(tiếp
theo phần I )
Voltaire: "Those who can
make you believe absurdities can make you commit atrocities." Ai khiến
bạn tin vào những điều phi lý, có thể xúi dục bạn gây
tội ác.
Trong phần I của bài này,
người viết đã nhắc đến các cụm đề tài như sau:
- Cố Tổng Giám mục Ái
Nhĩ Lan James Ussher, dựa vào Thánh Kinh mà tính ra ngày
Chúa Trời tạo dựng vũ trụ là 23-10 năm 4004 BCE/trước
công nguyên. Cụ Ngô Đình Diệm lúc đang là Thủ Tướng,
vào năm 1955 vô tình? chọn 23-10 làm ngày Trưng cầu dân
ý truất phế Bảo Đại để chuẩn bị đưa mình lên
chức vụ Tổng Thống nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt
Nam.
- Ziony Zevit vị giáo sư nghiên
cứu về Thánh Kinh ở Mỹ, đưa ra giả thuyết: Giê-hô-va
Đức Chúa Trời thay vì lấy xương sườn, đã lấy "xương
dương vật/baculum" từ cụ A-đam để tạo ra bà Ê-va!
- Đề tài hiếu thảo và
tình yêu cha mẹ con cái, quan hệ vua tôi thông qua các thí
dụ sau: 1/ Stephen Gough "gả dạo chơi trần truồng" ở Anh,
hy sinh tự do cá nhân để có thể chăm sóc mẹ già.
2/ Chọn lựa giữa tình mẫu tử và lòng yêu nước,
với lý luận của triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre. 3/
Quách Cự trong Nhị Thập Tứ Hiếu, nhà quá nghèo nhưng
thương mẹ già, quyết định chôn sống con trai nhằm giảm
bớt miệng ăn để đủ điều kiện nuôi mẹ. 4/ Dịch
Nha trong Đông Chu Liệt Quốc, làm thịt con trai dâng Tề Hoàn
Công thưởng thức, hòng mưu cầu lợi ích riêng tư.
Nhân tiện đây xin được
nêu câu chuyện "râu ông nọ cắm cằm bà kia". Tình cờ
"lướt sóng" đi tìm tài liệu trên mạng, người viết
phát giác ra một câu danh ngôn nổi tiếng mà không ít
người Việt chúng ta (kể cả người viết bài) hay gán
ghép cho cụ Voltaire "I disapprove of what you say, but I will defend
to the death your right to say it." Tôi không đồng ý với điều
anh nói, nhưng tôi sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ
quyền anh được nói điều đó. Thật ra tác giả là
bà Evelyn Beatrice Hall, thường viết xã luận dưới bút
hiệu S. G. Tallentyre. Câu danh ngôn thứ hai, tuy rằng ít phổ
biến hơn, của Ralph Waldo Emerson, cũng bị trao nhầm cho Voltaire:
"The
religion of one age is the literary entertainment of the next." Tôn giáo
của thời đại này là nền văn học giải trí của thời
đại tiếp theo. Rõ thật sướng cái thân cụ Voltaire
nhà ta. Hy vọng câu danh ngôn nằm ở đầu bài này "Those
who can make you believe absurdities can make you commit atrocities." Ai
khiến bạn tin vào những điều phi lý, có thể xúi dục
bạn gây tội ác. là của ông ta thật sự. Nhưng thôi
xin được tạm từ giã cụ Voltaire để quay lại các chủ
đề chính.
Đầu thế kỷ XIII, Frederick
đệ nhị, Hoàng đế trị vì Đế quốc La Mã Thần Thánh
đã thực hiện một cuộc thí nghiệm quái đản. Nhiều
trẻ sơ sinh mới lọt lòng mẹ liền bị bắt đi cách ly
ngay. Tuy các em được bà mụ ngày ngày chăm sóc, nhưng
nựng nịu, trò chuyện thì tuyệt đối cấm. Nhà vua
hy vọng qua đó, các em vẫn giữ được thứ ngôn ngữ
cội nguồn của con người, thứ ngôn ngữ mà Đức
Chúa Trời đã dùng để trò chuyện với A-đam và Ê-va
trong vườn Địa Đàng. Nhưng sau một thời gian sống thiếu
điều kiện phát triển bình thường, các trẻ sơ sinh
xấu số biến thành những đứa bé chẳng biết nói,
dở hơi, chết sớm hay sống suốt đời tàn phế về
mặt tâm thần.
Dù sao đó là chuyện xảy
ra thời Trung cổ. Vài trăm năm sau, một số các nhà
nghiên cứu thần học vẫn chưa chịu tha cho cụ A-đam, họ
tiếp tục lôi ông cụ ra làm đề tài tranh luận để
bảo vệ niềm tin tuyệt đối vào Thánh Kinh. Một trong
những câu hỏi làm tốn khá nhiều "bút mực": A-đam
có rún hay không? Đối với những ai tin tuyệt
đối vào từng câu từng chữ trong Thánh Kinh, câu hỏi
này ngầm chứa một mâu thuẫn rất quan trọng? Nếu
cụ A-đam và bà Ê-va không có rún, họ không phải là
con người tuyệt hảo. Nếu họ có rún, cũng đồng nghĩa
với việc họ đã được sinh ra từ bụng mẹ như bất
cứ bao con người bình thường khác, điều này trái
ngược với Thánh Kinh.
Vào đầu thế kỷ XVI (1508-1512),
với tác phẩm vĩ đại vẽ trên trần nhà nguyện Sistine,
thánh đường Vatican, thiên tài hội họa Michelangelo rõ ràng
đã chấm cho cụ A-đam một cái rún trên bụng. Và dĩ
nhiên chúng ta có thể suy luận là cụ A-đam có rún,
vì bức tranh này mặc nhiên phải được Toà thánh Vatican
công nhận. Cũng từ đó, đa số các họa sĩ làm theo
đơn đặt hàng về đề tài rút từ Thánh Kinh, đều
theo bài bản này mà phóng bay, phóng cọ không sợ phạm
thượng.
Nguồn:
Michelangelo, The Creation of Adam, Chúa truyền sự sống cho
Adam.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/5b/Michelangelo_-_Creation_of_Adam_%28cropped%29.jpg
Tuy nhiên miệng tiếng thị
phi, nhất là những bộ óc sáng tạo, luôn luôn ngọ ngoạy
không chịu nằm yên, sau khi quan sát kỹ bức tranh đã đưa
ra nhiều ý kiến. Có nhà phê bình hội họa khẳng định
rằng: Michelangelo - rất giỏi về lý thuyết cấu tạo
cơ thể - đã cố tình đưa vào tác phẩm nhiều ẩn
dụ, để tranh luận với tư tưởng thống trị của Tòa
Thánh. Thí dụ: nền bức tranh màu trắng ngà với những
đường vân tinh vi chính là cách mô tả não bộ con người
trần thế? Chiếc áo khoác màu đỏ phủ quanh Đức Chúa
Trời có hình thù tử cung phụ nữ? Chiếc khăn quàng
màu xanh lá cây là họa pháp biểu tượng cho sợi nhau
vừa mới cắt? Tuy vậy đó chỉ là những câu hỏi cắc
cớ của các nhà phê bình nghệ thuật, nhưng không thấy
họ đưa ra trả lời thỏa đáng, thuyết phục. Các nhà
bình phẩm hội họa trường phái chính thống thì lại
mặn mà với một đề tài khác tiềm ẩn trong bức
tranh: Ngón tay của cụ A-đam và ngón tay của Đức Chúa
Trời có chạm vào nhau? Đa số khách du lịch, đứng
từ sàn nhìn lên trần nhà nguyện xem lướt lướt,
đều tin rằng 2 ngón tay chạm nhau! Nhưng nếu chúng ta quan
sát kỹ, sẽ thấy có một khoảng cách nho nhỏ. Các sử
gia nghiên cứu hội họa đều có những bài viết phân
tích cái khoảng cách tuy nho nhỏ nói trên, nhưng để lại
ấn tượng vĩ đại trong tâm trí con người. Tuy nhiên
tôi xin được bàn đến đề tài này trong một dịp
khác.
Xin được trình thêm một
câu chuyện chỉ gián tiếp liên quan đến cụ A-đam qua
xương sườn, hay xương dương vật của cụ ta: việc sinh
con đẻ cái. Như bạn đọc biết, y khoa đã tiến những
bước dài, giúp tăng khả năng sống còn cả mẹ lẫn
con, trong tiến trình mổ bụng lấy thai nhi, tức Caesarean
section, gọi tắt là C-section. Giai thoại kể rằng bà Aurelia
mẹ của Julius Caesar rất tin tử vi. Sau khi có bầu bà
liền vấn kế chiêm tinh gia, xem giờ giấc thích hợp
để sinh con mạng đế vương. Có ngày lành tháng tốt
rõ ràng, bà chờ đến đúng thời điểm liền yêu
cầu bác sĩ mổ bụng mình, lôi cổ Julius Caesar ra ngoài.
Từ đó người ta gọi phẫu thuật mổ bụng mẹ lấy
thai nhi là Caesarean section.
Đây rõ ràng là huyền thoại
vì vào thời xa xưa ấy, đại đa số các ca mổ như
trên, chủ yếu là thí mẹ cứu con, đều dẫn đến
hậu quả trái ngược hoàn toàn với mẹ tròn con vuông.
Mẹ tử vong là quy luật, còn thai nhi sống sót cũng là
chuyện hiếm hoi năm thì mười họa. Thế mà Julius Caesar
(và cả bà mẹ) vẫn sống phây phây đến tuổi già
thì không đáng tin cho lắm. Dù sao thì tình nghĩa mẹ
con vẫn cao hơn núi rộng hơn biển (và chắc ít nhiều
cộng thêm lòng ham muốn danh vọng, quyền lực cá nhân)
khiến bà mẹ sẵ)̃n sàng hy sinh mạng sống cho con mình.
Quả thật Julius Caesar sau này đi vào lịch sử, không chỉ
với tước hiệu Dictator perpetuo (Nhà Độc tài trọn
đời), Quốc phụ v.v., tên riêng ông còn được dùng làm
danh hiệu Hoàng đế nói chung.
Nguồn:
Fictional 15th-century depiction of the birth of Julius Caesar/
Tranh thế
kỷ 15 hư cấu về sự ra đời của Julius Caesar. https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/2/2c/Birth_of_Caesar.jpg
Huyền thoại nói trên là
một trong hàng trăm ngàn thí dụ về sự quyết tâm (mà
đôi khi điên rồ) của con người, sẵ)̃n sàng hành động
dựa vào tình thương, thậm chí tôn giáo, niềm tin, lý
tưởng để đạt mục đích "cao xa". Thời hiện đại,
bọn khủng bố tự sát dùng danh nghĩa Hồi giáo là
thí dụ điển hình. Chúng ta cũng đã thấy nó thấp
thoáng xuất hiện với dụ ngôn Quách Cự trong Nhị Thập
Tứ Hiếu.
Để tạm ngưng các câu chuyện
liên quan đến cụ A-đam, người viết bài xin đưa ra một
số tài liệu vô tình tìm thấy trên mạng (hoàn toàn
ngẫu nhiên), theo đường liên kết sau: (https://www.gotquestions.org/Viet/nhung-adam-eva.html)
"A-đam và Ê-va có lỗ rún/rốn không? Lỗ rún được hình
thành bởi dây rốn dùng để nối kết em bé trong tử cung
với mẹ của nó. A-đam và Ê-va đã được tạo dựng nên
trực tiếp bởi Đức Chúa Trời, nên đã không phải trải
qua quá trình được sinh ra theo cách thông thường. Vì vậy,
rất có thể là A-đam và Ê-va đã không có lỗ rún." Một
trang nhà khác chuyên bàn luận về Thiên chúa giáo, Sách
Khải Huyền/revelation.co thì kết luận: cụ A-đam chắc
không có rốn, nhưng nhiều khả năng có núm vú, và tinh
hoàn.
Thiên
sứ ngăn cản Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac.
(Hiến
tế Isaac, do Rembrandt vẽ).
Nguồn: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4f/Rembrandt_Harmensz._van_Rijn_035.jpg
"Bước thêm bước nữa",
xin được trích câu chuyện tổ phụ Abraham sẵ)̃n sàng
hiến tế con trai Isaac để chứng minh đức tin và sự
phục tòng tuyệt đối với Thượng Đế. Kinh Cựu
Ước, Sáng Thế Ký đoạn (22:1-19) ghi rõ ": ... Đức
Chúa Trời phán rằng: ‘Hãy đem con của ngươi, đứa con
một yêu dấu của ngươi là Y-sác, hãy đi đến xứ Mô-ri-a
mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi
Ta sẽ chỉ cho.’ Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham
dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Y-sác con ông lại,
và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Áp-ra-ham
đưa tay ra cầm lấy dao để hiến tế con mình. Nhưng sứ
thần của Chúa từ trời gọi ông: ‘Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!’
Ông thưa: ‘Dạ, con đây!’ Người nói: ‘Đừng giơ tay hại
đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ
kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một
của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!’ Ông Áp-ra-ham ngước
mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc
sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy
mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình...". Chú thích:
câu chuyện Abraham hiến tế con trai với nội dung tương
tự cũng xuất hiện qua hình ảnh cụ Ibrahim trong Thánh
Thư Koran của Hồi giáo (37: 99-111).
Xin quý vị bình tâm đọc
kỹ lời dạy nói trên vài lần, và suy nghĩ về ý nghĩa
nhân văn đạo lý tốt đẹp nào dành cho người trần
mắt thịt thời hiện đại (tôi xin nhấn mạnh
thời
hiện đại), lồng trong đoạn Kinh Thánh nói trên. Người
viết bài tự vấn óc não mãi không ra, cố tìm tòi
để học hỏi và xin được trích ra đây lời suy niệm
từ mạng Internet:
.. "B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15
Theo nghiên cứu, người ta
thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh
hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên.
Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc
về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc
phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu
chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời
nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.
Thiên Chúa đã hứa với
Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao.
Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh
ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người
con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được
giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho
ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển ?
Abraham tiến thoái lưỡng
nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải
trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực
đức tin mà thưa "Xin vâng" với thánh ý Chúa. Ông đã
làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù
Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa..
Đức
tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền
sau đó." ...
Người viết bài, xin được
khẳng định bản thân không phải là nhà nghiên cứu lịch
sử, thần học, mà chỉ có một ít kinh nghiệm sống,
một ít "kiến thức" tối thiểu và vớ vẩn về khoa
học, nên tự mạo muội gạch dưới 2 câu Ông đã
làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng và
Đức
tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền
sau đó. Thú thật khi vừa đọc xong 2 hàng chữ
trên, phản ứng đầu tiên của tôi bao gồm cả căm giận
lẫn kinh hoàng, (mong tác giả bài TÌM HIỂU LỜI CHÚA,
cũng
như quý bạn đọc thứ lỗi cho) nhưng ngay sau đó tôi nghĩ
mình có thể đã sai lầm trong cách "ứng xử", bởi
vì câu chuyện trên đây không đơn giản. Tôi cố vặn óc
ra nước, nhưng vì dốt nát, thiếu kiến thức, nhất
là đức tin, nên không tài nào hiểu được một người
cha bình thường như bao người cha khác, lại dự tính
thí mạng con cái mặc dù nó chẳng gây ra tội ác nào
cả, chỉ vì đức tin, trao đổi lời hứa được trở
thành tổ phụ của một dân tộc lớn lao, thì hành động
đó
trên cả mức độ anh hùng ở cái
chỗ nào? Sẵ̃n sàng giết, thay vì bảo vệ con mình,
mà Abraham lại được phần thưởng liền sau đó,
và trở thành một biểu tượng, tấm gương sáng về
đức tin và lòng tuân phục, cho hàng tỉ người? Sau khi
bình tâm suy xét, tôi cảm thấy bản thân nên có cái nhìn
"cởi mở" hơn? với những câu chuyện mang tính dụ ngôn
xuất hiện vài ngàn năm trước, xem như mình đang đọc
cổ tích, thần thoại!
Tuy nhiên "cởi mở" với
nội dung các dụ ngôn, cổ tích, thần thoại v.v. không
đồng nghĩa với việc chấp nhận lối "ăn theo, nói
theo, nói lấy được" tâng bốc lên tận mây xanh, hành
vi đạo đức mà thời nay coi chẳng được con mắt chút
nào! Nhưng đọc thêm phần đầu của bài suy niệm nói
trên thì tôi mới "bể cái óc bùn của tôi" theo đúng
cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: "... Chúng ta sẽ không
hiểu tại sao lại có những thử thách ấy ! Chúa không thương
yêu chúng ta sao ? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước
ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời
mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chúa, Ngài sẽ
lo liệu, ...".
Xin để bạn đọc tự suy
nghĩ, tôi chỉ xin gạch dưới câu Không thắc mắc,
chúng ta hãy bắt chước ông Abraham. Dụ ngôn Abraham
trong
Kinh Cựu Ước, Sáng Thế Ký, có thể phù
hợp để răn dạy một cộng đồng người (Do Thái cổ)
sống trước đây vài ngàn năm. Chúng ta có thể và
rất nên tiếp tục tranh luận đúng sai, ý nghĩa, tình
huống, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dụ ngôn nói
trên. Cha mẹ giáo dục con cái chưa quá 2, 3 tuổi, vì trẻ
chưa đủ khả năng suy luận phức tạp, gặp hoàn cảnh
liên quan đến mạng sống các em, chẳng đặng đừng phải
sử dụng mệnh lệnh, không giảng giải chi tiết, không
biện minh dài dòng lý do, buộc các em phải tuân lệnh,
đừng thắc mắc, đừng hỏi tại sao. Nhưng khuyên răn người
đã trưởng thành đừng thắc mắc, hãy bắt chước
một cách máy móc là lối giáo dục nhồi sọ, học
vẹt, biến con người thành một xác chết chỉ còn biết
gật gù, mất dần thói quen suy xét.
Hơn nữa cố o ép những
khuôn mẫu luân lý không còn hợp thời - thậm chí quái
đản - vào xã hội hiện đại, bất chấp những hạn
chế khách quan mang tính lịch sử, là một hành vi không
thể chấp nhận. Tiêu chuẩn luân lý, đạo đức loài
người ở thế kỷ XX, XXI đã khác nhiều so với tiêu
chuẩn của thế kỷ XVI, XVII, huống hồ là so sánh với
tiêu chuẩn đạo đức của mấy ngàn năm trước. Chúa
Trời? đã cho chúng ta bộ óc phát triển cao độ, giúp
con người vượt lên trên loài cầm thú, dạy chúng ta
sử dụng não bộ một cách thông minh, biết phán đoán,
phân biệt phải trái. Các nhà thần học Ki-tô giáo còn
cố diễn giải khái niệm "Free will/Ý chí tự do" coi
như Thiên Chúa tạo điều kiện cho con người tự do lựa
chọn để hành động. Thế nhưng bài suy niệm lại kêu
gọi chúng ta đừng sử dụng bộ óc quý giá nói trên,
đừng thắc mắc, đừng suy nghĩ, cứ mù quáng bắt chước
ông Abraham. Hay là bài suy niệm nói trên suy diễn sai lời
Thiên Chúa? Dù sao thì sao, quả thật trong thế kỷ XX,
ông Cristos Valenti ở Mỹ đã làm đúng như lời khuyên
của bài suy niệm nói trên. Ông không thắc mắc,
ông bắt chước ông Abraham. Rồi chuyện gì đã
xảy ra? Xin quý bạn đọc tiếp.
Cristos Valenti là một tài
xế lái xe buýt lâu năm, rất ngoan đạo, sống tại tiểu
bang California, Hoa Kỳ cuối thập niên 1980, đầu thập niên
1990. Tuy sinh ra trong một gia đình Công giáo, đến tuổi
trung niên, ông cùng vợ và 6 đứa con chuyển sang giáo
phái Tin lành Ngũ Tuần (Pentecostal Church). Sau khi được
nghe tiếng gọi thiêng liêng, giữa đêm hôm khuya khoắt ông
bế cô con gái út lái xe đến địa điểm mà "Thiên
Chúa" đã chọn lựa. Ôm chặt vào lòng đứa bé mà ông
ta yêu quý nhất đời, ông dặn con cùng đọc kinh "Lạy
Cha chúng con ở trên trời ..." rồi rút dao hiến tế
... Ngồi cạnh bên thân xác bé bỏng cứ lạnh dần giữa
sương đêm, ông ngước mắt nhìn trời và chợt thấy
lòng thanh thản. Có 2 vì sao sáng đang tiến gần đến
nhau, Cristos Valenti cúi đầu tạ ơn, miệng mĩm cười vì
biết mình đã hoàn thành sứ mệnh. Ông ôm xác con lái
xe về nhà, đánh thức cô con gái lớn và sai cô ta gọi
cảnh sát, đồng thời thông báo tin mừng: "Em gái con
đã được về nước Chúa". Đấy là tóm tắt lời
khai của ông Cristos Valenti trước tòa.
Cái khác biệt quyết định
là trong Sáng Thế Ký cuối cùng Thiên Chúa đã
ngăn cản Abraham không được hiến tế con trai. Trong khi
trường hợp ông Cristos Valenti, tiếng gọi thiêng liêng ấy
chắc không phải là của Thiên Chúa? Nhưng làm sao để
chúng ta người trần mắt thịt ngay từ đầu phân biệt
đâu là lời Thiên Chúa thật, đâu là lời Thiên Chúa
giả? Nếu bất cứ ai có đức tin cao độ đều sẵ)̃n
sàng hành động theo chuyện cụ Abraham trong Sáng Thế
Ký
thì xã hội đi về đâu?
Vài ngàn năm trước
cụ Abraham nghe tiếng gọi của Thiên Chúa và sẵ)̃n sàng
đem con trai đi hiến tế. Vài chục năm trước
(6 tháng 1 năm 1990 tại tiểu bang California, Hoa Kỳ) ông Cristos
Valenti nghe tiếng gọi của Thiên Chúa và sẵ)̃n sàng đem
con gái đi hiến tế. Hiện nay nhiều người vẫn xem
cụ Abraham là tấm gương sáng về đức tin và lòng tuân
phục, còn ông Cristos Valenti thì phải vào nhà thương điên
vì tòa án trần thế xử cụ ta mắc chứng điên loạn.
Có bất công quá cho Cristos Valenti hay chăng?
Thời hiện đại nếu bị
đẩy vào hoàn cảnh ngặt nghèo, khó xử, và tiến thoái
lưỡng nan như của cụ Abraham, (hay cụ Ibrahim bên Hồi giáo)
bản thân tôi tin chắc chắn như đinh đóng cột, đa số
các bậc cha mẹ không cần suy nghĩ đắn đo, ưu tiên tìm
cách bảo vệ con mình đến cùng. Chống đối không xong
thì ôm con chạy, trốn chui trốn nhủi đâu đó, hoặc xin
đem thân mình ra thế mạng cho con, hay bất cứ một biện
pháp tuyệt vọng nào khác tương tự, chứ nhất quyết
không thể làm theo tiếng gọi của Sáng Thế Ký.
Thà làm khỉ đột, đười ươi v.v. biết thương con theo
bản năng "thú tính", còn hơn làm người có bộ óc
to chần dần, "trời" cho để suy nghĩ, mà nỡ lòng nào
đem mạng sống con cái đánh đổi lấy một tiếng gọi
nào đó, có "trời" mới biết rõ xuất xứ. Cũng chẳng
thấy ai đoái hoài đến Isaac, tương lai sẽ sống ra sao
sau khi bị chấn thương tâm lý trầm trọng, trải qua biến
cố thập tử nhất sinh, bị cha đem ra - cố nói cho văn
vẻ là "hiến tế, sát tế" - thực chất là "thí mạng"
đổi chác.
Hoàn cảnh cụ Quách Cự
trong Nhị Thập Tứ Hiếu cũng éo le, cũng khốn nạn
không kém. Tuy rằng trước khi hành động, cụ ít nhất
còn bàn tới bàn lui với vợ. Ngoài ra cụ chỉ tự
vấn lương tâm, sau đó hành động, chứ không trực tiếp
nghe theo tiếng gọi cụ thể nào cả. Cụ Abraham nhà ta
thì trái lại - dựa theo Kinh Tân Ước, sách Lu-Ca:
Các
điều cần yếu để làm môn đồ Đức Chúa Jêsus (14:26)
Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con,
anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì
không được làm môn đồ ta’. - vì đặt
Đức
Tin Cứu Rỗi vào Thiên Chúa tuyệt đối ở vị trí
cao nhất, sâu hơn, nặng hơn tì̀nh nghĩa cha mẹ, gia đình,
con cái, bản thân v.v., nên nghe tiếng gọi thiêng liêng
là chấp nhận và sẵ)̃n sàng ra tay. Ngoài ra không thấy
sách vở cao siêu nhắc gì đến việc cụ có thèm lấy
thêm ý kiến của bà vợ Sarah hay chăng? Chuyện hệ trọng
như thế mà cụ độc đoán, gia trưởng xem bà vợ chẳng
có kí lô nào?
Để tránh ngộ nhận, tôi
xin được khẳng định, loạt bài này không nhằm đả kích
một tôn giáo nào nói riêng. Cái gì thấy hay thì khen,
cái gì thấy dở thì chê. Con người dù là tín đồ
bất kỳ một tôn giáo nào hay không, thường là người
đạo đức bình thường, không ai vượt trội hơn ai. Tôn
giáo có thể là cái phao để bám víu, là nguồn động
viên, an ủi, vực dậy chúng ta trong những giây phút tuyệt
vọng, cô đơn nhất, hiu quạnh nhất, hoàn toàn không có
người thân bên cạnh. Riêng người Việt Nam không nên quên
một món nợ vay trả trả vay đặc biệt với những nhà
thừa sai Công giáo vào đầu thế kỷ XVII, chính họ đã
góp phần sáng tạo và phát triển Chữ Quốc Ngữ.
Mặc dù về mặt chủ quan, ý đồ của các vị thừa
sai chỉ là tạo phương tiện truyền giáo, không hơn không
kém. Nhưng dòng lịch sử phát triển khách quan, với
đóng góp qua tay bao nhiêu thế hệ (Nam Phong Tạp Chí, Đông
Kinh Nghĩa Thục, cụ Trương Vĩnh Ký v.v.) trong đó có cả
chính quyền thực dân Pháp, đã vô tình tạo điều kiện
cho người Việt Nam có chữ viết sử dụng hữu hiệu,
bao quát, thoải mái như ngày hôm nay. Khi tôi viết những
dòng chữ này thì (không chỉ) ở Việt Nam/Đà Nẵ)̃ng
đã rộ lên một cuộc tranh luận về việc có nên chọn
Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina để đặt tên đường
hay không? Ngoài một số ý kiến mang hơi hướm "nhìn
đâu cũng thấy kẻ thù dân tộc" tôi xin được giới
thiệu với bạn đọc:
1/ phần tìm hiểu khá công
phu của ông Đoan Hùng về đề tài này (cũng như các
bình luận) theo đường dẫn đến facebook sau:
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=105770280907202&id=105309667619930
2/ sự phức tạp của vấn
đề xét trong bối cảnh Việt Nam hiện nay (đài BBC),
2a)
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50688707
2b) https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50903604
3/ đọc báo VNExpress ngày
03-06-2018 về "Nhà thờ trăm tuổi nơi giữ sách quốc ngữ
đầu tiên. Trong nhà thờ Mằng Lăng ở Phú Yên còn lưu trữ
cuốn sách đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ của Linh mục
Alexandre de Rhodes."
https://vnexpress.net/du-lich/nha-tho-tram-tuoi-noi-giu-sach-quoc-ngu-dau-tien-3756274.html
Ngoài ra chúng ta cũng cần
nhấn mạnh đến các đóng góp quý báu của mọi tôn
giáo cho xã hội, văn hóa nhân loại v.v. suốt hàng nghìn
năm qua. Nhưng trong dòng lịch sử nhiều tôn giáo cho đến
nay, tiếc thay cũng chứa đựng dấu vết tội ác nhân
danh đạo đức, niềm tin, chính nghĩa v.v. Ngay cả thời
hiện đại, những đánh gía của tôn giáo về đức
tin, đồng tính luyến ái, ngừa thai, phá thai, nữ quyền,
súng ống v.v. cũng gây ra bao nhiêu hệ lụy cho con người.
Trong lòng các cộng đồng tôn giáo, không ít tín đồ
thời nay cũng đang mang trong lòng một tâm nguyện: hãy
bớt giáo điều, bớt gia trưởng, bớt cuồng tín, và
tìm cách gạn đục khơi trong những lời dạy trong kinh
kệ, không nhắm mắt tin theo một cách mù quáng. Tuy vậy
có nghiều người không hiểu dựa vào đâu để lập
luận một cách ngon ơ: tôn giáo và những giáo lý nằm
trong hệ thống tôn giáo ấy là tuyệt đối linh thiêng,
bất di bất dịch bất biến không ai được đụng chạm.
Nói cho đúng trong thâm tâm người ta nghĩ rằng chỉ tôn
giáo của mình đang theo là bất khả xâm phạm, còn các
tôn giáo khác có bị chỉ trích cũng chả sao.
Kinh Thánh nói chung, đặc
biệt Kinh Cựu Ước, cũng bao gồm một số đoạn văn
kỳ cục, thậm chí man rợ, mang tính ẩn dụ và biểu
tượng. Nhưng một số nhà thần học Ki-tô giáo lại
cố khẳng định nội dung Kinh Thánh là do Chúa thiên khải,
là lời Chúa phán trọn vẹn, có sao nói vậy, đúng
từng câu từng chữ. Tuy nhiên cũng tùy trường hợp,
họ lại dạy rằng Kinh Thánh là những tư tưởng cô đọng
thông qua sự cố gắng của con người tìm hiểu về Chúa.
Khó khăn đối với những người trần mắt thịt như
chúng ta khi đọc Kinh Thánh, làm sao biết đoạn nào thật
sự là lời Chúa phán, đoạn nào là sáng tạo của
con người khi tìm hiểu về Chúa?
Không ít nhà thần học Ki-Tô
giáo hay dựa vào tác phẩm "Fear and Trembling/Sợ và
Run" của triết gia Soren Kierkegaard để biện minh cho
hành vi của cụ Abraham. Trong tác phẩm triết học này
Abraham được đóng vai "Hiệp sĩ của Đức tin". Nhưng
cho phép tôi khất lại, xin được bàn tiếp về Soren
Kierkegaard trong tương lai, để quay trở về trần thế
hiện tại, chỉ xin nhắc đến châm ngôn sau đây của ông
ta, "Life can only be understood backwards; but it must be lived forwards/Đời
người: cần lùi lại mới hiểu được; nhưng phải tiến
lên mới sống được."
Một cách giản đơn và còn
thiếu sót - chúng ta ít nhiều có thể nhìn những câu
chuyện dụ ngôn như trên thông qua các lăng kính sau:
- Abraham trong Thánh Kinh
sẵ)̃n sàng hiến tế con trai, cũng như chuyện Quách
Cự trong Nhị Thập Tứ Hiếu dự tính chôn sống con
trai, Dịch Nha trong Đông Chu Liệt Quốc làm thịt con
dâng Tề Hoàn Công v.v. đều là dụ ngôn, phản ánh đạo
đức thời xa xưa ấy, ít nhiều còn tàn dư của loại
hủ tục man rợ, chấp nhận việc cha mẹ được quyền
hy sinh con để đạt mục đích "cao xa". Tuy nhiên luân lý
thời nay, không có chỗ đứng cho những khuôn mẫu đạo
đức theo kiểu nói trên. Phải chăng các câu chuyện ấy
nói riêng, kinh điển nói chung, dù thuộc tôn giáo, hay
bất cứ hệ thống tư tưởng nào khác, độc thần
hay đa thần, dù ngô nghê hay sâu sắc, dù hung tợn hay bác
ái, dù hẹp hòi hay khoan dung, chỉ là sản phẩm trí tuệ
của loài người vào một giai đoạn lịch sử nhất định,
nên mang đầy những dấu ấn, nói rõ hơn là sự hạn
chế khách quan của thời đại ấy.
- Lập luận của một số
nhà nghiên cứu thần học: chuyện Abraham sẵ)̃n sàng hiến
tế con trai là chuẩn bị tinh thần cho chúng ta hiểu rõ
việc Thượng Đế cho Thiên Chúa con mình hy sinh trên Thập
Tự Giá.
Các đề tài nêu trên và
sự so sánh rất khái quát giữa huyền thoại 18 Vua Hùng
và Kinh Cựu Ước sẽ lần lượt được bàn chi tiết
trong những bài viết tiếp theo. Xin quý bạn đọc đón
xem.
* Tài liệu tham khảo: Abraham
On Trial/Abraham trước vành móng ngựa - Tác giả:
nữ giáo sư Carol Delaney.
Khả
Tri