|
|
Hình 1: Quán rượu
kèm món nhậu truyền thống, tồn tại từ 1929 đến
nay, tuy ở Madrid nhưng mang tên Alhambra.
|
Hình 2: Một phần
quần thể Alhambra với danh hiệu "pháo đài đỏ". Nhìn
từ xa, khá thô kệch, vào bên trong mới thấy những
nét đẹp tiềm ẩn.
|
Trong số các kiến trúc
phong cách Hồi giáo, cổ thành Alhambra và đền Taj Mahal
là 2 điểm đến khá nổi tiếng với khách du lịch
thế giới. Đền Taj Mahal ở Agra, Ấn Độ, tổ chức
đi thăm viếng quá nhiêu khê, nên tôi phải (tạm?) gác lại,
chưa may mắn được trực tiếp mắt thấy tai nghe. Quần
thể Alhambra, tôi đã thực mục sở thị trong chương trình
2 ngày lang thang tại thành phố Granada.
Xin được phép nêu câu hỏi
rằng có phút giây nào quý bạn đọc đã bị tiếng
nhạc "Recuerdos de la Alhambra/Nhớ Alhambra" của Francisco
Tárrega làm cho mê hoặc? Nhiều người quả quyết
như đinh đóng cột, bất cứ ai chơi Tây Ban Cầm phong
cách cổ điển hay flamenco, nếu nhuần nhuyễn với tremolo
(kỹ thuật dùng từ 2 đến 3 ngón tay phải, móc dây đàn
liên tục, là đòi hỏi cơ bản khi chơi "Recuerdos de la
Alhambra") thì coi như "đạt". Bỏ qua kiểu đánh giá
này, bản thân tôi - chỉ đủ khả năng ôm guitar năm thì
mười họa, ngày đực ngày cái - từ mấy chục năm
qua, vẫn cảm thấy nhạc phẩm này rất quyến rũ, mà
không thể giải thích tại sao. Cứ mỗi lần cung đàn
"Nhớ Alhambra" vang lên, tôi nghe như tiếng một loài
chim ăn đêm nào đó, lìa cành rời cội bay đi, thảng
thốt vang vọng, chọc thủng không gian tù mù của ký ức.
Hay đó là linh hồn Thục Đế, đầy tiếng khắc khoải,
như trong bài thơ chữ Nôm "Cuốc kêu cảm hứng"
của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
Khắc khoải sầu đưa giọng
lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác
bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè
vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt
mờ.
...
Nhưng từ vài năm nay, sau
khi tôi được ghé thăm cổ thành Alhambra, những nốt
nhạc quyến rũ nói trên lại chuyển hướng, dần dần
đi sâu vào các ngõ ngách khác của tâm hồn, tìm cách
ngự trị mọi cung bậc rung cảm không thể nào nắm bắt
cụ thể. Nhiều nhà phê bình âm nhạc, khẳng định chủ
đề của "Nhớ Alhambra" là ký ức về âm thanh vang
vọng, từ các vòi phun nước róc rách thuộc khu vườn
thượng uyển. Hơn 1 thế kỷ trước, đúng ra là vào
năm 1896, Francisco Tárrega trong một chuyến lưu diễn, ghé
Granada, rồi được đưa đi thăm viếng cổ thành Alhambra.
Đã ngoại tứ tuần (44 tuổi), Francisco Tárrega không còn
"máu mặt" sôi nổi của thời trai trẻ, nhưng thấm thía
Alhambra đẹp ngây ngất, "chàng" bỗng biến thành cậu
bé đang tuổi dậy thì, bất chợt tìm thấy mối tình
đầu. Nhạc phẩm này mở mắt chào đời trong hoàn
cảnh như thế đấy. Quý bạn đọc có thể nghe thử,
qua tiếng đàn của nữ nghệ sĩ Kim Chung, theo đường
dẫn sau: https://www.youtube.com/watch?v=J3b2DKcBrPg
Alhambra nguyên thủy chỉ đóng
vai pháo đài quân sự (cho đến cuối thế kỷ IX), tọa
lạc trên ngọn đồi cao áp sát dòng sông Darro, chảy qua
thành phố Granada. Chiếm vị thế chiến lược quan trọng,
từ thế kỷ XIII nó dần dần được xây cất mở rộng
thêm ra, biến thành một quần thể kiến trúc bao gồm
cung điện, thành quách, doanh trại, vườn thượng uyển
v.v. Alhambra có thể bắt nguồn từ gốc tiếng Ả rập
mang ý nghĩa "pháo đài đỏ/al-Qal’ah al-Hamra", là thành
trí cuối cùng của lực lượng Hồi giáo trên báo đảo
Iberian, theo kiến trúc Hồi giáo, hay nói chính xác hơn,
phong cách người Moor. Chủng tộc người Moor (chỉ là
tên do người Âu châu thời Trung cổ đặt ra, không có
giá trị về mặt chủng tộc học) là hỗn hợp nhóm
người du mục thiện chiến Berbers Bắc Phi, người Ả
Rập quanh vùng Damascus. Các triều đại vua chúa gốc Moor
thay nhau cai trị miền Nam Tây Ban Nha (Andalusia) suốt gần
800 năm, đến 1492 mới hoàn toàn cáo chung.
Sự giao thoa mang tính lịch
sử, từ tất cả những yếu tố nói trên, đã sản
sinh ra nền văn hóa, nghệ thuật độc đáo. Alhambra được
UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới năm 1984, là một
minh chứng cụ thể, cái đẹp bao gồm nhiều chi tiết
cột kèo, khung hình cung, hoa văn, chạm trổ, gạch lát
tường, sàn, trần nhà. Tiếc là khả năng nhiếp ảnh
của tôi quá tệ, nên nhiều hình ảnh trưng ra trong bài
viết này, không diễn tả được hết các nét đẹp
tuyệt vời, sáng tạo từ bàn tay quý báu của nhiều
nghệ nhân, thợ xây cất, công trình sư v.v. mà tên tuổi
tiếc thay đã tan biến và bị xóa nhòa trong quá khứ.
Chiến tranh thắng bại, gặm nhắm thời gian, thiên tai
v.v. cũng để lại khá nhiều dấu tích hủy hoại:
a) Sau thời kỳ Reconquista (1492),
Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh Charles V, ra lệnh
phá bỏ một số di tích để lấy chỗ xây cung điện
mới theo kiến trúc phong cách Phục Hưng (1526). Hậu duệ
ông ta sau đó từ chối về sống ở đây, hậu quả:
quần thể Alhambra bị bỏ hoang cho đến đầu thế kỷ
XVIII, có thời gian từng bị sử dụng làm nhà tù, nên
xuống cấp trầm trọng.
b) Quân đội Napoleon (1812)
sau trận đánh chiếm Granada đã gây ra bao nhiêu hư hại
cho cổ thành Alhambra, thậm chí ông ta còn dự tính phá
hủy nó sau khi rút quân. Hoàng đế Napoleon Bonaparte - nổi
tiếng trong lịch sử - vì trong chiến dịch càn quét các
vương quốc Âu châu, đã thâu tóm/cướp trắng trợn
rất nhiều tác phẩm mỹ thuật, đa số là họa phẩm
nổi tiếng, đem về Pháp.
c) Tường thành nứt nẻ,
đất chuồi v.v. xảy ra sau nhiều cơn địa chấn nhỏ trong
quá khứ, với trận động đất cuối cùng năm 1821.
Nhưng trước tiên xin được
lướt qua một số khái niệm kiến trúc căn bản, liên
quan đến quần thể Alhambra. Trên nguyên tắc, Hồi giáo
không cho phép con người sáng tạo ra sinh vật qua bất
cứ hình thức nghệ thuật nào, vì đó là quyền năng
tối thượng duy nhất của Allah (Thượng
Đế), vừa vô hình lại vừa hiện hữu khắp mọi
nơi. Thăm viếng Alhambra, chúng ta hầu như sẽ không thấy
kiểu trang trí dùng hình tượng sinh vật, con người
(với ngoại lệ là Cung điện Sư tử/Court of the Lions,
chi tiết xin xem tiếp ở phần sau). Thay vào đó là các
họa tiết kết hợp từ hoa lá, hay thư pháp dùng chữ
viết Ả rập, đa số trích từ kinh Qur’an, vừa lộng
lẫy, vừa tinh xảo, mượn ảnh hưởng tổng hợp màu
sắc, ánh sáng để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật
có một không hai.
|
|
Hình 3: trần nhà Sala
de las dos Hermanas, cung điện Palacios Nazaries
|
Hình 4: hoa văn, thư
pháp trên tường trong cung điện Palacios Nazaries
|
Có thể xuất phát từ
các kiểu trang trí bằng hoa văn nói trên mà khái niệm
nghệ thuật Arabesque xuất hiện tại Âu châu thời
kỳ Phục Hưng. Và Arabesque sau này đã lan sang âm nhạc,
múa ballet v.v. Tuy nhiên đây là đề tài còn gây nhiều
tranh cãi và nhiêu khê, nên xin được bàn lại trong một
dịp khác.
Thông thường kiến trúc
mang phong cách Hồi giáo cổ xưa, nếu có tường cao bao
bọc, nhìn từ bên ngoài, chúng ta khó biết đó là nơi
thờ phượng, hay cung điện vua chúa. Nói thế để chúng
ta hiểu rằng, kiến trúc đặc trưng Hồi giáo về
đại thể khá uyển chuyển, quần thề ít nằm theo
một trục đối xứng nhất định, thường không có một
tâm điểm, các phần mở rộng, cũng ít dựa theo một
quy luật nhất định. Ngoài ra kiến trúc phía bên ngoài
(tương đối đơn giản) đôi khi đối kháng với trang trí
bên trong (lộng lẫy, chi tiết).
|
Khung
hình cung móng ngựa/ horseshoe arch
không ít thì nhiều là đóng góp của kiến trúc Hồi
giáo, phát triển từ loại khung hình cung thô sơ của các
bộ tộc Visigoths, kể cả Hy Lạp, La Mã thời cổ đại.
Khung hình cung nhọn đầu
xuất hiện trong nhiều kiến trúc của người Moor, sau
này được phát triển và áp dụng trong kiến trúc Gô-tích. |
|
Hình 6: 3 khu vực chính
thuộc quần thể Alhambra
|
Diện tích quần thể Alhambra
(không tính khu Generalife) khá khiêm tốn, bề dọc
chừng 750 thước, bề ngang chỗ rộng nhất hơn 200 thước,
toàn bộ chu vi tường thành bao bọc chừng 2000 thước,
có 7 cửa ra vào và 29 vọng gác to nhỏ, cơ bản được
chia làm 3 khu vực chính (Hình 6):
- Khu doanh trại quân sự
Alcazaba: nơi sinh sống của binh lính lực lượng phòng
vệ.
- Khu hoàng cung: Nasrid
Palaces, Lion’s Court, Medina v.v. hoàn toàn dành riêng cho vua
chúa, quý tộc, kẻ hầu người hạ v.v.
- Khu vườn thượng uyển
Generalife Garden: nằm đối diện với quần thể Alhambra,
nơi vua chúa đến nghỉ ngơi, xả xì-trét.
Hằng năm (đại dịch Covid-19
là ngoại lệ) số khách du lịch đạt mức kỷ lục, từ
2 đến 3 triệu. Tuy nhiên để tránh tình trạng ô nhiễm
do quá đông người có thể gây hư hại di tích, ban tổ
chức hiện nay chỉ cho phép chừng trên 8000 lượt du khách
mỗi ngày được vào thăm viếng. Vì thế đặt vé
trước khi vào tham quan Alhambra là việc tối cần thiết,
đặc biệt các tháng mùa Xuân, mùa Hạ. 1 ngày thăm
viếng có thích hợp chăng thì tùy sở thích khách lữ
hành: vừa tạm đủ hay chỉ "cưỡi ngựa xem hoa"? Một
trong các hình thức gây ô nhiễm là thực trạng đám
khách vô trách nhiệm, cố ý khắc tên mình, ngày tháng
viếng thăm lên các bức tường cổ, trong đó có cả
nhân vật nổi tiếng như họa sĩ kiêm văn sĩ người
Anh Richard Ford (1796-1858). Nhà văn Mỹ Washington Irving (1783-1859)
trong thời gian ghé thăm Alhambra đã nổi sùng trước thảm
trạng nói trên. Ông và người bạn thân năm 1829 quyết
định trao tặng một cuốn sổ lưu niệm dày cộm cho
ban quản trị, hy vọng khách viếng thăm sẽ ghi tên mình
vào đó thay vì bôi bẩn lên di tích. Biện pháp "bảo
tồn di tích lịch sử gián tiếp" đầu tiên này ngờ
đâu thành công mỹ mãn. 351 trang giấy đầy kín tên họ
ngày tháng của bao người không, lẫn có tiếng tăm như
họa sĩ Henri Matisse hay Federico Garcia Lorca đứa con thân yêu
của TBN v.v. và tự nó trở thành tài liệu lịch sử
quý giá.
|
|
Hình 7: bên ngoài doanh
trại Alcazaba
|
Hình 8: Torre de la Vela/Tháp
canh hay
còn gọi là Tháp chuông
|
Mở đầu cuộc thăm viếng
chúng ta ghé Khu doanh trại Alcazaba (Hình
7) bao gồm thành quách, vọng gác
v.v. và sau này có giai đoạn trở thành nhà tù. Một
trong những điểm thu hút khách du lịch là Tháp canh hay
tháp chuông Torre de la Vela (Hình 8), thể hiện rõ
nét sự vô thường của một quá khứ vàng son. Vào
ngày 2 tháng 1 năm 1492, ngọn tháp canh này trở thành "chứng
nhân" cho biến cố lịch sử bản lề: sự cáo chung của
triều đại tiểu vương Hồi giáo Nasrid trên toàn cõi
Tây Ban Nha/TBN. Phe Thiên Chúa giáo chiến thắng, đại diện
bởi Vua Ferdinand II of Aragon và Hoàng Hậu Isabella I of Castile,
cùng vị Hồng Y giáo chủ Francisco Cisneros, và khá nhiều
tùy tùng, kể cả nhà thám hiểm đại dương tương lai
Christopher Colombus. Cờ xí và quốc huy phe chiến thắng
được mang lên treo trên ngọn tháp nói trên. Hiện
nay 4 lá cờ khác nhau được treo tại đây, bao gồm cờ
Cộng Đồng Châu Âu màu xanh dương, cờ TBN vàng và đỏ,
cờ vùng Andalusia xanh lá cây và trắng, cờ Granada đỏ
và xanh lá cây. Đặc biệt đoàn quân từ vương quốc
Castile mang theo một quả chuông lớn, treo trên tháp canh làm
biểu tượng chiến thắng. Hằng năm cứ vào ngày
2 tháng 1, chuông được gióng lên ăn mừng biến cố lịch
sử Día de la Toma/Ngày chiến thắng. Tuy nhiên hiện
nay tại TBN, đặc biệt trong vùng Granada có những phe
phái muốn lợi dụng truyền thống văn hóa nói trên
để kích động lòng thù hận, khơi dậy chủ nghĩa
quốc gia và tôn giáo cực đoan.
Trong thời cận đại, tiếng
chuông ngân (không còn là quả chuông nguyên thủy) từng
đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của thành
phố, báo hiệu giờ giấc đóng/mở các cửa cống tháo
và tưới nước cho vùng ruộng đồng Granada. Lại có giai
thoại (chắc là từ mồm miệng, não bộ thành phần
nam giới hoang tưởng, thành kiến, chút ít khinh rẻ phụ
nữ) kể rằng, các cô gái còn độc thân muốn tìm
ý trung nhân cứ việc leo lên tháp giật chuông liên tu
bất tận, "hoàng tử của lòng em" sẽ lần theo "tiếng
gọi của con tim" (mà có người cố tình nói trại ra
"tiếng gọi của con chim") bất kể ngày đêm sẵn sàng
đến bế em về.
|
|
Hình 9: một trong các
vọng gác nhỏ
|
Hình 10: quá khứ vàng
son
chỉ còn lại đống đổ
nát
|
|
|
Hình 11: từ doanh trại
Alcazaba
nhìn xuống Granada
|
Hình 12: đường rời
doanh trại Alcazaba
đi bộ xuống chân đồi
|
...
(còn tiếp)
Khả Tri