NĂM TRUYỆN NGẮN VÀ CỰC NGẮN CỦA KAWABATA 
(Từ đôi mày - Người lâu không gặp - Trăng Rằm - Cô gái thơm tho - Chồng không đụng đến )

 Trăng Rằm
(Meigetsu, 1952)

Nguyên tác: Kawabata Yasunari
Dịch: Nguyễn Nam Trân
 Trang R?m (Meigetsu, 1952)
Nghe nói tết Trung Thu năm nay nhằm ngày 3 tháng 10 dương lịch thì phải!

Ngày 1 tháng 10, tôi đã đem bức tranh thủy mặc Sôtatsu (Tông Đạt) (1) vẽ thỏ ra và treo sẵn ở hốc phòng rồi mới rời nhà. Tôi phải đi Hakone để ngồi viết nên có lẽ chỉ có thể ngắm trăng rằm ở vùng đó thôi.

Tuy vậy, đúng ngày sinh nhật của Tsukiko (Nguyệt Tử) tôi lại không có mặt ở Tôkyô nên đã lo xa gửi lời chúc mừng từ bốn, năm hôm trước.

Tsukiko là con của cô em gái tôi. Nhân vì cháu sinh vào đúng ngày rằm Trung Thu cho nên mới được đặt tên là Tsukiko.

-Sinh đúng vào ngày rằm Trung Thu là tốt lắm đấy, con!

Đã bao nhiêu năm rồi, cứ đến ngày sinh nhật của Tsukiko tôi đều lập li lập lại lời chào thăm như thế.

Thế nhưng vào dịp sinh nhật của cháu hồi năm ngoái thì tôi lại nói với Tsukiko cách khác:

-Mỗi ngày đều có những đứa trẻ sinh ra. Sinh đúng rằm Trung Thu thì cũng chẳng phải là một chuyện lạ.

Thường thường để chúc mừng sinh nhật, mỗi năm chỉ cần dùng lại câu nói cũ là đủ nhưng cái câu nói "Mỗi ngày đều có những đứa trẻ sinh ra" vốn đương nhiên như thế, nhưng chẳng phải ai cũng có thể dễ dàng nói ra được. Thật ra thì nó là câu mà tôi đã mượn của bà Hayashi Fumiko (2).

Mùa hè năm ngoái, bà Fumiko qua đời. Để soạn in Toàn Tập về bà, tôi cũng đã có cơ hội đọc lại những sáng tác của bà và ghi vào lòng những câu văn, câu thơ nổi tiếng tìm thấy trong đó. Một câu tôi còn nhớ là "Mỗi ngày đều có những đứa trẻ sinh ra. Chúng đến từ đủ loại đàn bà và từ trong những giấc mộng đẹp đẽ của họ". Thế như câu nói của bà Fumiko không chỉ ngừng lại ở đó. Bà đã viết tiếp: "Làm sao tôi có thể tìm thấy điều gì để có thể khinh miệt người đã sinh ra tôi". Bà Fumiko là một đứa con hoang, cha không thừa nhận, nên bà mới hạ bút như thế.

Mùa thu năm ngoái, nhân sinh nhật của Tsukiko, tôi chỉ mượn bà câu trên tức là "Mỗi ngày đều có những đứa trẻ sinh ra" mà thôi.

Vì giữa dương lịch và âm lịch có một sự chênh lệch cho nên rằm Trung Thu không phải năm nào cũng là ngày 3 tháng 10 dương lịch đâu. Thế như sinh vào ngày rằm trong cái tháng trông trăng như trường hợp của Tsukiko thì chính ra phải chúc sinh nhật của cháu theo ngày âm. Khoảng hai mươi năm trước, tôi đã khuyên em gái tôi nên tổ chức sinh nhật cho con theo lối ấy.Giữa tôi và Tsukiko có một khoảng cách tuổi tác trên ba mươi năm nên cảm giác của cháu và của thế hệ chúng tôi về rằm Trung Thu cũng có chỗ khác nhau, nhưng dù sao, tôi cảm thấy việc sinh đúng vào ngày rằm Trung Thu cũng là một trong những hạnh phúc hiếm hoi. Mỗi năm, đến ngày rằm Trung Thu, khi đến chúc mừng sinh nhật cô gái nhỏ đó và cùng nhau đợi vầng trăng tròn ló dạng cùng gia đình họ, tôi không khỏi cảm thấy một hạnh phúc nhỏ bé đang đến với mình. Đêm rằm đừng có mưa thì tốt, đêm rằm đừng có mây thì tốt. Nội cái chuyện mong mỏi những điều đó từ hai ba hôm trước cũng đã làm cho tôi đủ thấy vui rồi.

Còn năm nay thì vì có một bài viết cần nộp gấp, tôi buộc lòng phải rời Tôkyô Tôi đã đến chúc mừng sinh nhật của Tsukiko từ bốn, năm ngày trước bằng cách ra ngã tư Hibiya nơi có một hiệu buôn của Mỹ và mua một cái xách tay - thuộc loại hàng bây giờ còn hiếm - làm bằng tơ nylon màu. Tay xách này dùng với Âu phục hay Hòa phục (3) trông đều hợp cả. Thường thì khi tổ chức sinh nhật cho cô trong đêm Trung Thu, hầu như năm nào cũng cắm hoa lau (susuki), ăn bánh nếp vo viên (dango), khoai môn, quả hồng và hạt dẻ cho nên tôi chọn mừng sinh nhật cô bằng cơm Tây cho nó lạ.

Tsukiko có vẻ hết sức hài lòng. Ra khỏi quán, cô tỏ ý muốn đi dạo một vòng. Sáu giờ trời đã ngả chiều nên có hơi tối. Chúng tôi đi dọc bờ hào thành trên con đường nằm giữa công viên và Hoàng Cung để về phía nhà của tôi ở mạn Akasaka.

Tôi nói:

-Ở Hakone có nhiều hoa Hagi (hồ chi) (4) lắm nghe. Vào cữ này hoa đang nở rộ đấy. Từ trên ghềnh đá rũ xuống bên đường nên hoa Hagi (hồ chi) ở Hakone được xem là đẹp hơn nơi khác những một bậc. Còn mùa hè thì lại có nhiều hoa Ajisai (cẩm tú cầu)

-Ô kìa! Đây cũng có hoa Hagi này, bác ạ!

Tsukiko chợt thốt lên và dừng chân đứng lại.

Đúng thật, dưới rặng liễu cạnh bờ hào, có một lùm Hagi, Nhưng vì trời tốt, không sao nhìn rõ hoa được

-Bác đợi tí nhé...! Chút nữa có xe chạy tới, nhờ ánh đèn xe, mình sẽ thấy cho coi.

Nói xong, Tsukiko đã đưa cánh tay lên nâng lấy cành Hagi và đứng chờ.

Phía cổng Sakuradamon đối diện, nơi có đặt đèn xanh đèn đỏ (go-stop), có vài chiếc ô-tô đang ngừng. Rốt cuộc, ánh đèn những chiếc xe đó đã tiến lại gần hai bác cháu.

Ngay tôi cũng đã thấy được hoa Hagi. Mỗi lần ánh đèn xe hơi lướt qua, màu sắc của hoa Hagi lại hiện ra rồi biến mất.

-Nếu là thứ hoa Hagi trắng, có lẽ mình còn thấy rõ hơn nữa.

Nói thế xong, Tsukiko bèn buông cành Hagi ra.

Nhân thấy Tsukiko sau khi xem hoa nhờ ánh đèn của một chiếc xe hơi trước khi nó đi ngang, đã đợi khi chiếc sau tới mới nâng cành lên, tôi thấy cả một sự thông minh nơi cô bé.

Ở một nơi không ngờ tới và chỉ nhờ ánh đèn xe hơi đi qua đó, Tsukiko đã cho tôi được thấy màu sắc của hoa Hagi và có lẽ đó là một kỷ niệm tôi sẽ nhớ cả đời. Đối với Tsukiko, việc đó chẳng có gì lạ và cô sẽ quên ngay thôi nhưng nó đã khắc ghi trong lòng tôi. Chắc tại tuổi già sinh lẩm cẩm.

Cũng giống như câu "Ngày nào cũng có những đứa trẻ sinh ra" bình dị như thế nhưng dễ gì ai thốt ra được, hình ảnh sinh động của một cô gái giữa đêm thu Tôkyô nâng cành hoa Hagi trước ánh đèn xe mà tôi thấy đó, có thể chỉ là một cơ hội có một không hai trong cuộc đời ngắn ngủi này.

Lúc nhìn hoa Hagi ở Hakone, cái hiện ra ngay trong đầu vẫn là những đóa Hagi màu đỏ nhạt trên cánh tay trắng ngà của Tsukiko bên bờ hào thành cái đêm hôm đó. Đối với cô gái trẻ Tsukiko thì những đóa hoa Hagi nhỏ bé bên bờ hào kia đâu có gì để cô phải nhớ tới nhưng bức tranh vẽ thỏ của Sôtatsu đối với cô sẽ là kỷ niệm về tôi cũng không chừng,

Đó là bức tranh tôi đã hứa tặng cho Tsukiko. Năm tôi mua nó, có lần tôi đã mang nó đến nhà cô vào ngày sinh nhật và treo trong hốc phòng đặt đồ trang trí (tokonoma) để mọi người xem.

-Con thỏ cung trăng đó nha.

Tôi có lần đã nghe một câu như vậy nhưng không nhớ rõ người nói ra là mình hay một người khách đến chơi nhà và vào dịp nào nữa. Thế nhưng lần đầu trông thấy bức tranh thủy mặc này, tôi đã đinh ninh rằng nó phải là con thỏ cung trăng.

Trong số những bức thủy mặc được coi là tranh Sôtatsu, có lẽ đây là bức được vẽ với những nét bút giản dị nhất. Có thể xem đây là chỗ cực đoan trong khuynh hướng hội họa của Sôtatsu. Ông không vẽ một con thỏ, đúng hơn chỉ làm cho hình ảnh một con thỏ nổi lên mơ hồ giữa một nền tranh nhàn nhạt.

Ông đã bôi khắp mặt giấy một màu đen nhạt, chỉ chừa một khoảng trắng tương xứng với hình ảnh con thỏ. Cái màu đen gọi là nhạt ấy thực ra hết sức nhạt, nó không phải là thứ màu đen có chỗ đậm chỗ nhạt (nôtan) cũng không phải lối phối màu bằng nhiều đợt (tarashikomi) (5) của họa phái ông. Ông chỉ điểm tròng mắt cho con thỏ ấy thôi. Ông không dùng đường nét để qui định thân hình thỏ. Ông chỉ chấm phá vài nét ở phần móng chân thỏ.Tướng mạo thỏ uy nghi và cách ngồi trông rất đáng yêu. Dáng nó tự nhiên như một chú thỏ non.

Con thỏ không cầm chày dùng để giã thuốc và ở trong tư thế đứng mà chỉ nằm ở bên dưới mặt tranh nhưng đủ tạo ra cảm giác nó là con thỏ cung trăng.Màu đen nhàn nhạt của bức vẽ giống như bầu trời của một đêm trăng. Nó nhòa nhạt và mềm mại, rộng rãi và ấm áp. Trong những bức thủy mặc của Sôtatsu, người ta thấy có loại tranh vẽ thỏ bên cạnh hoa cỏ mùa thu cùng với một vầng trăng thật to. Thế nhưng, có lẽ sau khi đã thử vẽ như vậy, ông đã loại bỏ cả trăng lẫn nhúm cỏ thu và chỉ còn giữ lại con thỏ cung trăng. Dầu vậy, vẫn còn cảm thấy vẻ thanh cao của vầng trăng ở nơi nào đó trong tranh. Đối với nhiều bức tranh thủy mặc gọi là của Sôtatsu còn truyền lại đến nay, vài chuyên gia lịch sử mỹ thuật hãy còn dặt nghi vấn nên bức tranh thỏ này chắc cũng sẽ bị họ phủ nhận nhưng tôi thì hiện giờ vẫn nghĩ nó là một sáng tác của Sôtatsu.

Hôm đi gặp người buôn tranh, anh bạn chuyên gia lịch sữ mỹ thuật, đã hỏi tôi:

-Sao, đã thấy con thỏ chưa?

Tôi trả lời:

-Thấy rồi.

Anh đã nói như đang cần đến sự đồng ý của tôi:

-Tranh chẳng ra gì, phải không?

Nhưng tôi đã mua và đem nó về. Nói chung, tôi thuộc loại người hay nghe lời người khác nhưng hôm đó đã bị cái ánh trăng mơ hồ kia thu hút.

Nếu đúng là con thỏ cung trăng thì đây không phải là bức tranh vẽ thỏ mà là tranh vẽ trăng. Dĩ nhiên nó phải là một vầng trăng thu.Đem nó mà tặng cho một người sinh ra vào một ngày rằm trung thu như Tsukiko là làm một việc chí phải.

Nếu là Tsukiko thì cô chắc cô không có cơ hội để biết đến lập luận của vài ba chuyên gia lịch sử mỹ thuật đó đâu. Cô sẽ tin rằng cái mà ông bác làm quà là bức tranh tiêu biểu về trăng do chính tay Sôtatsu vẽ. Suốt đời, cô sẽ không bao giờ nghĩ đến việc chia tay nó và cứ mỗi năm đến ngày sinh nhật, sẽ đem ra treo ở cái hốc trang trí (tokonoma) trong phòng. Nếu như có được một người con gái biết bày cỗ trông trăng, chắp tay nhìn lên vầng trăng một chút, rồi vừa khấn vái vừa ngắm bức tranh thỏ này thì tôi nghĩ mình có lẽ đã chọn đúng người để gửi gắm món quà.

Nghĩ đến đấy, hình ảnh Tsukiko như một thiếu nữ dễ thương, xinh xắn chợt hiện ra trong tôi

Tuy còn tiêng tiếc cái bức tranh thỏ, tôi đang ray rứt không biết mình có thể nào gửi nó đến địa chỉ của Tsukiko cho kịp ngày mốt, sinh nhật của cô, tức thời điểm tốt nhất.

Từ ga Tôkyô, tôi không đủ thời giờ để gọi điện thoại về nhà để nhờ.Tôi nghĩ đến quán trọ ở Hakone sẽ gọi, chắc hãy còn kịp.

Khi tôi lên xe điện, trời vẫn chưa tối hẳn. Tuy là giờ đó, đèn đã được thắp trong toa nhưng cái màu tối tôi thấy là một cái màu tối trông rất dị thường. Trận bão Polly, mang cái tên của một phụ nữ Mỹ, chỉ thổi đến những luồng gió bấc lạnh lẽo và không đến nỗi cuồng loạn nhưng những đám mây báo bão đang trùm lên khắp nơi, chỉ chừa mỗi một mảng rách nhỏ trên bầu trời phía Tây. Ở phía Tây đó, tôi thấy giữa tầng mây và mấy khu phố nằm bên dưới, có một vạt ráng chiều màu vàng lạnh lẽo và buồn bã đang nằm vắt ngang, Những ngôi nhà trong khu phố đang chìm dần vào trong một bóng tối đen kịt. Làm như chúng đang thu mình lại vì khiếp đảm trước một điều tàn khốc nào đó sắp xảy ra.Ngay cả những ngọn đèn điện và bảng hiệu bằng đèn huỳnh quang (neon sign) cũng sáng lên vội vàng như xua cái lạnh đến nơi.

Tôi lo lắng về thời tiết ngày mốt nên mở tờ báo số buổi chiều ra đọc thì thấy trên đó có đăng một bài tùy bút nhan đề "Trăng và Thỏ" của một học giả Hán văn. Theo những gì ông viết thì vào thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch, trong Sở Từ, người ta đã nói là có con thỏ nằm giữa mặt trăng, còn trong thơ Đường thì Bạch Lạc Thiên cũng đã vịnh cảnh "Bạch thố đảo dược" (Thỏ trắng giã thuốc). Thuốc ở đây tức thuốc tiên để được trường sinh bất tử. Lại nữa, vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, theo sách Hoài Nam Tử, trong mặt trăng vốn có một con cóc (gama, thiềm thừ) ăn mặt trăng, lại có một người vợ tên Thường Nga, đã ăn cắp thuốc trường sinh bất tử Tây Vương Mẫu ban cho chồng mình, uống lấy và trốn mất trên cung trăng. Ông cũng viết về nhiều thuyết liên quan đến việc trốn lên trăng, Chuyện thế kỷ thứ tư trước Tây lịch là chuyện đời xưa rồi.

Từ bao nhiêu năm rồi, tôi vẫn có thói quen đến trông trăng với gia đình Tsukiko vào ngày sinh nhật của cô, nhưng không nói về chuyện trường sinh bất tử nhưng lúc nào câu chuyện cũng xoay quanh việc thành nhân (seijin) (6) của cô. Là một người đến dự sinh nhật của một người con gái đang từ tuổi mười mấy bước qua tuổi đôi mươi, tôi không thể nào có trong đầu những chuyện chết chóc. Vì vậy, giờ đây tôi mới nghĩ ra rằng ngày rằm Trung thu đối với gia đình Tsukiko là một "ngày dành cho sự bất tử". Và nó khiến tôi đâm ra tiếc là năm nay, không thể đến nhà cô để chúc mừng.Thay vào đó, tôi xin cố gắng nhớ ra càng nhiều càng tốt những kỷ niệm về ngày rằm Trung Thu trong gia đình Tsukiko.

Tôi không biết có dẫm chân vào nội bộ gia đình cô em gái tôi hay không nhưng vì đó là một gia đình bình thường và ổn định, nên cho đến nay, Tsukiko cũng có dịp sống một cuộc đời không có gì lạ và khá hạnh phúc.Vào mỗi sinh nhật, hình ảnh của Tsukiko tiến về phía tuổi thành nhân càng lúc càng rõ rệt.

Lần sinh nhật thứ 17 của Tsukiko, trời mưa lớn. Từ trường về nhà, đã thay đồ và mặc kimono bằng tơ Yuuzen (7) nhưng khi bưng đồ ăn lên phòng khách, cô đã dẫm lên vạt áo khi đứng bật dậy nên đã ngã lăn ra. Vì cô òa lên khóc, cả cha mẹ cô lẫn tôi đều sửng sốt. Nếu có chuyện lạ xảy ra trong ngày sinh nhật cô, chắc tôi chỉ kể ra được chừng đó.

Năm nay, vì không thể đến dự sinh nhật của Tsukiko, tôi xin viết sẵn mấy dòng này và chẳng qua để ghi nhớ trong lòng dịp Tết Trung Thu mà tôi gửi tặng bức tranh thỏ của Sôtatsu cho cô.

Dịch ngày 14/1/2023
(Trích Toàn Tập Kawabata Yasunari, Nxb Shinchô, 1980)
Bên lề tác phẩm:

Là một văn nhân am tường nhiều ngành nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống, từ vài chi tiết trong cuộc sống có thể không ăn nhập gì với nhau, Kawabata đã phối hợp để viết tên một áng văn đẹp đẽ, nhẹ nhàng. Tuy được xếp vào loại ruyện ngắn trong lòng bàn tay, nhưng áng văn này có hương vị của một tùy bút hay hồi ức, giống như Iwa no Kiku (Cúc mọc trên đá) hay Bàn về cái đẹp (Bi ni tsuite).
__________________________

(1) - Sôtatsu (Tông Đạt, ? – 1640), một họa gia tên tuổi cuối thời Azuchi và đầu Edo. Sinh ra ở Kyôto trong một gia đình giàu có. Đã có công làm mới tranh thủy mặc (suibokuga).

(2) - Hayashi Fumiko (1903-1951). Nhà văn nữ tên tuổi, rất ăn khách của giai đoạn đầu thời Shôwa (1926-45). Giọng văn bi thương và trữ tình. Tác giả thiên tự truyện "Đời trôi dạt" (Hôrôki, 1928-1948)

(3) - Hòa phục (Wafuku) chỉ y phục truyền thống Nhật Bản như Kimono.

(4) - Hagi (bush clover) là một loại cây thân thảo khoảng 1,5m, mọc thành từng bụi, từ hạ sang thu ra hoa màu trắng hay đỏ nhạt, hình thù giống như cánh bướm. Được xem như một trong 7 loại cỏ tượng trưng cho mùa thu.

(5) - Tarashikomi (lựu nhập) là lối tô màu bằng cách cho một màu mới lên tranh trước khi màu trước chưa khô hẳn. Cách màu thấm vào mặt tranh như thế sẽ gây ra một hiệu quả mỹ thuật đặc biệt. Thường được các họa gia trường phái Sôtatsu là Kôrin áp dụng.

(6) - Cho đến năm vừa rồi (2021), tuổi thành nhân của trai gái Nhật Bản là 20, nay đã kéo xuống 18.

(7) - Yuuzen (Hữu Thiền, 1688-1704), một nghệ nhân ngành nhuộm vải vóc thời Edo và là người sáng chế ra cách nhuộm mang tên ông.)