Cái
tên "truyện ngắn trong lòng bàn tay" đến từ tiếng Nhật
"tenohira no shôsetsu" (chưởng tiểu thuyết) như cách gọi của
hầu hết các nhà văn học sử. Đó là một thể loại tác
phẩm văn học có đặc điểm là ngắn, ngắn đến nỗi có
thể gói trọn trong lòng bàn tay. Thể loại này còn được
nhà phê bình văn học Chiba Kameo (1878-1935), một người cổ
vũ cho văn học đại chúng dưới thời Taishô (1912-26) gọi
là "shôhen shôsetsu" (chưởng biên tiểu thuyết). Ngoài ra, nhà
phê bình Hasegawa Izumi (sinh năm 1918), một người thân cận
với Kawabata, đã chủ trương phải đọc là "tanagokoro shôsetsu" [1]
tuy viết cùng ba chữ Hán "chưởng tiểu thuyết". Hasegawa kể
lại mình vì thắc mắc nên đã hỏi ý kiến Kawabata và được
chính nhà văn đồng ý về cách đọc này [2].
Khi dịch ra tiếng Việt, chúng tôi rất bối rối, không biết
nên gọi "trong lòng bàn tay", "một gang tay" hay "trong gan bàn
tay". Sau khi tham khảo cả lối hiểu của người Tây Phương
(palm [3],
paume), xin tạm giữ lối gọi "trong lòng bàn tay" cho giống
mọi người. Có thể dịch là "truyện cực ngắn" nhưng làm
như thế lại đánh mất cái tên rất gợi hình của nó.
Trước
Kawabata và đồng thời với ông, đã có nhiều người viết
những truyện rất ngắn từ một vài hàng đến mươi hàng
hay một hai trang. Tiêu biểu nhất - về độ ngắn mà thôi
- từ xưa đã có những công án hay truyện thiền (Vô Môn Quan,
Bích Nham Lục hay Sa Thạch Tập). Một thoại của Vô Môn Quan
(tác phẩm Trung Quốc đời Tống nhưng đã đến Nhật rất
sớm, giữa thế kỷ 13) vỏn vẹn có vài giòng (ví dụ thoại
"Triệu Châu cẩu tử" dài đúng có ba hàng). Những mẩu truyện
của Natsume Sôseki (1867-1916) trong Yume Juuya (Mười Đêm Mộng
Mị, 1908) tuy ảm đạm và huyền bí hơn nhưng cũng rất ngắn,
rất thơ, gần với tác phẩm đến sau của Kawabata. Thân thể
đàn bà (Nyôtai) của Akutagawa Ryuunosuke (1892-1927) cũng ngắn
gọn, thâm trầm. Một tác giả Mỹ đồng niên đại với Kawabata
là E. Hemingway (1899-1961) đã để lại những truyện cực ngắn
như Up to Michigan, thu được trong lòng bàn tay.
Tuy
nhiên điều quan trọng cần nêu ra đây là hành trình đi vào
"truyện ngắn trong lòng bàn tay" của Kawabata không phải là
một hành trình đơn độc. Ông chỉ là một người trong nhóm
bút trẻ của tờ Bungei Jidai (Văn Nghệ Thời Đại) đã cùng
nhau đăng trong số báo tháng 2 năm Taishô 14 (1925) một loạt
truyện cực ngắn chỉ có từ mươi đến vài mươi giòng.
Tên tuổi các cây bút trẻ cùng chí hướng đã thể nghiệm
hay chú ý về mặt lý luận của loại tiểu thuyết cực ngắn
thời đó nay còn được nhắc tới là hai người bạn của
Kawabata: Yokomitsu Riichi (1898-1947) và Nakagawa Yoichi (1897-1994)...
cũng như những người ít được biết đến hơn như Kon Tôkô,
Okada Saburô, Takeno Fujinosuke, Suga Tadao, Kamiya Kiichi, Suzuki Ganjirô,
Ishihama Kinsaku vv...Đặc biệt Nakagawa và Okada rất năng nổ
trong việc khai triển và định hướng cho thể loại văn học
này.
Tuy
nhiên, Kawabata mới là người nổi bật hơn cả trong lãnh vực
truyện ngắn trong lòng bàn tay. Ông sáng tác nhiều nhất và
đã tạo một văn phong đặc biệt cho nó [4].
Ngày nay, khi nói đến thể loại văn học này, người ta hầu
như chỉ biết có ông. Với ông, truyện ngắn trong lòng bàn
tay không còn là một thứ phác thảo (croquis) mà nhà văn ghi
lại để chuẩn bị cho một tác phẩm lớn sắp viết. Nó
đã trở thành một thể loại văn học với những nét đặc
thù. Có khi, ông còn ký thác cho nó một nhiệm vụ đặc biệt
như khi thay vì khai triển, lại đúc kết một tiểu thuyết
khá dài (Xứ tuyết, Yukiguni, 1935-47) thành một truyện ngắn
trong lòng bàn tay (Ghi chép về xứ tuyết, Yukigunishô, 1972).
Có
thể nói truyện ngắn trong lòng bàn tay của Kawabata đứng
giữa biên giới của thơ, tùy bút, hồi ký và truyện ngắn.
Nhiều khi ta thấy ông như người kể lại những gì xảy ra
trong một giấc mơ. Thay vì làm thơ, ông lồng khung những bài
thơ định viết trong tác phẩm văn xuôi. Thể loại văn chương
này thích hợp với bản tính ông, một con người mơ mộng,
tinh tế và nhạy cảm. Thêm vào đó, khuynh hướng mới duy
tâm lý [5]
trong văn học mà ông là một người chủ trương ở Nhật
cũng phù hợp với lối hành văn và nội dung của các tác
phẩm ấy.
Theo
lời giải thích của Yoshimura Teiji [6]
thì sở dĩ Kawabata viết loại truyện ngắn này là muốn "thể
hiện cái hồn thơ nơi mình hồi còn trẻ" mà về sau ông có
lần xem như là "một sai lầm" và nhiều khi "đâm ra tự ghét
mình" (?). Không hiểu thái độ đó bắt nguồn từ một lý
do thầm kín nào hay chẳng qua là một phản tỉnh về mặt
kỹ thuật, nhưng các đứa con tinh thần của ông không vì
những nhận định tiêu cực của người sinh thành ra nó mà
kém được độc giả yêu chuộng.
Tuy
nhiên phải nói rằng chỉ trong giai đoạn trước 1926, ông
mới viết nhiều thể loại này (36 truyện), sau đó ít đi
và có khi lại gián đoạn không viết nó trong một khoảng
thời gian dài. Thời kỳ 1944-50 rồi 1960-64, ông có vẻ sung
sức hơn so với các giai đoạn khác. Thời kỳ trước tương
ứng với thời điểm sáng tác Tiếng trên ngàn (Yama no oto,
1954) và Ngàn cánh hạc (Senbazuru, 1952), thời kỳ sau là lúc
ông viết Người đẹp ngủ say (Nemureru Bijô, 1961), Cố đô
(Koto, 1962) và Cánh tay (Kataude, 1965).
Hasegawa
Izumi [7]
thu thập được 147 truyện ngắn trong lòng bàn tay mà Kawabata
đã cho đăng tải suốt thời gian từ 1921 đến 1972, nghĩa
là trên nửa thế kỷ. Đầu tiên là truyện mang tên Dầu (Abura)
đăng trên tạp chí Shinshichô tháng 7 năm 1921. Ghi chép về
xứ tuyết (Yukiguni-shô), truyện ngắn trong lòng bàn tay cuối
cùng đã đăng trên tạp chí Sunday ngày 13 tháng 8 năm 1972.
Có thể Kawabata viết với một số lượng lớn hơn nữa nhưng
không đem đăng, nhiều khi còn gạt bớt những truyện đã
đăng trên báo ra ngoài tuyển tập. Với 147 truyện trong lòng
bàn tay, chắc Hasegawa là người thu lượm được nhiều nhất.
Toàn tập 37 quyển của Kawabata do nhà xuất bản Shinchô Bunko
ấn hành chỉ gom được 122 truyện và cho cả vào quyển thứ
nhất. Cũng cần nói thêm rằng tuyển tập văn chương đầu
tay của Kawabata được in ra đã là một tập truyện ngắn
trong lòng bàn tay, nhan đề Điểm tô tình cảm (Kanjô sôshoku),
gồm 36 truyện đăng trong Bungei Jidai số tháng 7 năm 1926.
Về
mặt phân loại nội dung, nếu chúng ta đồng ý với Yoshimura
Teiji [8]
thì truyện ngắn trong lòng bàn tay của Kawabata [9]
có thể chia ra thành nhiều chùm mang đặc điểm khác nhau:
1)
Chùm truyện có tính cách tự thuật với những truyện liên
quan đến hoàn cảnh mồ côi cha mẹ và cuộc sống bên cạnh
người ông mù lòa như Hốt cốt (Hone hiroi, 1949), Hướng
nắng[10]
(Hinata, 1923), Mẹ (Haha, 1926), Hai mươi năm (Nijuunen, 1925)
...
2)
Chùm truyện có tính cách tự thuật liên quan đến mối tình
đầu như Món đồ dễ vỡ (Yowaki Utsuwa, 1924), Người
con gái đi về phía lửa (Hi ni yuku kanojo, 1924), Chiếc dù
đi mưa[11]
(Amagasa, 1932), Cái cưa và sinh nở (Nokogiri to shussan, 1924), Cái
huông của tác phẩm đầu tay (Shojosaku no tatari, 1927), Tấm
ảnh [12]
(Shashin, 1924)...
3)
Chùm truyện lấy bối cảnh miền Izu thơ mộng với các bến
cảng, suối nước nóng nơi đó có những nàng con gái tươi
tắn, đầy sinh lực, biết vượt khó khăn trong cuộc sống.
Ví dụ Tóc (Kami, 1924), Nàng o-Shin tâm bồ tát (O-Shin
Jizô, 1925), Bến cảng (Minato, 1924), Chiếc giày mùa hạ
(Natsu no Kutsu, 1926), Chiếc nhẫn (Yubiwa, 1924), Mùa đông gần
kề (Fuyu chikashi, 1926), Kẻ trộm quả dâu lá bạc [13]
(Gumi nusutto), Lời nguyện cầu của người trinh nữ (Shojo ni
inori, 1926), Người đẹp trên lưng ngựa (Uma bijin), Kami imasu
(Có ông trời, 1926), Đôi mắt mẹ [14]
(Haha no me,1928), Ghềnh đá trơn trợt (Suberi iwa, 1925) Tòa lâu
đài (Gyokudai, 1925), Cám ơn (Arigatô, 1925), Biển (Umi,
1925), Cô tiểu thư ở Suruga (Suruga reijô, 1927) ...
4)
Chùm truyện với bối cảnh của xóm bình dân Asakusa nơi còn
đọng cái duyên thầm của Edo lịch sử. Phần này tuy không
nhiều nhưng có thể kẻ đến Xướng ngôn viên người Nhật
(Nihonjin anna, 1929), Con gà và cô đào hát (Tori to Odoriko, 1930),
Oshiroi to gasolin (Phấn và dầu xăng), Ông chồng bị trói (Shibarareta
Otto, 1930)...
5)
Chùm truyện giống như những bức ảnh bắt chụp quang cảnh
thời thời hậu chiến, nói đến những thể nghiệm tâm lý
trong sinh hoạt bản thân và con đường đi về cõi người
già như trong Người đàn ông không cười (Warawanu otoko, 1929),
Con thuyền lá tre (Sasabune, 1950), Hoa mơ hồng (Kôbai, 1948), Quả
trứng (Tamago, 1950)...
6)
Chùm truyện mô tả thế giới huyền ảo của những giấc
mơ. Chiếc xe tang (Reikyuusha, 1926), Lũ cá vàng trên sân thượng
(Okujô
no Kingyo, 1926), Chết chung vì tình (Shinjuu, 1926), Vượt qua cái
chết (Fuji, 1963) là những ví dụ.
Mười
lăm truyện sau đây trích dịch từ nguyên tác theo bản bỏ
túi Tenohira no Shôsetsu do nhà xuất bản Shinchô Bunko thực hiện
năm 1971, tái bản lần thứ 25 vào năm 1983. Tập này chỉ có
111 truyện. Nếu muốn dịch trọn vẹn 147 truyện, phải tìm
thêm nguyên tác bên ngoài. Cách đánh số truyện dịch từ
1 đến 147 tuân theo thứ tự thời gian xếp đặt rất công
phu bởi Hasegawa Izumi.
Nói
về nghệ thuật viết đoản thiên, chúng ta biết ở phương
tây có những tên tuổi lớn như Guy de Maupassant, Anton Tchekhov,
thế nhưng theo Yoshimura Teiji [15],
người đáng kể hơn cả trong lãnh vực truyện ngắn có tính
cách tâm linh [16]
hay tâm lý là L'Isle-Adam [17].
Ông là một nhà văn Pháp thế kỷ 19, xuất thân quí tộc,
sống phóng đãng, vượt khỏi thế tình, từng được các
thi nhân từ Baudelaire, Mallarmé đến Verlaine kính nể. Chính
ông mới là người đã để lại dấu ấn trong các tác phẩm
của Mishima và nhất là chùm truyện ngắn trong lòng bàn tay
của Kawabata. Điều đó có thể thấy được qua Tà dương
(Rakujitsu, 1925) hay Tiếng chân con người (Ningen no ashioto), hai
tác phẩm với âm hưởng của thơ siêu thực và là những
tác phẩm sắc sảo, tươi mới, vạch được những gì mang
ý nghĩa độc đáo, chưa ai khám phá ra nơi tâm hồn con người.
Xin
thú thực là công việc dịch thuật từ nguyên tác đòi hỏi
một khả năng ngôn ngữ cao mà bản thân người dịch chưa
đạt được, không kể sự khó khăn khi muốn truyền đạt
cái tinh tế trong lối hành văn ngắn, gọn, hàm súc của Kawabata.
Chưa nói đến việc có người còn cho rằng những truyện
ngắn trong lòng bàn tay của Kawabata tự chúng đã mơ hồ và
bí ẩn như nụ cười của người đẹp Mona Lisa. Nó làm cho
vai trò tham gia của độc giả trong việc thưởng thức tác
phẩm của Kawabata rất đáng kể.
[1]
- ta= âm cổ của te=tay; na=âm cổ của no= của. gokoro =âm đục
của kokoro=lòng. Như thế tanagokoro nghĩa là "lòng bàn tay",
cũng như tenohira hay tenoura.
[2]
- Xem Khảo Luận về Kawabata (Kawabata Ronkô, 1991) của Hasegawa
Izumi, Meiji Shôin xuất bản, trang 481.
[3]
- Palm-of-the-hand Stories như Lane Dunlop và J. Martin Holman (Tuttle
Publishing, Tokyo, 1988) đã dùng. Palm = the inner surface of the hand
between the wrist and fingers. (Oxford)
[4]
- Nhà phê bình Hasegawa Izumi dùng chữ "cổ kim độc bộ" (kokondoppo)
để nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kawabata trong việc phát
triển thể loại văn chương này.
[5]-
Khuynh hướng gọi là Shin-Shinri-ha (Neo- Psychologism) chịu ảnh
hưởng của tâm phân học, chủ trương miêu tả và giải thích
một cách chủ quan những vùng sâu kín trong tâm lý con người
như bản năng, tiềm thức...Ở Anh có James Joyce, Virginia. Wolf,
Pháp có Marcel Proust. Nhật có Itô Sei, Kawabata Yasunari, Yokomitsu
Riichi và Hori Tatsuo (theo từ điển Kôjien). Những nhà văn học
sử khác lại đặt Kawabata vào nhóm Shin-Kankaku-ha (Neo-sensualism)
với Nakagawa Yoichi, Kataoka Teppei, Yokomitsu Riichi và những người
chủ trương tạp chí Bungei Jidai. Dầu sao, hai phái nói trên
đều chủ trương duy mỹ và vị nghệ thuật.
[6]
- Xem lời bạt của ông trong Truyện Ngắn Trong Lòng Bàn Tay
(Tenohira no Shôsetsu), Shinchô Bunko xuất bản, 1971, tái bản
lần thứ 25 vào năm 1983, trang 485.
[7]-
Xem sách đã dẫn, trang 486-498.
[8]
- Xem sách đã dẫn, trang 497-498.
[9]
- Nhiều truyện trước đây đã được các dịch giả Nhật
Chiêu, Hoàng Long... giới thiệu với độc giả Việt Nam.
[10]-
In đậm là những chuyện được dịch lần nầy.
[11]
- Sẽ dùng lai trong Lửa phương nam (Nanpô no hi).
[12]
- Sẽ được làm sống lại trong Thủy tiên (Suisen). Xem bản
dịch của Quỳnh Chi.
[13]
- Tạm dịch từ chữ Gumi (Alaeagnus commutata = silverberry), một
loại dâu lá bạc, cành nâu đỏ, thường thấy ở Bắc Mỹ.
[14]
- Xem bản dịch của Quỳnh Chi.
[15]
- Sách đã dẫn, trang 498-499.
[16]
- Spritual, spriritualistic.
[17]
- Auguste de Villiers de l'Isle-Adam (1838-1889). |