Có một
hôm tôi "trốn nhà" đi uống cà phê. Bà xã tôi thì luôn
miệng chê bai thú vui này, dựa theo các lý lẽ sau: Uống
cà phê tại nhà 1/ "không tốn tiền", 2/ "ngon không kém
cà phê tiệm". Phản biện lại lập luận nêu trên, tôi
đưa các ra lý do: 1/ "không tốn tiền" thì chắc chắn
là sai, vì chúng ta trước đó phải chi tiền mua cà phê,
đường, sữa v.v. rồi còn phải nấu nước sôi, uống
xong lại phải rửa tách v.v. rốt cuộc tốn kém bao nhiêu
thứ. Dĩ nhiên "không tốn tiền" chỉ là lối nói co
giãn dây thun của người Việt chúng ta, tưởng "dậy"
mà không phải "dậy". 2/ "ngon không kém cà phê tiệm" là
chủ quan, tranh cãi về ăn uống nói chung đã khó, tranh
cãi về cà phê lại còn khó hơn trăm vạn lần, người
thích cà phê đen, người thích uống có đá lạnh, người
thích có tí sữa, thậm chí cà phê cứt chồn ... Rốt
cuộc "sư nói sư phải vãi nói vãi hay". Bà xã tôi vẫn
ôm niềm tin sắt đá về cà phê tại gia và bao nhiêu niềm
tin khác mà tôi không chia sẻ. Như thường lệ để giữ
hòa khí, tôi đành ngậm miệng ăn tiền chẳng dám cãi.
Thú thật với quý bạn
đọc, cũng nhờ "trốn nhà" đi uống cà phê tiệm, vô
tình nghe lóm được một mẫu đối thoại gây ấn tượng,
mà tôi mới bể óc bùn là mình quá dốt, nên tự
hứa với lòng, sẽ phải tìm hiểu học hỏi thêm. Cái
hôm đẹp trời, ngồi nhâm nhi tách cà phê đen đúa như
tâm hồn mình, ở bàn sát bên cạnh có 2 chú đã vượt
lứa tuổi "nhóc", trạc 16, 17 - vóc dáng Á châu, nhưng
chắc sinh ra hay lớn lên tại Canada, vì nói tiếng Anh còn
nhuần nhuyễn hơn nhiều người dân bản xứ. 2 chàng
này đúng là bạch diện thư sinh, nước da trăng trắng,
mắt gần như một mí, chỉ có thể là Hàn, Nhật, Trung
quốc hay gốc Việt? Vốn liếng Anh ngữ ba rọi, tôi chỉ
nghe loáng thoáng câu mất câu còn, cuộc bàn luận hăng
say sùi bọt mép về một đề tài triết học vừa cụ
thể, vừa trừu tượng. Tôi tức lộn ruột, thầm hỏi
lòng tại sao 2 thằng "nửa tây nửa ta" (hơi bị kỳ thị)
hỉ mũi chưa sạch, mà ăn nói bài bản, kê giường chiếu
tủ bàn chỗ nào đúng chỗ đó. Còn phận mình, trên
đầu 2 thứ - thậm chí chẳng còn bao nhiêu tóc - thế
mà ấm ớ hội tề, lắm khi một chữ ê a mãi vẫn
chưa xong. Nhưng xin cho phép tôi được tạm ngưng câu chuyện
này ở đây, và sẽ tiếp tục bàn trong những lần tới.
Tần ngần ngồi nán lại tiệm cà phê ít lâu rồi quay
về nhà, lập tức tôi lên ngay chương trình lục lọi
sách vở, truy lùng mạng internet để mong tìm hiểu thêm
về triết học.
Vào giữa thập niên những
năm một nghìn chín trăm đã lâu, là học sinh Đệ nhất
ban B, tôi được làm quen với môn Triết, mỗi tuần tổng
cộng 2 hay 3 tiếng? Học sinh thời ấy, nhất là dân ban
C, chắc đứa nào cũng có trong cặp 2 cuốn "Luận Lý
Học" và "Đạo Đức Học" của giáo sư Trần
Đức Huynh và Trần Văn Hiến Minh. Triết là
món khó nuốt, học sinh vào lớp mặt mày lúc nào cũng
lên gân như người táo bón. Lại đúng vào những giờ
trưa nắng hè Sài Gòn, trán lấm tấm mồ hôi, giọng
thầy lên bổng xuống trầm, xen kẻ tiếng phấn tách
tách cà lên bảng đen, đôi khi - không chỉ mình tôi - mà
cả lớp rơi dần vào giấc Nam Kha. Sau một năm học Triết,
tôi chẳng hiểu gì ráo trọi. Thi Tú Tài II điểm Triết
quá bết, cũng may các môn Toán, Lý, Hóa kéo lại nên
đủ "vinh quy bái tổ". Thế nhưng người thầy đáng quý,
thật tiếc là tôi quên tên - khốn nạn thay đứa học
trò vô ơn - đã giúp tôi hé mở cánh cửa dẫn vào
một căn phòng đầy bí ẩn. Tôi chỉ còn nhớ thầy
đi dạy học bằng chiếc xe mô-bi-lét xám, xịt khói thả
ga khi chui qua cổng trường, quần tây màu xanh đậm có
2 pli phía trước, áo trắng phẳng phiu mà học trò hay
gọi là "giặt ủi hấp tẩy nỉ sẹt" hình như đã sờn
cổ tay, trước ngực lủng lẳng cà-vạt. Trong căn phòng
mờ mờ nhân ảnh đó, thấp thoáng đôi lần xuất hiện
một cụ ông người Hy Lạp cổ đại, sống từ 400 đến
500 năm trước Công nguyên, cụ Socrates, cũng như ông Tây
René Descartes sống giữa thế kỷ XVII ... Nhưng biết đâu
cũng từ căn phòng này, vào cuối thập niên 1930, nhà
thơ Nguyễn Bính thường nhìn lén sang nhà cô hàng
xóm và lẩm bẩm một mình:
Nhà nàng ở cạnh nhà
tôi
Cách nhau cái giậu mồng
tơi xanh rờn
Hai người sống giữa
cô đơn
Nàng như cũng có nỗi
buồn giống tôi
...
Tôi chiêm bao rất nhẹ
nhàng
Có con bướm trắng thường
sang bên này
...
(Người Hàng Xóm)
Không nhìn lén được cô
hàng xóm thì ông thi sĩ này lại quay ra nhìn trời nhìn
đất rồi tự hỏi bâng quơ:
Cỏ đồi ai nhuộm mà
xanh
Áo em ai nhuộm mà anh
thấy chàm
Da trời ai nhuộm mà lam
Tình ta ai nhuộm ai làm
cho phai
...
(Vì Ai)
"Người Hàng Xóm"
và "Vì Ai" là dăm tiếng thì thầm bay bổng
như tơ trời, nhưng quyện lẫn trong những gì mong manh
như thế ấy, vẫn là các câu hỏi chắc nịch chạm vào
cốt lõi của triết học: bản thể, hiện hữu, tồn
tại, nhận thức v.v. Tuy nhiên tôi xin phép tạm biệt ông
Nguyễn Bính, hẹn tái ngộ một dịp sắp tới, để
trở lại thực tại khô khan. Không ít người trưởng
thành, đến khi bắt đầu học một ngoại ngữ, mới
vỡ lẽ ra rằng, nói tiếng mẹ đẻ, chúng ta không chỉ
dùng mồm dùng lưỡi, phát âm ra câu ra chữ theo thói
quen, mà cái đầu đã áp dụng văn phạm hay ngữ phạm
- không tự giác. Cũng như không ít trong chúng ta hay nhìn
Triết học một cách xa lạ dửng dưng, một cái gì đó
chung chung trừu tượng, thậm chí là cực hình, vô bổ,
chỉ dành riêng cho những "phi-lô-dốp" óc não có vấn
đề, suốt ngày nhăn trán cau mày đăm chiêu, đeo kính
cận dày cộm, ưa sống lập dị.
Nếu tôi nhớ không lầm,
văn hào người Ý Giovanni Guareschi (1908-1968), từng
ví von đại khái như sau: "Triết gia là những vị nha
sĩ, chỉ thích khoan, đục lỗ trong miệng thế gian, nhưng
ai yêu cầu họ trám chúng lại thì các vị ấy cứ lờ
đi." Ông là cha đẻ các tiểu phẩm hài bất hủ xoay
quanh nhân vật giả tưởng, vị linh mục Công giáo Don Camillo,
được quay thành phim vào đầu thập niên 1950. Quý bạn
đọc nào muốn biết thêm về nhân vật hư cấu này,
qua diễn xuất của tài tử mặt ngựa Fernandel Pháp, từng
chiếu tại Sài Gòn, nói tiếng Pháp, xin vào xem ở Youtube
theo đường dẫn sau: Le
petit monde de Don CAMILLO/Thế giới nho nhỏ của cha Don Camillo).
Cũng xin được lạc đề tí tị, phổ biến ở Ý và
Tây Ban Nha, một trong những cách nói thông thường, Don
là tước hiệu dành cho linh mục, giáo sĩ, cấp trên
và cho cả người danh gia vọng tộc, không phải tên cha
sinh mẹ đẻ. Nhân vật hư cấu Don Juan (Tây Ban Nha) và Don
Giovanni (Ý) là thí dụ tương tự.
Thực tế là Triết học,
hay nói đúng hơn, triết lý sống, hầu như quán xuyến
mọi suy nghĩ, mọi hành động con người. Từ bao nhiêu
ngàn năm qua, đã có quá nhiều sách vở, tranh luận
về triết học, nhưng vì chủ yếu do người viết bài
không đủ kiến thức và khả năng chuyên môn, chẳng dám
múa rìu qua mắt thợ, nên xin miễn bàn sâu. Chỉ xin đưa
một vài ý kiến chủ quan. Nếu quý vị lướt lướt
tới những dòng chữ này mà vẫn còn muốn đọc tiếp,
mặc dù đáy lòng rộn lên bao tiếng ngờ vực: "... lảm
nhảm, dông dài, viết lung tung chẳng đâu ra đâu. Bản thân
mình sẽ phải đầu tư thì giờ cố tìm hiểu (thêm)
Triết học, chứ chẳng nên phí thì giờ với bài của
nợ này", thì coi như tôi đã thành công. Ai từng chia
sẻ tâm tình với thiên hạ, thường sợ nhất là trường
hợp tha nhân sau khi đọc xong cảm thấy dửng dưng, chẳng
còn nhớ là đã đọc cái gì. Cái sự dửng dưng này
còn đáng sợ hơn là khi người viết nhận các câu
chê bai phê bình cụ thể, qua đó tác giả còn có thể
rút ra được bài học, mình sai sót chỗ nào, thiếu
sót chỗ nào v.v. Bởi thế cụ Tuân Tử, nhà tư tưởng
lớn thời Chiến Quốc, đã phán: "Người chê ta
mà chê phải là thầy ta. Người khen ta mà khen phải là
bạn ta. Những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của
ta vậy"
Có ai hỏi bạn Triết học
thì mắc mớ gì tới cuộc sống, có mài ra mà ăn được
không? Tựa đề bài viết này là "Qua ngõ nhà cụ
Kant, u đầu vì va chạm triết học nhập môn". Viết
cho nó nổ lốp bốp như vậy chứ cái mặt tôi, dù
muốn tìm thầy học đạo, có đến nhà cụ Kant thì
cũng sẽ bị cụ xịt chó berger Đức ra cắn, đuổi chạy
có cờ. Nhưng biết làm sao, con đường dẫn đến chân
lý không khi nào đơn giản. Triết gia cộm cán người
Đức Immanuel Kant (1724-1804), một hôm đẹp trời ngồi
tính sổ cuộc đời, đã tóm gọn mọi ray rứt của cá
nhân ông hàng chục năm qua, trước tiên thành 3 câu hỏi
đơn giản như sau: "1- Was können wir wissen?/Chúng ta có
thể biết gì? 2- Was sollen wir tun?/Chúng ta nên làm gì? 3- Was
dürfen wir hoffen?/Chúng ta có quyền hy vọng điều gì?".
Thế kỷ XVIII, khi các tác
phẩm của Kant xuất hiện, mặc dù chỉ là công trình
của một cá nhân duy nhất, đã như tiếng sấm vang dội,
vượt qua biên giới nước Đức thời ấy (Vương quốc
Phổ) thúc đẩy Triết học phương Tây phát triển đến
đỉnh cao và bước ngoặt mới. Chúng lập tức biến thành
hòn đá thử vàng, đề tài nóng bỏng trên vũ đài
tranh luận Triết học. Bạn bè và cả những đối thủ
của Kant về mặt tư tưởng, ai cũng phải lên tiếng, nếu
không muốn bị xem là tụt hậu, khen chê đều đủ cả.
Kant quả là một ông khổng lồ về nhiều phương diện.
40 năm trời ông bán cháo phổi, từ những lớp riêng
tại gia cho 1, 2 học sinh, đến các giảng đường đại
học đông kín người, không chỉ dạy về Luận Lý học,
Siêu Hình học, mà còn cả các bộ môn Khoa học như Toán
Vật Lý, Địa Lý, Nhân Chủng v.v. Chưa bao giờ rời chân
khỏi nơi chôn nhau cắt rốn - suốt đời chỉ quanh quẩn
ở Königsberg và các vùng phụ cận - thế nhưng cụ Kant
nhà mình, nhờ chịu khó tìm hiểu, đọc nhiều sách
vở, quyến rũ người nghe một cách kỳ lạ, khi ông kể
chuyện về những đất nước, dân tộc xa lạ. Nói chung,
Kant là một hiện tượng khó lý giải. Chỉ nhìn dáng
dấp bề ngoài và cuộc sống "một ngày như mọi ngày"
thiếu hẳn những bước thăng trầm của ông, người ta
khó biết được ẩn hiện đàng sau đó là cả một
hỏa diệm sơn sôi sùng sục. Kant thiếu sức khỏe từ
bẩm sinh, dáng người mảnh khảnh, vai cao vai thấp. Tự
giác về thể trạng mình, ông ta đặt ra những điều
lệ căn bản cho cuộc sống, quyết tâm theo đến tận
cùng, nên đạt tuổi thọ 80 năm. Và qua đó để lại
hậu thế những tác phẩm kinh điển quý giá không bút
mực nào tả xiết.
Heinrich Heine (1797-1856), một
trong những nhà thơ Đức, mở mắt chào đời sau Kant
chừng 70 năm, nhận định về vĩ nhân này với những
dòng chữ không mấy hoan hỉ: "Khó mà miêu tả chính
xác lịch sử và cuộc đời của Immanuel Kant, vì ông ta
không có cuộc đời cũng như lịch sử." Quả thật, cuộc
sống ông ta như một chiếc đồng hồ quả lắc không
chệch giờ. 5 giờ: thức giấc, ăn sáng nhẹ bụng, đọc
sách, nghiên cứu, viết lách, chuẩn bị giáo án v.v.
7-9 giờ: dạy học ở trường. 9 đến 1 giờ trưa: đọc
sách, nghiên cứu, viết lách, chuẩn bị giáo án v.v.
Sau đó vừa ăn trưa (bữa ăn độc nhất trong ngày, thường
kéo dài hơn 2 tiếng) vừa thảo luận đủ mọi chuyện
trên trời dưới đất với bạn bè, nhưng đa số không
phải triết gia, học giả. Đúng 3 giờ rưỡi chiều, hàng
xóm có thể lên lại dây cót đồng hồ khi thấy Immanuel
Kant mở cửa bước ra khỏi nhà.
|
Hình biếm họa: Lampe
xách ô che cho Kant lúc đi dạo,
trích từ "Lampe und sein
Meister Immanuel Kant/tác giả Antje Herzog"
|
Xuân hạ thu đông ông vẫn
khoác áo dạ, tay cầm ba-toong, thủng thẳng nhắm hướng
con đường Lindenallee tiến bước (về sau người ta đặt
tên nó là "Con đường triết gia"). Ông đi tới đi lui
tổng cộng đúng 8 lần, không hơn không kém. Nếu trời
u ám, mây giăng mù báo hiệu cơn mưa, lão Lampe, người
hầu tín cẩn vội vã xách dù bám sát gót chân chủ.
Dạo xong quay về nhà, Kant lại lui vào thư phòng đọc sách,
nghiên cứu, viết lách, chuẩn bị giáo án v.v. đúng
10 giờ đêm tắt đèn đưa gà về chuồng. Đó là sơ
lược thời khắc biểu hằng ngày của cụ Kant.
Đã từ lâu công ty Google
tìm cách thúc đẩy kế hoạch số hóa mọi quyển sách
trên thế giới. Sau quá trình xác định tiêu chuẩn, tháng
8 năm 2010, thống kê cho ra kết quả: cần phải số hóa
chừng 130 triệu đầu sách. Không biết trong 130 triệu
này có mấy triệu quyển viết về Immanuel Kant? Chỉ
biết rằng khi chúng ta vào mạng Google dùng từ khóa "Immanuel
Kant" để tìm kiếm, kết quả trên 27 triệu sách báo,
bài viết v.v. Thế nhưng lão Lampe, người quản gia theo
hầu Kant 40 năm trời, và qua đó đã gián tiếp giúp
Kant để lại nhiều đứa con tinh thần tuyệt vời cho
hậu thế, lại rất ít được nhắc đến. Trong cảnh
ngộ đó, bài viết sắp tới, ngoài chủ đề Triết
học và Kant, cũng sẽ có đôi dòng về nhân vật Lampe
này. Xin quý bạn đọc đón xem.
(còn tiếp)
Tài liệu tham khảo: Kleine
Weltgeschichte der Philosophie/Hans Joachim Störig
Khả
Tri