữu Loan và bài thơ đã làm
ông nổi tiếng. Bài thơ được nói đến đã nhiều, chính
ông lúc sinh thời đã ngâm bài thơ và được thu âm phát tán
đi khắp năm châu.
Trong khuôn khổ bài viết này là
những bài thơ của Hữu Loan sưu tầm trên internet. Một số
bài chép lại qua hồi tưởng của những người quen biết
Hữu Loan. Sự trung thực không được kiểm soát vì không có
ấn phẩm để tham khảo.
Ngọc
Lan la tên một loài hoa. Hoa Ngọc Lan đã được văn nhân nghệ
sĩ nói đến với nhiều cảm tình đặc biệt, có những nghệ
sĩ đã viết thơ làm nhạc ca tụng hoa Ngọc Lan, hoặc so sách
hoa Ngọc Lan với một người đẹp nào đó. Và Ngọc Lan cũng
là biệt danh của một nữ ca sĩ rất đẹp đã qua đời khi
tài sắc còn đang trên đường danh vọng.
Bài viết ngắn này là một tổng
hợp ngắn nói về hoa Ngọc Lan và văn chương nghệ thuật
có liên hệ đến Ngọc Lan.
Tất
cả chúng ta trước khi đi chơi du lịch xa thì thế nào trong
gia đình, một trong hai người cũng là người lo thu xếp chuyện
du lịch từ ngày giờ máy bay đến nơi chốn ở chỗ muốn
đi. Và tài liệu sách hay trên internet cũng được thu thập
đầy đủ.
Bài viết này chỉ là kinh nghiệm
cá nhân mà không thể thay thế cho tài liệu do các cơ quan
du lịch địa phương quảng cáo rộng rãi. Hy vọng nó sẽ
giúp được vài bạn trong viết thu xếp thì giờ để cho việc
du lich được tốt hơn. Thí dụ như muốn đi lên núi đỉnh
núi Haleakala để xem lúc mặt trời mọc cỡ từ 5:30 đến
6:00AM thì cần tính từ nơi mình ở hotel đến đó là bao lâu,
nhân viên hotel rất rành và sẽ cho biết là 1hr đến 2 hrs
chẳng hạn. Và sau xem mặt trời mọc, rời núi đi xuống ghé
thăm những cảnh hùng vĩ khi trời bắt đầu sáng và rồi
có cả một ngày từ sáng đến 6PM để đi chơi. Hay là về
hotel nghỉ sớm hơn cỡ 5PM rồi tối đi tiếp.
Bài viết này nói về những nơi
đáng thăm viếng trên đảo Maui.
. Thế
Phong : ------>
5000
km xuyên Việt [PDF]
. Trịnh Thanh
Thủy : Trong
không khí tưng bừng nhộn nhịp của mùa đá banh World Cup 2010,
bác sĩ Ehlers, đã phân phối 30,000 bao cao su chống hiếp dâm
Rape-Axe đến Nam Phi để bảo vệ giới phụ nữ. Bà giải
thích rằng, trong khi tất cả lực lượng an ninh của Nam Phi
đổ dồn về các sân vận động để bảo vệ an toàn cho
du khách thì bọn bất lương có thể tha hồ tung hoành tại
các tỉnh khác của Nam Phi. Điều tệ hại này có thể dẫn
đến tệ nạn hiếp dâm phụ nữ.
Nam Phi là nước có tỷ lệ hiếp
dâm cao nhất thế giới, mỗi năm có đến hơn 50.000 trường
hợp được ghi nhận chính thức (con số thật sự phải cao
hơn nhiều). Cứ 4 người đàn ông thì có 1 ông thú nhận đã
từng hiếp dâm phụ nữ. Theo tổng số những đứa trẻ ra
đời trong một ngày thì có 961 em là kết quả thụ thai của
các nạn nhân bị hiếp dâm. Năm vừa qua, có khoảng 21,000
trường hợp các em nhỏ bị hãm hiếp được báo cáo.
Tôi không
biết tại sao người Việt ở Úc lại đặt tên cho xứ này
là Xứ Thòi Lòi. Có lẽ tại xứ này có nhiều cá thòi lòi
là một loại cá bống trắng hay sao đó mà ngay hôm đến Úc,
ghé thăm nhà bạn tôi, trong bữa cơm đầu tiên, trên bàn ăn,
tôi đã thấy có mặt đĩa cá thòi lòi tẩm bột chiên. Cái
tên "Xứ thòi lòi" nghe sao mà tình tự dân tộc, đậm đà
ruộng lúa, nương dâu, đồng chua, nước mặn vô kể. Úc còn
có cái tên là "Miệt dưới" hay "Miệt vườn", gợi nhớ tới
bóng dừa, hoa cau, con đò, mái chèo thênh thang sóng nước rập
rờn một miền nam nắng cháy. Nó khiến tôi thấy mến, tự
nhủ lòng, mình phải đi Úc một chuyến. Nhân đứa cháu lấy
chồng mời tôi qua dự đám cưới, thế là mình có cớ "qua
bên ấy xem thử" cái xứ thòi lòi có quê như cái tên không?
Nguyễn
Vĩnh-Tráng : Có những người không thích Toán cho mấy, nên
đã phán rằng Toán Học là khô khan, vì những đẳng thức,
phương trình gồm toàn những ký hiệu cộng trừ nhân chia...,
thậm chí có cả những ký hiệu "
, $ ...,
cùng những số và chữ cái a, b, c, x, y, z, a
, b , d , e
, l , m ...;
ngoài ra có những danh từ kỹ thuật, nếu không học Toán,
thì không biết đến, như " Nhóm ", " Vòng " " Thân ", " Không
gian vectơ ", " Độc lập tuyến tính "... Có lẽ vì vậy mà
những người yêu Toán lại đặt ra những bài thơ nhí nhảnh
để giới thiệu những bài toán vui, hay để tỏ con tim của
họ cũng rung động " không biết mấy chu kỳ " trước một
sắc đẹp, trước một bài văn hay, trước một câu thơ tuyệt
tác...
Những bài
Toán Thơ, Thơ Toán trong dân gian và những tác phẩm của những
người yêu Toán đã chứng minh điều đó.
Thơ Toán
trong dân gian, cũng như Ca Dao, Tục Ngữ là những bài, những
câu thơ tuyệt tác, khó mà trau chuốt lại được, nếu không
muốn mất đi tính chất bình dân và độc đáo của chúng.
Nói
đến
Phong Trào Bình Dân Học Vụ vào những năm 1945,
1946, những người, năm nay đã thất Tuần khó mà quên được.
Là một Phong Trào hết sức nhộn nhịp. Nhộn nhịp, một phần
vì dân ta hiếu học, một phần vì cách dạy rất khéo léo
dễ học. Và cứ thế từ thành thị đến thôn quê, trẻ,
già, lớn, bé đổ xô nhau đi học. Các giáo viên là các học
sinh ở các trường Trung Học, nên rất trẻ, rất hăng say,
rất tận tình, cùng với các nhà hảo tâm đóng góp tiền
bạc để mua giấy bút phát không cho học viên. Chính Quyền
lại khuyến khích, cổ động tối đa, nào là đi từng nhà,
từng xóm mời dân đi học, nào là dựng các cửa " Hoàn Môn
" cho người biết đọc đi qua (ở cầu An Cựu, Huế, gần
nhà tôi, lúc bấy giờ...), nào là những vần thơ dễ nhớ
như :
" I tờ hai móc giống nhau,
I ngắn có chấm, tờ dài có ngang
"
. Việt
Hải : Thế hệ chúng tôi
lớn lên trong các thập niên 60s và 70s khi mà ảnh hưởng người
Pháp bắt đầu nhường chỗ cho người Mỹ bước vào Nam Việt
Nam. Trong sự chuyển tiếp như vậy nhạc Pháp và nhạc Anh
Mỹ đã góp mặt vào sở thích nghe nhạc của người dân trong
xứ là lẽ đương nhiên. Âm nhạc là ngôn ngữ quốc tế,
bỏ ra phần lời vì ngôn ngữ thì nếu thính giả cảm nhận
được cái hay của nó, nên có sự thông cảm.
Tôi có anh bạn mê nhạc pop/rock,
anh thích nghe nhạc của Beatles, Rolling Stones, Elvis Presley, Birds,
Yardbirds, Monkees, Santana, Neil Diamond, CCR,... ngặt một nỗi ông
ngoại của anh Giang là mẫu người mô phạm nho giáo. Cụ mang
quan điểm siêu thủ cựu, super-conservative, cụ đả phá quan
niệm tóc dài, âm nhạc lắc lư cơ thể, nhúng nhẩy như con
"múa rối", tiếng đàn trống in ỏi,... khiến cụ rất khó
chịu, cụ chê trách là nhạc vong bản, chả ra thể thống
gì cả--->Kỷ
Niệm Nhạc ROCK Việt Nam và PHƯỢNG HOÀNG
.
Nguyễn Khôi : Ngày trước, các ấn phẩm in truyện Kiều
(đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du, mở đầu thường
có hai bài tựa:
- Bài thứ nhất của Tiên
Phong Mộng Liên Đường chủ nhân (1820)
- Bài thứ hai của Phong Tuyết
chủ nhân Thập thanh thị (1828)
Cùng bài thơ chữ Hán (đề
từ - thi vân) của Lương Đường Phạm Lập Trai (Phạm Quý
Thích)
Về bài "tựa thứ nhất" của
Mộng Liên Đường, viết vào năm 1820, đây là năm Canh thìn,
Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mệnh nối ngôi - đồng thời cũng
là năm Đại thi hào lâm bệnh qua đời ở kinh đô Huế trong
một nạn dịch bệnh đương thời làm chết hàng vạn người.
Trong " Toàn Đường Thi"
( gồm 42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường)-Nếu chỉ
lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là
"Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu ?
"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng
đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi
tuyệt hảo này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu (
Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan
tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó
ngày nay ).------>
Hoàng
Hạc Lâu : 3 bản dịch độc đáo
. Nguyễn
Khôi : Theo nhà thơ Hoàng Hưng ( VN Lagi & Talawas ngày
19-09-2010) thì: Nhà thơ Hoàng Cầm viết tập thơ "Về Kinh Bắc"
từ 1959 -8 / 1982, chủ yếu lưu truyền bằng chép tay ( ngoài
luồng)- đây là một sự kiện " hậu Nhân văn-Giai Phẩm",
trong đó bộ 3 "cây-lá-quả"( cây tam cúc-lá Diêu bông- quả
vườn ổi) là nổi bật nhất " vì chúng được ( giới Văn
nghệ) xì xầm diễn giải như một lời oán trách của " Em"
(văn nghệ sĩ) với " chị" ( Đảng) .. đại khái là " Em" yêu
"chị" , nhưng "chị" đã lừa "Em" , cho "Em'' ăn toàn "quả rụng",
rồi bỏ mặc "Em" bơ vơ để đi lấy chồng
Theo
Hoàng Cầm kể, thì 1974 Công An Hà Nội có kêu tác giả lên
răn đe về việc lưu truyền những bài thơ "có nội dung xấu
ấy" ...
"Tuyệt cú" là tên một
thể loại Thơ cổ Trung Hoa có từ thời Lục Triều (439-581),
nhưng phải đến đời Đường, đặc biệt là dưới triều
Khai Nguyên -Thiên Bảo (712-756) Đường Huyền Tông thì Tuyệt
cú Đường thi mới đạt đỉnh cao..."tuyệt" ở đây có nghĩa
là "dứt" dùng để đối lập với chữ "liên" (=liền).Tuyệt
cú gồm các loại thơ ngũ ngôn, lục ngôn,thất ngôn 4 câu
tạo thành 1 bài, dùng vần bằng hoặc vần trắc.
Đỗ Phủ có 4 bài Tuyệt cú,
chọn 1 bài :Lưỡng cá Hoàng Ly minh thúy liễu,
Nhất hàng Bạch lộ thướng
thanh thiên;
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu
tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý
thuyền.
Giới làm thơ ngày trước
ai mà chả thuộc 2 câu thơ cổ : Mỹ
nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến
bạch đầu
tạm dịch :
(Người đẹp từ xưa như
tướng giỏi
Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc
đầu )Còn xuất xứ 2 câu này ở đâu ? ( Đường thi, Tống
thi ư ? chủ nhân của 2 câu thơ bất hủ đó là của ai ?...thì
để còn " hỏi Thầy" , tra cứu kho tàng chữ nghĩa Trung Hoa
đã ? Rồi ậm ừ qua vài trăm năm...có dư...
Trải qua nhiều biến động
của các triều đại, chùa Hàn Sơn bị binh lửa đời Thanh
đốt cháy (năm 1860) , đến năm Quang Tự thứ 3 (1904) chùa
được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày
nay, gồm có : Đại điện, Tàng kinh lâu (lầu chứa kinh) ,
Chung lâu (lầu chuông) , Phong giang lâu (lầu ngắm rừng phong
bên sông) , bi lang (hành lang đặt bia) . Điều thú vị là trong
sân chùa có đặt tượng thi sĩ Trương Kế, mà theo tục lệ:
các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều
tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để
được tăng thêm nội lực, được chia sẻ một chút hồn
thơ...đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá,
trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ
Bạc của Trương Kế đời Đường (khoảng trước năm 754)
.Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối
sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn
Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền.
Xưa
& Nay ở Việt Nam ta trong giới làm thơ vẫn truyền tụng
2 câu thơ của Viên Mai :Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân
tối hạ thị văn chương
(mỗi
bữa không quên ghi thẻ trúc,
Lật thân
thấp (hèn) nhất ấy văn chương)
Văn
Nhật
. Quỳnh
Chi : Có
hai nhà nọ là Nakamura và Sonoda, ở cách nhau chỉ một bức
tường rào chùa Kenninji. Mối giao tình thâm sâu như mạch nước
giếng trong vườn, họ đã cùng đón xuân sang dưới cây hoa
mơ nở trước hiên nhà, cùng chia nhau cả mùi hương.
Ông Sonoda đã
qua đời một năm trước, để lại người con nối dõi là
một chàng trai trẻ tên Ryo no suke, năm nay hai mươi hai tuổi,
còn là sinh viên đang theo học tại một trường nọ.
Bên nhà Nakamura
chỉ có mỗi một cô con gái. Họ cũng đã sinh hạ một mụn
con trai nhưng chẳng may vắn số, sau mới được mỗi cô con
gái này, nên thương lắm, nâng niu như viên ngọc quý trên
tay, chỉ cầu sao cho được như cành hoa trên chiếc trâm cài
tóc đừng bị gió thổi bay đi. Tên đặt là Chiyo (Thiên Đại)
thì đủ biết lòng cha mẹ mong sao con mình được sống lâu
như loài chim hạc.
*
Tôi vừa bước
qua ngưỡng cửa hiệu hớt tóc thì có ba bốn người khoác
áo trắng đồng thanh cất tiếng chào "Xin mời quý khách".
Tôi đứng
giữa hiệu nhìn quanh thì thấy đó là một căn phòng hình
vuông. Cửa sổ mở ra trên hai bức tường, còn hai bức tường
còn lại có treo gương. Tôi đếm được có tất cả sáu tấm
gương.
Tôi đến
ngồi xuống trước một tấm gương ấy. Liền thấydưới
mông mềm như bông. Đó là một chiếc ghế ngồi rất êm ái.
Khuôn mặt của chính mình soi trong gương trông thật đường
bệ. Sau khuôn mặt của mình còn thấy có cửa sổ, rồi một
bên là chấn song ngăn chỗ bàn tính tiền. Bên trong chấn song
ấy không thấy có ai ngồi cả. Trong gương nhìn thấy rõ cả
bán thân từ lưng trở lên, của những người qua đường.
. Phạm
Vũ Thịnh : Ibe
Sukehachi bị người ta gọi lén là Thằng ăn mày Ibe hay Thằng
ăn mày Sukehachi, tất nhiên chẳng phải vì anh ta làm ăn mày
ăn xin gì đâu, mà chỉ vì hình dáng lôi thôi bẩn thỉu của
anh ta đó thôi. Sukehachi lúc nào cũng dơ bẩn, áo quần dính
bụi đất cáu ghét, có vẻ anh ta ít khi tắm nên thỉnh
thoảng cả thân thể cũng bốc mùi hôi nữa.
Sukehachi
là người giữ kho phiên trấn, những ngày phải vào phòng
việc trong thành thì chẳng nói làm gì, chứ hằng ngày từ
nhà đến thẳng kho ở ngoài bìa khu Sannomaru của thành, nghe
đâu anh ta chẳng buồn buộc tóc lên hay cạo râu nữa.
Thời bấy giờ, làm phim là hoạt
động rất thịnh hành. Từ khi học sinh trung học cấp ba ở
Tokyo đè bẹp tất cả các nhà làm phim tiền vệ độc lập
mà đoạt giải Grand Prix ưu tú nhất ở Đại hội Phim ảnh
Nghiệp dư, việc chế tác phim ảnh bắt đầu thịnh hành khắp
nơi. Ai cũng nghĩ làm phim là dễ dàng mà lại là phương
cách biểu hiện mũi nhọn nữa. Chuyện kỳ lạ thế nhưng
có thật đấy. Cả tôi lẫn Iwase lẫn Adama và cả mọi đứa
khác, mặc dù chưa hề xem một phim nào thuộc loại phim-dưới-hầm
do bọn người không chuyên nghiệp chế tác, thế mà cả bọn
đều ngưỡng mộ và mơ ước làm loại phim ấy. Không khác
gì dân Pháp dọc bờ biển Đại Tây Dương đã ngưỡng mộ
và mơ ước quân đội Mỹ mà họ chưa hề nhìn thấy bao giờ.
------->
Lady
Jane
(Redi.Je-n
/ Murakami Ryu)
Takane
bị sốc trong rạp chiếu phim tăm tối đó. Cứ nghĩ là để
cho con mình học thêm tiếng Nhật nên đã đưa con gái là Yuka
đi xem. Phim được chiếu là một hài kịch Nhật Bản dành
cho học sinh tiểu học như Yuka. Khách xem ngồi khoảng 60, 70%
sức chứa của rạp, quả thật đã cười vui thích. Takane
cũng cười lớn tiếng. Nhưng chừng 30 phút sau khi phim bắt
đầu, anh chợt để ý thời điểm mình cười và thời điểm
Yuka cười khác nhau, tuy chỉ chút ít thôi. Takane lấy làm lạ.
Dù sai biệt ấy không đến một nhịp thở, có thể nói chỉ
đâu chừng nửa nhịp thở mà thôi. Thoạt đầu, Takane ngờ
là ảo giác đấy, nên chăm chú nhìn hình chiếu, lắng tai
nghe, chờ lần cười kế tiếp. Khách xem oà lên cười. Hai
nhịp cười lệch nhau rõ ràng. Và Yuka lại cười vào thời
điểm sau, đúng lúc Takane đang cười nửa chừng. Takane kinh
ngạc, chăm chú nhìn Yuka xuyên qua khoảng tối mờ.
Nơi này là rạp chiếu phim Nhật
Bản ở một góc Little Tokyo, xóm người Nhật ở Los Angeles.
. Nguyễn Nam
Trân (biên dịch) : Để hiểu sâu sắc
văn hóa một nước, ta thường phải đọc những tác phẩm
kinh điển của họ. Ví dụ thông qua kịch Shakespeare là tiếp
cận được người Anh, đọc Faust của Goethe, có thể hiểu
được người Đức. Nếu đã yêu chuộng trà đạo, cắm hoa
thì cũng nên có kiến thức về văn học cổ điển như Man.yôshuu
để đào sâu về văn hóa Nhật Bản vốn đa dạng và không
phải hình thành chỉ trong một sớm một chiều.
. Phạm Thảo
Nguyên : Tam Điệp Sơn hay núi Ba Dội là dải núi đá
vôi phát xuất từ đầu dẫy Trường Sơn ra tới biển giữa
hai tỉnh Ninh Biønh và Thanh Hóa. Ngày xưa đường bộ thông
thương qua lại giữa miền Bắc và Châu Hoan vắt ngang qua đèo
Ba Dội Khi Tôn Sĩ Nghị mang đại quân sang chiếm nước ta,
quân Tây Sơn đang ở Thăng Long đã rút về đóng dài theo núi
Ba Dội liên kết với hải quân ở Biện Sơn. Ngày 30 tháng
chạp Tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung cùng đại quân tới
đây duyệt binh khao quân ăn Tết sớm, rồi thẳng đường
thần tốc tới Thăng Long đại phá quân Thanh tại trận Đống
Đa ngày 5 tháng giêng Kỷ Dậu.
. Laiquangnam
: Nam quốc sơn hà là một
bài thơ đã được dạy học tại các cấp lớp một hai tại
Việt nam từ xưa tới nay, ngay cả thời Pháp thuộc lớp đàn
anh chúng tôi cũng đã học bài này. Với bản phiên âm sai
tại ngay câu thứ hai mà thế hệ tôi bao đời nay đều thuộc
theo sách của cụ Dương Quảng Hàm. "Tiệt nhiên định
phận
tại thiên thư" đã làm giảm cấp tình tự dân tộc Lạc Việt
nhiều lắm!. Nay buộc phải gút lại cho đúng. Nhất là sách
giáo khoa và các trang mạng. Phần lớn người Việt có cắp
sách đến trường đều thuộc, có thể họ không hiểu hết
ý vì có các từ cổ và khí phách
người xưa nay không có sách vở nhắc lại, hoặc do vì trình
độ của quý thầy cô, hoặc do vì không có nhiều tư liệu
để tham khảo thêm.
(...)
Nay laiquangnam
xin viết lại, chuyện đúng sai mong Bạn đọc tự cho điểm
và tự nhận xét. Vấn đề là không phải để hơn thua, mà
là bài " Nam quốc sơn hà" nay cần phải giải quyết gấp những
tồn tại một cách dứt điểm, để mỗi khi "ai đó" cần
giới thiệu với người nước ngoài thì người giới thiệu
không hề bối rối và cùng vui với tiền nhân. Rất mong mọi
ý kiến phản hồi để chúng ta sang trang việc tranh luận này
và đi tìm một bản dịch khả dĩ có thể chấp nhận được
bởi trong gần một thế kỷ nay vẫn chưa có bản dịch nào
khiến chúng ta tạm hài lòng. Tam ngu thành hiền! laiquangnam
viết được, có ý kiến được, thì các bạn của tôi còn
làm giỏi hơn tốt hơn tôi 1000 lần. Mong lắm thay!
. Laiquangnam
: 01-Người đàn bà dưới đây của Nguyễn Du chính là
người vợ hiền đã khuất núi . Thương thay! Khá thương cho
những ai cùng tâm trạng với Nguyễn Du vì hoàn cảnh chiến
tranh, vì công vụ , vì tù tội, vì trốn lánh mà không thể
nào cầm tay vợ hiền nghe nàng dặn dò lúc nàng giã biệt
cõi đời. Bài thơ dưới đây viết trong bối cảnh khi tác
giả đứng bên dòng sông hoài niệm tại quê nhà , nhìn dòng
sông và nhớ đến người vợ hiền đã khuất núi tại quê
nhà của nàng .
Cụ Trần trọng Kim phê
Thôi Hiệu là nhà thơ mất nết trong tập thơ Đường của
cụ , do laiquangnam không đọc được vài giòng tiểu sử
tác giả nên không biết, tuy nhiên khi đọc bài thứ
hai của Trường can hành nhị thức thì thấy tác giả
quả đã mất nết "thiệt tình" , nói vui. Đọc thơ
nguyên tác bằng chữ Tàu thấy không hay bằng chữ Việt mình
Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương hoan hữu tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi
. Quỳnh Chi
:
Bán
nguyệt
Thùy
đoạn Côn Lôn ngọc
Tài
thành Chức Nữ sơ
Khiên
Ngưu nhất khứ hậu
Sầu
trịch bích không hư Hwang Jin Yi ( Hoàng Chân Y ?-1530? )Bán
nguyệt
Ai người
chạm ngọc Côn Lôn
Cho
nàng Chức nữ soi gương chải đầu
Chàng
Ngưu đi khuất đã lâu
Nàng
buồn quăng lược lên bầu thinh khôngQuỳnh Chi phỏng dịch
(9/9/2010)
Thơ
- Họa
. thy an :
hãy
tạc hình hài
bằng
những ngón tay thiên mộng
trong
những đêm như đêm nay
trời
giăng đầy sao
hãy
nhóm lên ánh lửa năm nào
bằng
bó củi đã ngủ quên
trên
tấm lưng trần ký ức
...
và những bước chân vội vã qua mau
--->
Đầu thu bên hàng dây
lá đỏ
. Bùi Thụy
Đào Nguyên : Đâu phải lúc nào tôi
cũng mơ
Sắp bày
câu chữ kết nên thơ
Chẳng qua
ngồi riết đâm ra quẩn,
Đành ngỏ
cùng xuân, chút cuối mùa. ... -----> Gửi
xuân
. Đỗ Đình
Tuân :Sau khi Thượng Đế tạo muôn
loài
Thượng
Đế nặn ra hai Con Người
Bỏ xuống
trần gian, cho hạt giống
Mặc tìm
cách sống, cách sinh sôi. -----> Tình
yêu và Thượng đế - Cùng
em về thăm Côn Sơn
. Nguyễn
Chính :Con lại về thăm Mẹ, miền
Trung
Biển vẫn
xanh, cát vẫn trắng một vùng
Cây phi lao
già vẫn oằn lưng trong gió
Vẫn nhập
nhòa bóng Mẹ đồng xa
Mẹ ơi!
Đã qua lâu
rồi thời bom đạn
Nắm khoai
khô chia lửa với trăm miền
Nay cát trắng
còn vùi bao khát vọng
Cuối chiều,
bếp lửa vẫn lom đom
. Trần
Hạ Tháp : Chim cu gù
Nắng loá
Bao ngày
qua còn sót bụi tre tàn
Tiếng gáy
lộ thiên
Mùa hạ
Lột da ngày
toát vỏ lá mo nang ----> Khô
hạn khúc thương quê - Trống
đồng vỗ tay
. Hoàng Hoa
: Tôi trở lại đây một chiều
nhạt nắng
Cây lao
xao mà người cũng lao xao
Vẫn thế
những cây bàng lá đỏ
Vẫn thế
đàn em ngoan
Ngồi trong
lớp học
Tay hờ hững
lần theo trang sách đọc
Mắt xa xăm
mộng ảo một thiên đường
Và
tâm hồn lang bạt những muôn phương ----> 30
năm trở lại - Tự tình
- Đêm nhớ Dalat
. Phan Bá
Thụy Dương :mùa mưa lần trước tôi
theo đơn vị
đến tiếp
thu vùng đất nhỏ điêu tàn
lối hẹp
làng em lầy lội dấu chân
những mái
tranh nghèo ôi sao cô tịch ----> lời
gọi cỏ may - cũng còn
kỷ vật
. Cát Hoàng
: Với T -- tháng sáu trời (không) mưa
Đêm chớm
thu về trong mắt khô
Ngô Đồng
giờ chắc đang thay lá
Khúc thanh
ca vời vợi và suốt trong
Ừ! Giai điệu
mưa nàng hát
Gam rề yêu
chết gí bờ môi
Ai nở buông
vàng rơi sông lệ
Đất ở
- người đi -- mưa đổ - tình mòn
Tôi là hạt
cát đời nung bỏng
Đợi gì
tháng sáu trời (không) mưa?
. Thanh
Thanh (thơ song ngữ) :Biết điều tốt/xấu
minh phân,
Loài người
khôn sáng nhờ ân E-Và.
Lõa-lồ
chớ lộ bày ra:
Ý-thức
nhân-loại từ bà phát-sinh.
Thế rồi
quan-điểm thành-hình
Bảo-thủ,
cấp-tiến nghịch tình với nhau .
Thủ-cựu:
huyền-thoại gối đầu;
Tiến-bộ:
thực-tế gồm thâu mọi bề. ----> Nhờ
ơn Eva - Quen thuôc
. Khaly Chàm
: người đi về phía bão giông
gót chân
thiếu nữ phiêu bồng nỗi đau
nén lòng
xám cánh cò chao
sông quê
cháy trụi bạc màu dấu chân
mặt trời
người cõng trên lưng
lời ru hóa
giọt lệ mừng sinh con ----> từ
nguồn chảy - từ
tái sinh...
. Tuyền Linh
: Nửa đêm choàng tỉnh mộng
Nghe Thu đang
cựa mình
Hơi Thu se
se lạnh
Trăng Thu
lạc bên thềm
Heo may về
lay động
Cây lá chẳng
ngủ yên
Vườn khuya
hoa cau rụng
Ngỡ ai đang
gọi thầm
----> Chớm thu - Mưa
. Hà Nguyên
Dũng : Tháng nằm trong bệnh viện ho
thương nên
roi vọt trời cho bệnh hoài
còi xe cấp
cứu xé tai
những cơn
rên kéo đêm dài thêm ra
tìm không
ra bệnh tình ta
tim đau từ
thuở tình xa đến giờ --------> Trong
bệnh viện Hồng Bàng
. Tạ Hùng
Việt : mùa từ mạch đất xanh lên
tuổi gieo
trong lọn tóc mềm loài ta
sợi tình
ẩn giọt mưa sa
ngõ vui soi
mảnh trăng nhòa cuối đêm
cuộc buồn
xếp lại thành tên
tin yêu in
dấu cỏ trên cát gầy
em như cánh
sóng cung mây
trôi trong
bảng lảng sương ngày đầu Đông
. GS
Ngô Bảo Châu nhà toán học VN giành được Huy chương Fields:
Ngô
Bảo Châu (sinh 15 tháng 11 năm 1972) là giáo sư toán học trẻ
nhất Việt Nam hiện nay, và nổi tiếng nhất với công trình
chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands.
Ông cũng
là nhà toán học đầu tiên của Việt Nam giành được Huy
chương Fields.
Tôi bắt
đầu học cùng Ngô Bảo Châu từ năm 1984 trong lớp chuyên
toán Trường THCS Trưng Vương, Hà Nội.
Tất cả
chúng tôi chẳng ai gọi bạn ấy là Bảo Châu cả. Châu được
gọi là Châu "Bò". Điều này có lẽ xuất phát từ gia đình.
Ông bà của Châu, bác Cẩn, cô Hiền, cậu Hòa đều gọi là
Bò.
Những năm
đó, sự học có lẽ là đang phát triển ở giai đoạn cực
thịnh. Chúng tôi được học các lớp chuyên ngay từ cấp
1. Con trai mà "oách" là phải học chuyên Toán. Hà Nội ngày
đó chỉ có 4 quận nên lớp cấp 2 cũng chỉ có 4 lớp chuyên
toán, tương ứng với 4 quận.
.
Giới thiệu nhạc :
. Nguyễn
Văn Chính : Bài
ca Hải Quân Việt Nam Anh Hùng
/ Bài
ca Hoàng Sa - Trường Sa /
Làng bậm ơi
. Nguyễn
Văn Chính - Bùi Minh Quốc - Nguyễn Hữu Phước : Ầm
ầm sóng dậy Hoàng Sa - Trường Sa
. Nguyễn
Văn Thơ : -
Khi
sóng xa bờ (Thơ Tuyền Linh/Quỳnh
Anh ) / - Gửi
lại cho em (Thơ : Tuyền Linh/cs
: Minh Xuân )
. Giới
thiệu sách : . Trương Bửu Lâm:
- A
Story of Viet Nam ( sách tiếng
Anh / ghi lại lịch-sử nước Việt-Nam từ đời Lạc Long Quân
cho đến đầu thế-kỷ 21) |