Chim Việt Cành Nam
Trở về
Trang chủ
Tác giả
Chuyện 'Con Người' : 
từ vu vơ qua vớ vẩn đến viển vông 
(phần I)

Khả Tri

Phần I      - Từ vu vơ qua vớ vẩn đến viển vông 
Phần II    - 
Phần III   - Qua ngõ nhà cụ Kant, u đầu vì va chạm triết học nhập môn.
Phần IVa - Đùa với lưỡi/lửa.
Phần Va : Từ quá khứ sang tương lai, côn trùng sâu bọ trong bữa ăn hằng ngày. 
Cung Oán Ngâm Khúc: "Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương"

Đúng ngày lành tháng tốt năm nay: 23-10-2019, nếu còn sống, chắc cố Tổng Giám mục Ái Nhĩ Lan James Ussher chẳng buồn thắp nến kỷ niệm 6023 năm sinh nhật trái đất? Vì sao? Năm 1650 ông xuất bản cuốn sách viết bằng tiếng La-tinh dày 1300 trang, trong đó có chương chủ yếu dựa vào Sáng Thế Ký trong Kinh Cựu Ước (sau đây được viết tắt là STK và KCU), mà tính ra được chính xác tuổi của quả địa cầu. Đại khái ông ta đi đến kết quả bằng cách sắp xếp, cộng số tuổi các hậu duệ dòng dõi cụ A-đam, và một số các biến cố lịch sử khác. Thí dụ: STK đoạn (1:1) ghi rõ: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất", James Ussher chọn thời điểm này là ngày 23 tháng 10 năm 4004 BCE/trước công nguyên.
 

Tuổi địa cầu Biến cố Nguồn Năm
0 Đức Chúa Trời dựng nên trời đất (cụ A-dam ra đời) STK (1:1) 4004 BCE
130 A-đam được một trăm ba mươi tuổi, sanh một con trai giống như hình tượng mình, đặt tên là Sết STK (5:3) 3874 BCE
Từ 235 đến 2083 ... Gia phổ A-đam, về dòng Sết cho đến dòng Nô-Ê...

Cụ Sết: thọ 952 tuổi

Cụ Ê-nót: thọ 950 tuổi và các cụ kế tiếp

...

STK (5:3) cho đến STK (12:4) 3639 BCE

-

1556 BCE

...

4000 Chúa Giê Su ra đời. Thánh Kinh, các sách Phúc Âm không xác định rõ ngày sinh của Chúa Giê Su. Tuy nhiên đa số các nhà thần học chấp nhận thời điểm 4 BCE.   4 BCE

Từ "bảng phong thần" nói trên, dựa theo cách tính của Tổng Giám mục James Ussher, chúng ta suy ra tuổi quả đất vào năm 2019 là: 4000+4+2019=6023 năm.

Thật ra không phải chỉ mình Tổng Giám mục James Ussher là người duy nhất đưa ra kết quả, mà chúng ta ngày nay, cảm thấy khá khôi hài. Vào thời trung cổ hưng thịnh, nhà thiên văn học Johannes Kepler, thậm chí bác học đại tài Isaac Newton v.v., cũng đều tin rằng quả đất chỉ xấp xỉ vài ngàn năm tuổi. Trước khi khoa học phát triển, Ki-Tô giáo là hệ thống tư tưởng thống trị, đặc biệt ở Âu châu, đóng vai trò cẩm nang cho hầu hết mọi phạm vi cuộc sống. Cuối thời kỳ Trung cổ, một bộ phận không nhỏ con người, vẫn còn cảm thấy yên tâm, vì rút ra được từ Thánh Kinh lời giải đáp cho những câu hỏi về bản chất mang tính triết lý như: chúng ta thực sự là ai, chúng ta từ đâu tới, đang làm gì ở cõi đời, chết đi về đâu, ai tạo ra vũ trụ, trái đất v.v.

Thực tế là vào đầu thế kỷ XVII, thiên văn, địa chất, vật lý, sinh vật học v.v. chưa ra đời hay chưa phát triển, thiếu thốn các phương tiện đo đạc, kiểm chứng (định tuổi bằng đồng vị phóng xạ, di chỉ hóa thạch, DNA v.v.) nên thông tin, tài liệu, kiến thức con người nói chung khá hạn hẹp. Nhân loại chưa dám nghĩ (thậm chí còn có thể bị ghép tội phạm thượng) rằng mọi sinh vật trên hành tinh này, đều bắt nguồn từ một loại đơn bào xuất hiện khoảng 3,5 đến 4 tỉ năm trước. Và tổng số gene của loài người (chừng 20.000) còn thấp hơn số gene của con giun, quả chuối (chừng 30.000), trên 96% giống y chang bộ gene của loài tinh tinh, chừng 60% giống y chang bộ gene của gà. Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng, trong mấy ngàn năm lịch sử nhân loại, khá nhiều bộ óc vĩ đại về khoa học từng là linh mục, mục sư, thầy dòng. Thí dụ: Roger Bacon, Joseph Priestley, Gregor Mendel, Georges Lemaitre, Pierre Teilhard de Chardin v.v.

23 tháng 10 năm 1955, cũng là ngày Trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại như trong bài hát được phát ra rả suốt ngày vào cái thời nhiễu nhương ấy: "... 23 tháng 10 Bảo Đại dân truất ngôi, bầu Ngô Đình Diệm tổng thống muôn năm. Từ nay đời trong sáng, toàn dân đời ấm no. Dựng xây non nước Việt, dân chủ và tự do ..." Không hiểu có ai cố vấn cho cụ Diệm chọn ngày, hay chỉ là một sự trùng hợp vô tình nào đó? Cụ Diệm nói chung được xem là người rất sùng đạo. Còn chiến dịch tổng tấn công chùa chiền Phật giáo vào đêm 20 rạng sáng 21 tháng 8 năm 1963 mà có người so sánh (tuy rằng hơi khập khiễng) với - "Le Massacre de la Saint- Barthélemy - tạm dịch thoát là: Cuộc tàn sát những người theo Tin lành thần học Calvin" khởi đi từ đêm 23 rạng sáng 24 tháng 8 năm 1572 tại kinh đô Paris, do phe phái chính trị mượn thế lực Công giáo chủ trương - thì chắc chỉ là ngẫu nhiên? Nhưng thôi xin được trở lại thăm hỏi cụ A-đam.

Theo Thánh Kinh cụ A-đam nhà ta hưởng thọ 930 tuổi, các cụ khác nối dõi tông đường, cụ nào cụ nấy đều vài trăm năm tuổi. Nhưng không phải chỉ trong KCU mới kể chuyện các cụ trường thọ. Sách Luận Ngữ, cụ Khổng cũng ví von so sánh mình với Lão Bành. Cụ Bành Tổ tương truyền gần 800 cái xuân xanh, kết thân với hàng chục bà vợ, hạ sinh mấy tá con trai.

KCU, STK đoạn (1:27), kể rằng: "Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ." Các đoạn (2:7) và (2:21-23) kể tiếp: "Bấy giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một sinh linh." ... "Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam..."

Tuy bị lấy mất xương sườn, cụ A-đam vẫn sinh con đẻ cái, sống khỏe mạnh, thậm chí sống trường thọ. Nhưng chắc bạn đọc còn nhớ vào năm 1991, 2 tay du lịch Đức nhân đi trượt tuyết, đã vô tì̀nh phát hiện 1 xác đông cứng (còn được gọi tên là Ötzi) ướp trong tảng băng trên rặng núi Alps vùng biên giới giữa Áo - Ý. Ông này có thể đã sống từ 3370 đến 3100 BCE, đặc biệt chỉ có 11 cặp xương sườn. Phải chăng ông này chính là cụ A-đam nhà ta (đã bị Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy mất xương sườn)? Dùng cách tính của Tổng Giám mục James Ussher chúng ta đi đến kết quả như sau:

1- Cụ A-đam sinh năm 0 tuổi tương đương 4004 BCE

2- Cụ A-đam mất năm 930 tuổi tương đương 3074 BCE

3- Người băng Ötzi có thể mất trễ nhất vào khoảng năm 3100 BCE.

4- So sánh hai con số nói trên 3074 BCE và 3100 BCE, trừ hao sai số này nọ, chúng ta tin tưởng Cụ A-đam chính là Người băng Ötzi?

5- Một trong số các câu hỏi còn sót lại là vì sao cụ A-đam lại trôi nổi đến tận rặng núi Alps vùng biên giới giữa Áo - Ý? STK tiếc thay không ghi rõ cụ A-đam chết ở đâu và được chôn cất ở đâu.

Hậu duệ cụ A-đam từ lâu đã thắc mắc, tìm cách đếm xương sườn của mình và đi đến kết luận, dù bất cứ nam hay nữ, người bình thường đều có 12 cặp. Tuy nhiên cấu tạo thân thể con người, đôi khi vẫn có ngoại lệ, thiếu phần này, thừa phần kia. Đã có các trường hợp con người thiếu 1 (11 cặp), hay dư 1 (13 cặp). Tương tự, vài năm trước, báo chí từng rộ lên nguồn tin về gia đình nhà Da Silva ở Ba Tây, với đa số các thành viên có đến 6 ngón tay.

Phải chăng muốn chấm dứt mọi thắc mắc liên quan đến bộ xương sườn của cụ A-đam, vào năm 2015 (và trước đó 2001), Ziony Zevit vị giáo sư nghiên cứu về Thánh Kinh thuộc đại học American Jewish University in California, đã đưa ra một giả thuyết nghe khá hấp dẫn. Theo vị giáo sư này thì cụ A-đam chả mất xương sống xương sườn gì ráo trọi. Cái cụ bị mất là "xương dương vật/baculum" (sau đây được viết tắt là XDV). Xin quý vị đọc cho rõ, không phải chuyện đùa. Nói có sách mách có chứng chúng tôi xin được tóm tắt câu chuyện này như sau.

Như các nghiên cứu về sinh vật học và tiến hóa xác nhận, chừng 100 đến 150 triệu năm trước, mọi động vật thuộc loài hữu nhũ/mammal đều có XDV. Cục xương nho nhỏ này, dài từ vài mm đến vài chục cm tùy chủng loại động vật, giúp chủ nó gia tăng khả năng, tần số, và thời gian giao cấu, phát triển giống nòi. Trong khi đa số động vật thuộc loài có vú lưu giữ bửu bối quý giá này cho đến ngày nay, thí dụ: chó, mèo, cá voi, hà mã, khỉ đột, tinh tinh v.v. cơ thể con người trái lại, theo dòng tiến hóa đã dần dần vứt bỏ hoàn toàn XDV như một gánh nặng trần ai. Tại sao? Giới khoa học gia giải thích như sau: khuynh hướng sống một vợ một chồng của loài người ngày càng phát triển, khiến nguy cơ cạnh tranh giao phối giữa các con đực với nhau suy giảm. Để lâu quá đát hết hạn sử dụng, "của nợ" cũng theo dòng thời gian mà tàn lụi. Còn theo giáo sư Ziony Zevit thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời thay vì lấy xương sườn, đã lấy XDV từ cụ A-đam để tạo ra bà Ê-va!!! Phải chăng vì thế đám hậu duệ mày râu hiện đại mất toi XDV?

***

Vương quốc Anh từ năm 2003 phải đối mặt với một người thích trang phục theo mốt của cụ A-đam và bà E-va trước khi bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng. Ông Stephen Gough, được mệnh danh là "gả dạo chơi trần truồng", nay đã lục tuần, nhưng suốt hơn 15 năm qua, vào tù ra khám nhiều lần (tổng cộng trên 7 năm tù) vì nhất định không chịu mặc quần áo, trừ đôi bốt và cái mũ, ngay cả giữa chốn công cộng. Nói cho đúng, chẳng biết ông ta đi theo bước chân cụ A-đam và bà E-va hay không, nhưng tự do tuyệt đối về phạm vi không quần không áo là điều ông ta đòi hỏi. Giữa trần truồng và không phải ngồi tù, ông đã chọn đứng về phía trần truồng, mà theo ông ta đó là tự do, nhưng lại bị vô tù, mất tự do. Một nghịch lý về "con người". Nhưng cuối cùng - vào năm 2016 - nặng tình mẫu tử khiến "gả dạo chơi trần truồng" chấp nhận khoác lên thân thể bộ quần áo, hòng được tự do, có thể chăm sóc và đưa bà mẹ già yếu 89 tuổi ngày ngày đi dạo.

Hy sinh tự do cá nhân để chọn tình mẫu tử, là một quyết định tương đối không quá khó khăn so với một chọn lựa khác cũng liên quan đến tình mẫu tử mà triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre nêu ví dụ trong bài tham luận "L'existentialisme est un humanisme" tóm tắt như sau: "Thế chiến II bùng nổ, Đức quốc xã chiếm đóng nước Pháp, chàng trai (tạm gọi tên là X) cựu học sinh của Sartre, đến vấn kế thầy, trong tình huống như sau. Gia đình lục đục, cha của X bỏ nhà đi cộng tác với địch, anh trai X bị Đức giết, người mẹ đơn côi không thể sống nổi, chỉ còn trông cậy trăm phần vào X đứa con độc nhất còn lại trong gia đình. X sẽ phải làm gì? Ra đi tham gia kháng chiến phục vụ cho hạnh phúc của dân tộc, cho hàng triệu người, hay ở lại chăm sóc mẹ già vì hạnh phúc cá nhân? Mà X biết hướng tới ai để nghe lời khuyên? Tìm đến các vị chăm sóc phần hồn chăng? Có vị đứng hẳn về phe kháng chiến, có vị cố đi giữa 2 lằn đạn, có vị trùm chăn, có vị phải hợp tác với phát xít Đức để giữ mạng sống ..."

Với khả năng và trình độ giới hạn, người viết bài này xin được diễn giải thật tóm tắt ý chính của bài tham luận nói trên. Là triết gia hiện sinh, thầy dùi Sartre chỉ có thể đưa ra lời bàn đại để như sau: X là con người độc lập, duy nhất, chủ thể tự do, nên anh ta trong mọi hoàn cảnh, đều có thể đắn đo, suy tính, cân nhắc, khuấy động, tra vấn mọi ngõ ngách sâu thẳm bản thân, cuối cùng lựa chọn con đường muốn đi, và sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trước mắt chúng ta có thể là hạnh phúc, có thể là bi đát. Không có khuôn mẫu đạo đức, luân lý, nguyên tắc hành động nào tiên thiên, như mâm cỗ bày biện sẵn trên bàn ăn, anh ta chỉ việc sà vào đánh chén.

Lại có một chuyện khác liên quan đến cả tình mẫu tử lẫn tình phụ tử. Quý vị chắc còn nhớ "Nhị Thập Tứ Hiếu", nếu ký ức tôi không sai lầm thì tập truyện này nằm trong chương trình giáo dục Trung học đệ nhất cấp thời Việt Nam Cộng Hòa thập niên 1960. Nói chung đại đa số 24 câu chuyện nói trên (do ông Quách Cư Nghiệp sưu tầm và biên soạn vào thời nhà Nguyên), được ông Lý Văn Phức diễn giải ra tiếng Việt theo thể thơ song thất lục bát, là những bài học cảm động về gương hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Tuy nhiên câu chuyện gia đình Quách Cự đời nhà Hán lại là một thí dụ rất đáng cho chúng ta đắn đo suy ngẫm.

Chuyện đại khái như sau: Vợ chồng Quách Cự có đứa con trai mới lên 3, nhưng gia cảnh sa sút, bà mẹ già thường nhịn đói, nhường bớt phần ăn cho cháu. Quách Cự lập luận rằng, mẹ chỉ có một, nhưng con thì còn đẻ được đứa khác, mới bàn với vợ đem con đi chôn sống, bớt một miệng ăn. Ai dè đâu khi đào đất lên Quách Cự thấy một hũ vàng Trời cho và nhờ vậy thoát cảnh bần hàn.

Dĩ nhiên gương hiếu thảo nói trên có thể chỉ là dụ ngôn chưa chắc đã có thật, đặt trong khung cảnh xã hội đời nhà Hán (cách đây gần 2000 năm), khi con cái thực chất chẳng khác đồ vật, tùy hoàn cảnh, được gia chủ đem ra trao đổi, sử dụng để thu lợi tối đa. Ngoài ra giết con để đạt một mục đích nào đó, không hiếm trong kho tàng cổ văn Trung Hoa. Xin đơn cử 1 thí dụ trong Đông Chu Liệt Quốc. "Tề Hoàn Công một hôm cho gọi Dịch Nha, đầu bếp nấu ăn rất ngon trong cung đến chầu và nói đùa rằng: ‘Sơn hào hải vị ta đều đã dùng qua, chỉ có thịt người là trẩm chưa được nếm mùi’. Dịch Nha xin lui và đến bữa đem dâng vua một món ăn mềm mại thơm ngon chẳng bút mực nào tả xiết. Khi nghe Tề Hoàn Công hỏi thịt gì Dịch Nha tâu rằng: ‘hạ thần đã dùng thịt đứa con trai mình lên 3 để nấu món lạ cho Chúa Công nếm thử.’"

Dịch Nha sẵn sàng làm thịt con trai dâng Tề Hoàn Công, mưu cầu lợi ích cho gia đình, phải đặt nặng quan hệ vua tôi hơn quan hệ cha con tầm thường, vì vua là bậc thiên tử, là con trời. Chẳng có gì lạ, nhà văn Lỗ Tấn mượn "Nhật Ký Người Điên" để phê phán (dĩ nhiên cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) hàng ngàn năm chế độ phong kiến Trung Hoa, khá nhiều chuyện "ăn thịt người".

Xin trở lại "Nhị Thập Tứ Hiếu". Gia đình Quách Cự quả thật đáng thương, vì phải sống trong hoàn cảnh quá khắc nghiệt. Vợ chồng chắc làm quần quật suốt ngày nhưng vẫn không đủ điều kiện phụng dưỡng mẹ già, nuôi nấng con nhỏ, đến nỗi ông ta quẫn trí làm bậy. Nhìn với nhân sinh quan của con người hiện tại, chúng ta không thể nào chấp nhận việc mượn câu chuyện Quách Cự làm gương hiếu thảo. Thứ nhất: dù bất cứ ai tìm cách nói quanh nói co, bào chữa cho ông Quách Cự rằng hành vi của ông ta ngầm chứa động cơ cao quý: tình mẫu tử; nhưng nếu phải ra trước vành móng ngựa, ông vẫn bị cáo buộc tội âm mưu giết người, dù nạn nhân là con trai và chỉ mới 3 tuổi. Thứ hai: xét cho cùng ông ta là người hời hợt, thậm chí mù quáng. Nếu hoàn thành tội ác chôn sống con trai, ông ta vô tình biến mẹ mình thành đồng lõa sát nhân. Hơn thế nữa, cụ bà thương cháu chắc sẽ chết dần chết mòn vì khổ đau. Cuối cùng cái tình mẫu tử mà Quách Cự muốn thực hiện cho được bằng mọi giá, kể cả giết con trai, lại phá nát gia đình ông ta. Gương hiếu thảo theo kiểu Quách Cự vì thế phải kết thúc với một cái bẫy: không viện dẫn được lý lẽ trần thế nào đáng thuyết phục để biện minh cho việc giết người, tác giả mượn ý trời, giải quyết theo chiều hướng thiêng liêng, vượt trên mọi giá trị đạo đức: có ý hướng tốt thì cứ làm đi rồi thượng đế, hay một đấng siêu nhiên nào đó sẽ tha thứ, thậm chí ban thưởng. Một hũ vàng trong chuyện Quách Cự, hay một ân huệ nào đó cho Dịch Nha trong Đông Chu Liệt Quốc, đều được ban phát từ nguồn trực tiếp là Trời, hay gián tiếp từ nhà vua, con Trời.


Thiên sứ ngăn cản Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac. 
(Hiến tế Isaac, do Rembrandt vẽ). Nguồn: https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4f/Rembrandt_Harmensz._van_Rijn_035.jpg

Trước khi tạm chia tay ông Quách Cự và quý bạn đọc, tôi xin được nhắc đến cụ Abraham, tổ phụ 3 tôn giáo độc thần lớn, Do thái, Ki-tô và Hồi giáo, người sẵn sàng sát tế con trai Isaac, để chứng minh lòng tin tuyệt đối với Thượng Đế. Khởi đi từ câu chuyện trong Kinh Cựu Ước, Sáng Thế Ký, triết gia tiền thân của khuynh hướng hiện sinh Soren Kierkegaard, mượn tác phẩm ưng ý nhất của mình "Fear and Trembling/Sợ và Run" để diễn giải, lập luận và đưa ra một lối nhìn tổng hợp về đạo lý, đức tin, lòng trung thành tuyệt đối, sự phi lý, chọn lựa và trách nhiệm. Nhưng đó lại là đề tài cho các bài viết trong tương lai. Xin bạn đọc đón xem.

Khả Tri