Thạch
da ? Nhân da ? Bỉ hà nhân ?
Độc lập sơn đầu thiên
bách xuân ...
Vọng Phu Thạch - Thanh Hiên
Thi Tập/Nguyễn Du
Là người? Là đá? Hỏi
là ai?
Đầu núi bao năm đứng
giữa trời ...
(người dịch Nguyễn Thạch
Giang)
Người đi ngoài vạn lý
quan san
...
Người biến thành tượng
đá ôm con
Hòn Vọng Phu/Lê Thương
Đề tài nước mắt, viết
ngàn trang giấy e chưa hết chuyện. Tôi thử tham vấn
cụ Google với từ khóa "nước mắt", thì cụ cho ra trên
200.000 kết quả, dĩ nhiên thượng vàng hạ cám. Con người
đa dạng và phức tạp, có vị mau nước mắt, có vị
cứng cỏi, nhưng nói chung dù vui, buồn, quằn quại, hạnh
phúc, nhức mỏi, buồn ngủ v.v. lệ vẫn rơi lã chã.
Đặt câu hỏi tại sao chúng ta khóc tuy ngớ ngẩn, nhưng
cần biết rằng, loài người có thể là giống sinh
vật duy nhất chảy nước mắt vì tình cảm hỉ, nộ,
ái, ố, bi, lạc, cụ; trong khi các sinh vật khác chảy
nước mắt chủ yếu vì phản xạ sinh lý.
Đại đa số mọi đứa bé
vừa chào đời đã cất tiếng khóc, nhưng đôi mắt
thường ráo hoảnh, vì các tuyến, bộ phận liên quan
chưa hoàn chỉnh. Bé sơ sinh đôi khi cần từ 4 đến 10
tuần, mới đủ khả năng khóc ra nước mắt. Trái ngược
với cá sấu, người ta quan sát thấy chúng sau khi xơi
tái con mồi, lệ đã tuôn trào. Thế là chúng ta vội
lên án "bọn" này đạo đức giả, giả vờ khóc thương
nạn nhân, "nước mắt cá sấu". Như đã nói ở trên,
thật ra cá sấu trào lệ chỉ là phản xạ sinh lý, cũng
như khi chúng ta thái hành tây, cay đến chảy nước mắt,
chẳng thương xót gì ai.
Nước mắt tối cần thiết
cho mọi sinh vật, giúp bảo vệ, làm sạch, bôi trơn, giúp
chủ nhân nhìn rõ. Hằng năm con người mạnh khỏe trung
bình sản xuất ra từ 60 đến 110 lít. Nhưng tuyến nước
mắt của các vị cao niên ít hoạt động, thế nên người
già hay bị khô mắt. Khoa học hình như đã chứng minh được
hiện nay nữ giới khác nam giới ... về khả năng khóc:
a/ nhịp độ khóc gấp 3-4 lần, cánh đàn ông mỗi năm
trung bình khóc từ 6 đến 17 lần, và phái yếu (bị
gọi như thế vì mau nước mắt? hay chỉ là thành kiến?)
từ 30 đến 64 lần b/ cường độ khóc và nước mắt
của phụ nữ cũng mãnh liệt hơn, đàn ông khóc khá
âm thầm, thậm chí còn muốn che dấu biểu lộ tình
cảm. Các cô các bà trái lại, ướt đẫm khăn mù-soa,
hay bờ vai ai đó v.v.
Trong kho tàng cổ tích, huyền
thoại v.v. thế giới, người nam lẫn nữ bị hóa đá
xuất hiện khá nhiều, tuy nhiên bài này chỉ tập trung
viết về nước mắt và phụ nữ hóa đá. Nàng Niobe
có lẽ là một trong những phụ nữ đầu tiên trên thế
giới đi vào văn học chữ viết, liên quan đến nước
mắt và hiện tượng hóa đá. Xin được tóm tắt như
sau: trong sử thi Iliad, tác giả Homer,
xuất hiện vào thế kỷ VII-VIII trước công nguyên, nàng
Niobe sinh được 7 gái và 7 trai (có nguồn dẫn khác cho
là 6 gái, 6 trai). Vì thấy thần khổng lồ Leto chỉ hạ
sinh được một cặp sinh đôi, Apollo và Artemis, Niobe tỏ
ra ngạo mạn. Bị xúc phạm, Apollo và Artemis bèn ra tay hạ
sát tất cả con cái của Niobe. Quá khổ đau, không cầm
được nước mắt, nàng Niobe trốn về quê quán, và
được/bị biến thành tảng đá trên đỉnh núi Sipylus
(phía đông bắc Izmir, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Cứ sau
mùa Đông, tuyết tan, những dòng suối nhỏ từ sườn
núi chơi vơi đổ xuống, như nàng Niobe triền miên nhỏ
lệ nhớ thương con cái, gia đình. Nàng Niobe gần 700 năm
sau, lại tái hiện trong tập thơ Hóa Thân/Metamorphoses
của thi nhân La Mã Ovid, với nội dung gần như đồng
nhất với sử thi Iliad, và gần đây nhất
một ngọn núi trong tỉnh bang British Columbia, Canada cũng được
đặt tên là đỉnh Niobe.
Nàng Niobe
trên đỉnh ngọn núi Sipylus (Carole Raddato)
Ở đất nước ta, có lẽ
nàng Tô Thị ở Lạng Sơn là truyền thuyết phụ nữ
thủy chung ngồi khóc chờ chồng đến hóa đá, phổ
biến nhất so với "6 nàng khác ở Thanh Hóa, Nghệ An,
Đắk Lắk, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên" (theo Sổ
tay địa danh Việt Nam, NXB Giáo dục 1998). Một phần có
thể do rất nhiều bà mẹ Việt Nam, suốt hàng chục,
thậm chí hàng trăm năm qua, mượn câu ca dao "Đồng
Đăng có phố Kỳ Lừa. Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
..." làm bài hát ru con, khiến đêm đêm nàng Tô Thị
thấm dần vào ký ức và sống mãi với bao nhiêu đứa
bé ngày xưa, nay đã trưởng thành.
Nàng
Tô Thị đã "tân trang" sau khi sụp đổ ngày 27/07/1991
Kể chuyện là một truyền
thống đầy tính nhân văn xuất hiện từ ngàn xưa. Loài
người từ thời mông muội, bất kể nguồn gốc ngôn
ngữ, văn hóa, địa lý, luôn phải đối phó với một
thế giới đầy bất trắc, bấp bênh, khó hiểu, luôn
bị thôi thúc phải giải thích tại sao trời lúc nắng
lúc mưa, mùa màng khi thất bát khi trúng đậm, tại sao
nên thờ phụng thần linh, anh hùng, liệt nữ, tại sao
giữ gìn đạo lý gia tộc, tình nghĩa vợ chồng, tại
sao phải sinh con đẻ cái, tổ tiên, ông bà, bệnh tật
từ đâu tới, chết đi về đâu v.v. Khi chưa có chữ
viết, thế hệ trước chỉ có thể truyền đạt cho
thế hệ sau, những kinh nghiệm xương máu, thông qua hính
thái kể chuyện. Vì thế chúng ta có Lạc Long Quân và
Âu Cơ, Truyện Hồng Bàng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Sự Tích
Trầu Cau, Thánh Gióng, Truyện Bánh Chưng, Thần Kim Qui,
Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Tấm Cám ... và dĩ nhiên Hòn
Vọng Phu.
Lĩnh
Nam Chích Quái
Nguồn:
Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm Việt Nam
Nàng Tô Thị ở nước ta,
sau thời gian sống nhờ dân gian truyền miệng, phải chăng
lần đầu tiên xuất hiện trong văn học chữ viết qua
sách Lĩnh Nam Chích Quái, văn xuôi chữ Hán, ban
đầu được ghi tác giả là Trần Thế Pháp. Tuy nhiên
những nghiên cứu gần đây cho thấy qua thời gian hơn
100 năm, nhiều tác giả khác nhau (Vũ Quỳnh, Kiều Phú,
Nguyễn Nam Kim, Vũ Đình Quyền, Vũ Khâm Lân, Đoàn Vĩnh
Phúc v.v.) cũng đã tham gia hiệu đính, và bổ sung
thêm một số truyện. Thư viện Khoa học Xã hội hiện
nay còn lưu trữ 4 dị bản, Viện Sử học 1 dị bản, Thư
Viện Hán Nôm 1 dị bản. Nhưng nói chung các nhà nghiên
cứu đã xác định được ít nhất 14 dị bản, cả chữ
Hán lẫn chữ Nôm, với tổng số truyện khác nhau (từ
22 đến 43 truyện), thậm chí tên gọi cũng khác nhau.
Lĩnh
Nam Chích Quái ban đầu (cuối thế kỷ XIV?) chỉ có
22 truyện, không có "Truyện Thần Núi Vọng Phu". Truyện
này về sau được bổ sung thêm trong phần Phụ Lục, nhưng
lại kể rằng núi Vọng Phu nằm ở huyện Vũ Xương, cửa
biển đạo Thuận Hóa, tức vùng đất Quảng Bình, Quảng
Trị, Huế hiện tại, chứ không phải Lạng Sơn. Ngoài
ra sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tác giả Cao
Xuân Dục, Lưu Đức Xứng và Trần Xán (1909) cũng nhắc đến
Hòn Vọng Phu nhưng ở Bình Định.
Nàng Tô Thị Đồng Đăng
thì bồng con, Hòn Vọng Phu trên Núi Bà Bình Định (thật
ra là 2 hòn, 1 cao 1 thấp như mẹ nắm tay con) nội dung đều
dựa vào chuyện anh trai lấy nhầm em gái. Đến khi vô
tình khám phá ra bi kịch loạn luân, anh trai kinh hãi bỏ
nhà ra đi. Em gái chẳng biết gì, cứ chờ chồng, rồi
hóa đá. Trong khi đó trường ca Hòn Vọng Phu của nhạc
sĩ Lê Thương mượn chuyện Chinh Phụ Ngâm, cũng như Hòn
Vọng Phu ở các địa phương khác, dựa vào mô-típ vợ
chờ chồng đi lính thú không về.
Vào một buổi chiều cuối
tháng 7 năm 1991, bỗng nhiên trời đổ cơn mưa như trút
nước, kéo theo từng đợt gió lớn, khiến nàng Tô
Thị ở Lạng Sơn bổ nhào xuống chân núi. Có thể chính
quyền địa phương sợ bị cấp trên khiển trách, vì
không làm trọn nhiệm vụ gìn giữ bảo quản các di tích
văn hóa lịch sử, nên đã ra lệnh bắt ngay 2 người dân
Tam Thanh, tội danh cố tình dùng mìn đánh sập nàng
Tô Thị để nung vôi. Họ bị báo chí một chiều lên
án, dư luận cả nước cũng xốn xang, thậm chí căm
phẫn. Tuy nhiên sau đó 2 "can phạm" được trả "tự do",
cho về với gia đình, không trống không kèn, không giấy
tờ văn bản, không một lời xin lỗi bắt oan, theo kiểu
"lặng lẽ ra đi, lặng lẽ trở về". ...
Khả
Tri
(còn tiếp)
Tài liệu tham khảo:
- Lĩnh Nam Chích Quái,
1/ Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc
San phiên dịch từ Hán Văn. Tái bản Nxb. Hồng Bàng, 2013.
2/ Lê Hữu Mục phiên dịch
từ Hán Văn. Nhà sách Khai Trí xuất bản, 1960
- Các kênh Youtube, Wikipedia
v.v.