Mà
này, quí vị có nhớ ai đã 'làm' ra chữ quốc ngữ không nhỉ?
Xin mời quí vị đọc tài liệu lấy từ internet để thấy
Sao Khuê là người nói có sách mách có chứng và lý do tại
sao Sao Khuê lại dẫn quí vị qua Portugal chơi :
Tờ MISSI (do các cha dòng
Tên người Pháp điều khiển) nói về công trình khai sinh chữ
Quốc ngữ với tựa đề: "Khi cho Việt Nam các mẫu tự La
Tinh, cha Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến
3 thế kỷ".Tiếp đến, tờ MISSI viết:
"... Khi chính thức xác định
mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican,
quyển tự điển đầu tiên 'La
tinh- Bồ - Việt Nam' và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc
ngữ, cha Alexandre de Rhodes đã 'giải phóng' nước Việt Nam.
"... Thật vậy, giống như
Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn xử dụng
chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này.
Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế
biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì,
sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở
về với lối viết tượng hình biểu ý như người Tàu.
"... Trong khi đó, người
Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La
Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến
nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công
ơn của cha Alexandre de Rhodes Đắc Lộ, đã tiến bộ trước
người Tàu đến 3 thế kỷ.
"... Dĩ nhiên, không phải
chỉ riêng mình cha Đắc Lộ khởi xướng ra chữ Quốc ngữ.
Trước đó, các cha thừa sai dòng Tên người Bồ Đào Nha ở
Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng
các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, cha Đắc Lộ là người
đưa công trình chế biến chữ Quốc ngữ đến chỗ kết thúc
vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm mà cuốn
tự điển Việt-Bồ-La chào đời. Đây cũng là năm sinh chính
thức của chữ Quốc ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại Roma,
nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận
được chữ viết của mình.
"... Đã từ lâu đời, người
Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ
sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không thể đọc
và viết được chữ Tàu, vì theo lời cha Đắc Lộ, Tàu có
đến 80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu
tiên khi đến Việt Nam, đã bắt đầu dùng mẫu tự La Tinh
để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt.
Khi cha Đắc Lộ đến Việt Nam, đã có một số phát âm tiếng
Việt được viết bằng chữ La Tinh rồi. Vì thế, có thể
nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ Quốc ngữ trước tiên
là một công trình chung của các nhà thừa sai tại Việt Nam.
Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng
Việt của mình, là cùng lúc, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra chữ
viết này, ban đầu được các nhà truyền giáo sử dụng,
sau đó, được toàn thể dân Việt Nam dùng.
Cha Đắc Lộ sinh tại Avignon,
miền nam nước Pháp. Ông gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24
tháng 4 năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân
tộc đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, cùng với đà tiến
này, Giáo hội Công giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão của
chính quyền các dân tộc được rao giảng Tin Mừng. Vì thế,
bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn
được đổ máu đào minh chứng cho Chúa Jesus của các vị
thừa sai tiên khởi. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành
phố Rhodes (bán đảo Iberia) ), tổ tiên sang tị nạn dưới
bóng Giáo Hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo Hoàng,
nên tên ông là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ). Người
Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ.
Cha Alexandre de Rhodes đã xin
và được Bề Trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản.
Ngày 4 tháng 4 1619, ông lên đường vào tuổi 26, cùng với
kiến thức sâu rộng về thiên văn học và toán học. Cha Alexandre
là một người cường tráng, vui vẻ và lạc quan, luôn nhìn
khía cạnh tích cực của vấn đề. Ông thích nghi nhanh chóng
với mọi môi trường sống và cư xử giản dị trong giao tế
với người khác. Đầu tiên, cha Alexandre de Rhodes cập bến
tại Goa, đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất
Nhật Bản. Nhưng tình hình bách hại Kitô Giáo dữ dội tại
đây đã khiến các Bề Trên buộc lòng chỉ định ông đi
Trung Quốc. Ông lên tàu đi Ma Cao, ở đó ông đã ghi lại những
nhận xét về người Trung Hoa:
"Người Trung Hoa rất ngạc
nhiên khi nhìn thấy bản đồ chúng tôi vẽ. Trung Quốc vĩ
đại của họ chỉ còn là chấm nhỏ trong vũ trụ Trái Đất
bao la. Trái lại, nơi bản đồ trái đất hình vuông do họ
vẽ, Trung Quốc nằm chính giữa, đúng như tên gọi (Trung Quốc-nước
ở giữa). Sau đó, họ vẽ biển nằm bên dưới Trung Quốc,
trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Châu Âu,
Châu Phi và Nhật Bản..."
Đầu năm 1625, cha Alexandre
cùng với bốn cha dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản,
cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu học tiếng
Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng
Việt cho ông là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông viết:
"Chỉ trong vòng 3 tuần lễ,
chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác
nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ.
Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu,
thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu
được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói
với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng
Latin và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc
nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu
bé. Sau đó, cậu trở thành thày giảng giúp việc các cha truyền
giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan
báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thày và
nơi Vương quốc Lào láng giềng."
Từ đó, Việt Nam trở thành
quê hương thứ hai của cha Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời
truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi.
Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng
sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam
khi cơ hội cho phép.
Ông đến truyền giáo ở
Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên
và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng.
Thời gian cha Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng
là thời kỳ các cha thừa sai dòng Tên hoạt động rất hăng
say và hữu hiệu. Riêng cha Alexandre de Rhodes, ông đã truyền
đạo từ Nam ra Bắc.
Ông kể lại công cuộc truyền
giáo tại Bắc Phần:
"Khi chúng tôi vừa đến
kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải
xây một nhà ở và một nhà thờ thật đẹp. Dân chúng tuôn
đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng
đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân
trong gia đình vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng
lãnh và binh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc
nhiên nhất là có các vị sư cũng đã đạo Công giáo. Tất
cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu
giáo lý đạo Công giáo rất phù hợp với lý
trí và lương tâm con người. Các tín hữu Công giáo
Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể
rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ
suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự thánh
lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn
cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không
có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy
mình là linh mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo
bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên
không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như
có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người
này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng
sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ
vâng lời các cha thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện
tại có tất cả 100 thày giảng đang được thụ huấn trong
chủng viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn."
Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn
vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Khi trở lại châu Âu,
Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công
cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin Tòa Thánh gửi
các giám mục truyền giáo đến Á Châu, để các ngài có thể
truyền chức linh mục cho các thày giảng bản xứ.
Ông mất ngày 5 tháng 11 năm
1660 ở Ispahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất
khỏi Việt Nam.
Quan điểm hiện nay cho rằng
các giáo sĩ vừa đi truyền đạo vừa làm gián điệp. Nếu
nói rằng các nhà truyền đạo là gián điệp thời xưa thì
hơi gay gắt. Nhưng trong khi vua chúa Pháp còn mê mải bởi các
trận chiến tranh giành đất ,giành người hay vì đam mê tửu
sắc, cản trở bởi quần thần trong triều đình, hay lo hưởng
thụ, thì Giáo Hoàng đã gởi riêng các giáo sĩ đi khắp nơi
để truyền giáo trên thế giới. Chính vì các giáo sĩ đi
đó đi đây, biết cảnh biết người, tiếp xúc nhiều, có
khả năng phán đoán và nhận xét một cách khoa học, được
giáo dân tôn trọng kính nể, họ là những nguồn tin tức
sống động và đáng tin cậy, và trên thực chất họ là những
người đi khai phá.
Mãi cho đến thế kỷ thứ
16, theo lịch sử chánh thức của triều đình Việt Nam (Khâm
Định Việt Sử) thì từ năm 1533 đời vua Lê Trang Tông có
chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở Việt Nam.
Vào năm 1651, giáo sĩ Đắc
Lộ cho in cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum
Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những
giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây
là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ.
Năm 1961, nhân dịp kỷ niệm
300 năm ngày qua đời của cha Alexandre de Rhodes, nguyệt san MISSI,
do các cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, đã dành trọn
số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ, một
nhàgiáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung
và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng.
Bản thân Alexandre de Rhodes
đã viết như sau
"Khi tôi vừa đến Nam Kỳ
và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi
có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra
ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói
được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai
cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông
dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được
tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại
nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó
tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho
được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt
y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn
Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng
Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng
được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng
Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông
dịch lại."
Nguyệt san MISSI đã ca ngợi
vai trò của Alexandre de Rhodes hơi quá, vì chính họ cũng viết
rõ là trướcAlexandre de Rhodes đã có một số nhà truyền giáo
ghi lại tiếng Việt bằng chữ cái La tinh, nhưng tiếp theo
đó lại tôn vinh de Rhodes là người khai sinh ra chữ Quốc ngữ.
Tuy nhiên, De Rhodes rõ ràng đã có công lớn trong việc hệ
thống hóa việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái La tinh một
cách đầy đủ. Nhờ cuốn từ điển Việt-Bồ-La của ông,
chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến trong cộng đồng
Ki-tô giáo Việt Nam, đặt nền móng cho việc sử dụng rộng
rãi sau này.
Ngoài cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La
Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum đã được
Kho Tàng trữ của Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha scan và đưa
lên mạng Internet, còn có nguyên bộ các tác phẩm khác trong
ấn bản đầu tiên ở thập niên 1650 mà Giáo sĩ Đắc-Lộ
viết bằng tiếng Latin và tiếng Pháp có thể tìm thấy tại
Thư viện Maurits Sabbe của Đại học Công giáo tại Louvain
(Université catholique de Louvain) tại Bỉ. Ngoài ra, có thêm một
số ấn bản hoặc tái ấn bản cũng được tìm ra trong cơ
sở dữ liệu PORBASE của Liên hiệp các thư viện.
Phần trên đây chỉ là sưu
tầm trên mạng, có thể có điều không chính xác, xin quí
vị tuỳ nghi thẩm định, riêng Sao Khuê phải đổ xăng cho
mấy cái bao tử đã.
Sau khi đi siêu thị mua thức
ăn, trái cây, ăn tối và ngủ đêm, sáng hôm sau 10-6-2008 phái
đoàn của Sao Khuê rời Portugal để …trở về Espagne, tiếp
tục cuộc hành trình ' Đi tìm sự thật'…Tuy Portugal không
đô hộ chúng ta như người Pháp nhưng giữa Việt nam và Bồ
đào Nha cũng có nhiều "duyên". Quí vị, nếu để ý sẽ thấy
chữ viết Việt và Bồ có nhiều dấu ngã. Portugal tuy là một
nước nhỏ nhưng cũng có nhiều cảnh đẹp lắm xứng đáng
để đi thăm không phải một mà nhiều lần quí vị ạ.
Sao
Khuê (2008)