Chim Việt Cành Nam             [  Trở Về  ]                 [ Trang Chủ ]               [ Trang trước ] / [ Trang sau ]

HOÀNG XUÂN-HÃN
Lý Thường Kiệt
LỊCH-SỬ NGOẠI-GIAO TRIỀU LÝ
Phần I - Bại Chiêm Phá Tống

CHƯƠNG VII : LÝ  THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG TỐNG 

1. Dự-bị tấn-công 
2. Binh tướng 
3. Khởi công. Trận Khâm, Liêm 
4. Tiến vào nội-địa. 
5. Phản-động của Vương An-Thạch 
6. Vây Ung-châu 
7. Diệt viện binh Trận Côn-lôn-quan 
8. Phá Ung-châu 
9. Lui quân và đề-phòng 
10. Ảnh-hưởng 
Chú-thích 

1. Dự-bị tấn-công
Những việc xẩy ra đầu năm Ất-mão (1075) làm cho Lý Thường-Kiệt không còn nghi ngờ ý định của Vương An-Thạch đối với ta.

Vả hai năm trước, có người Tống tên Từ Bá-Tường, quê châu Bạch thuộc Quảng-tây, đã cho người thầm thông với vua Lý. Bá-Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng : " Tiên-thế Đại-vương vốn người đất Mân (1). Tôi nghe nói công khanh ở Giao-chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá-Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung-quốc. Vậy xin giúp Đại-vương. Bá-Tường nghe rằng hiện nay Trung-quốc muốn cử binh đi diệt Giao-chỉ. Theo binh pháp dạy : Trước khi người có bụng cướp mình, thì chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân Đại-vương vào đánh, Bá-Tường này xin làm nội ứng ". (2) (TB 273/17a và TTh 13).

Sách VĐUL cũng chép rằng Lý Thường-Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua : " Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc ".

Vì lẽ ấy, Lý Thường-Kiệt lại quyết tâm tấn công trước để phá tan mưu mô của Tống. Quân Tống vào đánh nước ta có thể đi theo hai đường chính : đường bộ lấy Ung-châu làm cứ điểm và đường thủy lấy các cửa bể Khâm và Liêm làm cứ điểm (V/1). Vậy nên Thường-Kiệt nhằm mục đích phá các thành ấy.

Khâm-châu chỉ cách châu Vĩnh-an ta chừng nửa ngày đến một hai ngày (LNĐĐ 1 và 2). Thủy quân ta tập trung rất dễ dàng ở cửa Đồn-sơn tại vịnh Hạ-long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình vào vịnh Khâm-châu.

Ung-châu, nay là Nam-ninh, ở trên sông Uất-giang, sau chỗ hai dòng Tả-giang và Hữu-giang họp lại. Những đường từ đất ta tới đó có nhiều : từ châu Quảng-nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái-bình ; từ châu Tô-mậu vào, thì phải vượt núi, qua các đất Lộc-châu, Cổ-vạn, Tư-lăng và Thượng-tư ; đường chính từ châu Quang-lang vào, thì qua các đất Tây-bình, Bằng-tường, Tư-minh và trại Vĩnh-bình. Các đường này đều khá gồ ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm-châu, thì theo đường Khâm-châu thẳng lên Ung-châu là gần hơn cả (V/1).

Lý Thường-Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh-an và quân thượng du ở dọc biên thùy tại các châu Quảng-nguyên, Môn, Quang-lang và Tô-mậu.

2. Binh tướng
Như trên đã nói, đời Lý dùng dân quân ; khi hữu sự mới gọi dân ra lính (II/2). Trong trận đánh Tống, chắc rằng cấm binh phần lớn ở nhà, vì vua còn nhỏ tuổi, không xuất chinh. Quân tinh nhuệ là quân hạ du, tập trung ở miền đông, do Thường-Kiệt điều khiển. Còn miền bắc thì đã có thổ quân, do thủ lĩnh các châu đốc suất. Các thổ dân đi đường bộ, đưa cả vợ con đi theo. Sau trận, Vương An-Thạch có gọi kẻ lái buôn từ nước ta về, để dò hỏi ; người ấy trả lời rằng : " Khi Giao-chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó nhiều đàn bà, trẻ con. Man-dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà " (3) (TB 275/13b). Lời ấy chắc là nói các dân man động mà thôi. Còn quan quân, đã có qui củ.Vả đi đường thủy, chắc không thể đem người nhà đi theo nhiều được.

Hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn (4).

Lý Thường-Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh-an đánh vào ven bể Quảng-đông (VSL). Đó là đại quân.

Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng-tây kéo vào, có Tông Đản quản lĩnh (TT). Tông Đản là ai ? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cầm quân đánh thành Ung lần này. Tống-sử và Tống-thư cũng không đâu nói đến. Nhưng sách TB và các sách Tống, như TS 488 TS 495, có chép tên Nùng Tông-Đán, người châu Quảng-nguyên. Ta đã thấy Nùng Tông-Đán đã theo Tống rồi bỏ Tống nhiều lần (xem V/8).Tháng 6 năm Bính-thìn (1076), ti An-nam tuyên-phủ tâu rằng : " Đã sai đô-giám Quế-châu là Nùng Tông-Đán kiểm điểm đinh tráng Hữu-giang, để đánh Lưu Kỷ ". Vua bảo : " Tuy Tông-Đán đã hiệu-thuận và là kẻ dũng mạnh, nhưng các con còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ Tông-Đán cũng theo nốt. Vậy nên chọn các viên có mưu lược đi theo Tông-Đán ". (TB 276/1b).

Có lẽ Tông Đản ở sử ta là Nùng Tông-Đán ấy, hoặc là một con y. Chữ Nùng dùng đầu tiên có thể chỉ giống người Nùng mà thôi, chứ không phải hẳn là chỉ họ. Vì sự hai âm Đán và Đản rất gần, hai tên có thể là một chăng ? (5)

Các quân man động ấy đóng từ Quảng-nguyên đến châu Tô-mậu, trước các trại Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long. Lưu Kỷ cầm quân vùng Quảng-nguyên. Có lẽ Tông Đản chỉ là một bộ tướng. Vùng Môn-châu có Hoàng Kim-Mãn, vùng Lạng-châu có phò mã Thân Cảnh-Phúc (IV/4) và vùng Tô-Mậu có Vi Thủ-An cầm quân.

Khí giới thì ngoài cung nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá.

Ta lại dùng nhiều voi để xung phong. Voi có thể do cả đường thủy và đường bộ tiến vào.

3. Khởi-công. Trận Khâm Liêm
Phần Lý Kỷ còn lại chép rất sơ sài về việc hành binh này. Ta không thể biết chi tiết cuộc tấn công của Lý Thường-Kiệt. Tống-sử và các Tống-thư chỉ chép rõ việc người Tống làm. Còn việc người ta, họa hoằn có một vài chi tiết. Sách TB cho ta biết thêm một vài việc. Nhờ những lời tâu của biên lại Tống, có ghi ngày tháng, nên ta có thể căn cứ vào đó mà đoán một cách khá tường tận những hồi biến chuyển của cuộc tấn công do Lý Thường-Kiệt chỉ huy.

Như đã nói trên, biên thùy ta giáp địa hạt Ung-châu có hình một góc tư vòng tròn, đường bán kính trung bình dài 150 cây số, mà trung tâm là thành Ung (IV/1). Ba đường chính đi tới Ung, đường Quảng-nguyên, đường Quang-lang và đường Tô-mậu đều xấp xỉ như nhau. Về phía đông, góc tư đường vòng tròn kia tiếp với bờ bể châu Khâm và châu Liêm. Đường từ Khâm đến Ung lại ngắn hơn cả, dài chừng 120 cây số ; quân đi mất độ năm ngày đường.

Lý Thường-Kiệt đã mưu tính chiến lược rõ ràng. Thổ binh đóng ngoài vòng biên giới sẽ lần lượt kéo vào chiếm đất Tống và, trong lúc đầu, quấy rối gần biên thùy mà thôi. Chủ ý là làm cho Tống lầm tưởng rằng quân ta sẽ do các đường bộ kéo vào đánh Ung. Thổ-binh ta sẽ phá những trại Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, là những đồn che đỡ cho Ung. Trong lúc ấy, quân Tống ắt sẽ kéo xuống miền tây và tây-nam để cứu các trại ấy. Mặt đông nam châu Ung sẽ bỏ ngỏ, vì từ Ung đến Khâm là hoàn toàn đất Tống.

Lúc quân Tống trong hạt Ung-châu đã đổ xô vào phía tây và tây nam, Lý Thường-Kiệt liền đưa đại quân đi đường thủy, từ ch âu Vĩnh-an tới Khâm-châu và Liêm-châu. Đường đi đến Khâm chỉ mất chừng vài ngày. Đại quân đổ bộ ở Khâm, rồi tiến thẳng tới Ung. Như vậy, đại quân ta chỉ chừng bảy ngày đã từ đất nhà đến thẳng căn-cứ-địa Ung-châu.

Nếu quân Tống bỏ thành Ung để dời xuống cứu các trại biên thùy, thì thành Ung có thể mất liền. Nếu Tống để nhiều quân giữ thành Ung, thì các thổ binh ta sẽ tiến dễ dàng. Từ mọi bề, quân ta cùng kéo tới thành Ung, và thành này sẽ bị vây mấy mặt.

Chiến sách ấy đã thấy rõ ràng trong cuộc chuyển binh của ta vào cuối năm Ất-mão (1075).

Ta đã thấy rằng vào tháng tư nhuận, Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên dã đem 3.000 quân đánh nhau châu Qui-hóa làm Tống phải động tâm và phải phái quân giúp viên coi châu ấy là Nùng Trí-Hội (VI/7)

Nhưng cuộc tấn công thật bắt đầu vào tháng chín. Ngày G.Tu, 15 tháng 9, 700 quân tới đánh trại Cổ-vạn (DL 27-10-1075, TB 268/10b). Chắc là quân ấy từ châu Tô-mậu kéo vào. Tin này đến ngày 28 tháng 10 mới về đến kinh (B.Th, DL 8-12-1075 ; TB 269/23b), và đến ngày 11 tháng 11, triều đình Tống mới hay rằng Cổ-vạn đã mất, và "  Quảng-nguyên có nhiều hương binh họp và soạn sửa vào cướp ". (K.Ti, DL 21-12-1075 ; TB 270/2b).

Tin từ biên giới về đến Biện-kinh mất một tháng rưỡi, cho nên các biến cố ở biên đang dồn dập, mà triều đình Tống vẫn tưởng rằng chỉ có những việc cướp nhỏ mà thôi. Vua Tống dặn Lưu Di phải sai các tuần kiểm đề phòng cho nghiêm, không được khinh chiến (TB 269/23b). Khi nghe tin trại Cổ-vạn mất, vua lại bảo Lưu Di kê tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt. (TB 270/2b)

Trong lúcấy thì có sao chổi hiện ; làm cho vua Tống càng lo. Ngàymồng 7 tháng 10 năm Ất-mão (DL 17-11-1075 ; TB 269/13a), sao chổi hiện ở chòm sao Chẩn. Ngày 8, đuôi dài ba thước (có lẽ cầm thước dơ thẳng tay, nhắm mà đo). Ngày 9, dài 5 thước. Ngày 10, dài 7 thước, trỏ xiên về sao Thái-hạt. Đêm 19 mới tắt (TB 269/18). Theo phép đối chiếu trên trời dưới đất, sao Chẩn là tinh phận phương nam. Theo sự tin của Á-đông, sao chổi là điềm sắp có binh đao, tật dịch. Theo các nhà chiêm tinh bấy giờ đoán, thì sắp có binh đao trên đất Giao-chỉ.

Riêng Vương An-Thạch là một nhà học giả rất có óc thực tế và không tin dị đoan (T Th13). Sử Tống còn trách An-Thạch để việc sao chổi hiện ba ngày không tâu vua (TB 271/15b). Ở nước ta, Thường-Kiệt có tin điềm lành dữ hay không ? Ta không biết. Nhưng theo óc dị đoan đương thời, thì sao chổi hiện lần này (6), chắc làm cho người nước ta càng tin rằng quân Tống sắp kéo vào đánh nước ta.

Trong khi bang giao Tống Lý đang gay go, sự sao chổi hiện, làm tăng lòng lo âu và nghi kị. Có lẽ vì đó, Lý Thường-Kiệt càng quyết tâm phát quân tấn công vào đất Tống.

Bộ binh ở tả-dực được lịnh xuất quân trước, tràn qua Vĩnh-bình để đến Ung-châu (VSL). Quân các châu dọc biên giới kéo vào chiếm các trại Vĩnh-bình ; quân từ Lạng-châu vào lấy những châu Tây-bình, châu Lộc. Quân Quảng-nguyên và châu Môn chiếm trại Hoành-sơn. Các tướng Tống chống cự rất hăng hái, nhưng đều bị bại. Chúa trại Hoành-sơn là Lâm Mậu-Thăng, viên quản-hạt Vĩnh-bình là Tô Tá, viên quản hạt Thái-bình là Ngũ Cử, và viên giám-áp trại Thái-bình là Quách Vĩnh-Nguyên đều tử trận. (TB 273/4b)

Lưu Di chưa biết nguy cơ đã đến, còn xin bốn vạn quan tiền để mua lương trữ ở Ung-châu. (23-10, T.Ho ; DL 3-12-1075, TB 269/21b)

Bấy giờ, biên giới Ung-châu rất bỏ ngỏ. Man dân sẵn oán quân Tống, quân lính ít được tập tành. Lưu Di đương thay lính, bỏ trát binh mà dùng quân thương trượng. Các tướng trễ nải. Quân ta tới đâu như là vào chỗ không người (VSL).

Trong khi ấy, đại quân Lý Thường-Kiệt đã cưỡi thuyền theo bờ bể, từ châu Vĩnh-an vào cửa bể Khâm-châu và Liêm-châu (TB 271/1b). Bộ binh đóng gần biên giới Khâm-châu cũng kéo vào các trại Như-hồng, Như-tích và Để-trạo.

Quân Tống bị đánh bất ngờ, không chống cự. Ngày M.Dn, 20 tháng 11, Khâm-châu bị chiếm (DL 30-12-1075 ; TB 270/5a). Ba ngày sau, Liêm-châu cũng bị mất luôn (2-1-1076 ; TB 270/8a) (7)

Những chúa trại chung quanh Khâm-châu đều bị giết : Ngũ Hoàn chúa trại Như-tích và Trương Thủ chúa trại Để-trạo đều chết. (TB 273/4b)

Viên coi Khâm-châu là Trần Vĩnh-Thái (theo LNĐĐ 10, còn TB 273/4b chép Trần Vĩnh-Linh). Truớc lúc quân ta tới, đã có kẻ nói hở chuyện cho người Tống biết rằng : Giao-chỉ sắp vào đánh úp Khâm-châu. Người Khâm mách với Vĩnh-Thái, nhưng y không tin. Chiến thuyền Lý thình lình vào bến rất gấp. Vĩnh-Thái vừa bày rượu uống. Có người báo tin quân Lý đã tới, nhưng Vĩnh-Thái vẫn không để ý đến.

Quân Lý đột nhập vào thành, bắt được Vĩnh-Thái và tất cả bộ hạ, không phải giao phong một hợp nào. Sách LNĐĐ chép chuyện trên, kể nối rằng : "Quân Giao-chỉ nói với Vĩnh-Thái : " Chúng ta chỉ lấy của cải mà thôi, chứ không giết chúng mày đâu !". Song khi lấy sạch của, lại đem giết hết. Sau đó, người Khâm-châu tô tượng thờ Vĩnh-Thái ở miếu Thành-hoàng, và tôn làm thần Chuyển-trí đại vương. Nhưng người đời sau vẫn cuời chê Vĩnh-Thái là ngu muội. Khi muốn chế nhạo ai là không thông tuệ, thì gọi nguời ấy là Trần Thừa-Chỉ ! " Thừa Chỉ là hàm của Vĩnh-Thái, theo LNĐĐ 10 ; còn TB chép thừa chế.

Cùng với Vĩnh-Thái, còn có các viên giám-áp Văn Luơng, Ngô Phúc, viên tuần-kiểm Tưởng Cẩn, các viên chỉ-sứ Tống Đạo, Đinh Toại, viên giám-thuế Âu Duơng-Dẫn đều bị hại. (TB 273/4b)

Ở Liêm-châu quân Tống cũng thua rất nặng. Hình như ở đây, các quan Tống đuợc tin Khâm-châu mất, có phòng bị và chống cự ít nhiều. Tám nghìn thổ đinh bị ta bắt làm phu khiêng xuống thuyền đồ vật cướp đuợc, xong rồi đều bị giết (Thần-tông TL VKT). Lỗ Khánh-Tôn coi Liêm-châu bị chết cùng nhiều bộ hạ : tri huyện Hợp-phố Lương Sở, giám-áp Chu Tông-Thích, chỉ-sứ Ngô Tông-Lập. (TB 273/4b)

Nói tóm lại, trong các trận mở đầu, Lý Thường-Kiệt đã lợi dụng được hai điều cốt yếu trong chiến lược xưa nay : triệt để dùng sở trường của mình là thủy quân, và rình chỗ bất ngờ mà đánh úp. Thắng lợi hoàn toàn đã về quân Lý, cũng là phải lẽ.

4. Tiến vào nội-địa
Chiếm xong hai hải cảng Khâm, Liêm, Thường-Kiệt liền đưa quân tiến vào nội địa.

Bấy giờ, Tống không còn quân để cản quân ta. Nhưng Thường-Kiệt sợ dân Tống oán thù và quấy đường tiếp tế ở hậu phương, cho nên ông phải tìm danh nghĩa cho cuộc hành quân.

Muốn phô trương danh nghĩa, Thường-Kiệt sai yết bảng dọc đường kể tội quan Tống. Lời lộ-bố nói rằng : " Có những dân Giao-chỉ làm phản rồi trốn sang Trung-quốc. Các quan lại dung nạp và dấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế-châu (Lưu Di) không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng-châu, quan coi Quảng-châu cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy... ". Ông lại biện luận rằng mình chỉ tự thủ. Ông tuyên bố : " Quan coi Quế-châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao-chỉ ".

Thường-Kiệt lại lợi dụng sự phân tranh trong triều đình Tống giữa hai phe tân và cựu, để chia rẽ quân dân địch. Trong các lộ-bố, có nói : "  Trung-quốc dùng các phép thanh-miêu, trợ-dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đây đem quân tới cứu ". (TTh 13 và TB 271/15b).

Người đời sau kể lại rằng " dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường-Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam ; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp " (NBS). Bởi vậy, tiến quân vào nội địa càng thêm dễ dàng.

Trong lúc ấy, đạo quân Tông-Đản kéo tràn qua các trại ở phía tây. Trong tháng 11, Vĩnh-bình, Thái-bình, Thiên-long, Cổ-vạn đều mất (TB 271/7a). Ngày 10 tháng chạp, quân Tông-Đản kéo thẳng đến Ung-châu. Thành Ung bắt đầu bị vây. (Đ.Zu, DL 18-1-1076 ; TB 271/6b).

Đại quân ở Khâm và Liêm cũng tiến lên phía bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm-châu kéo thẳng lên Ung-châu, như ta sẽ thấy sau. Còn đạo đổ bộ ở Liêm-châu tiến sang phía đông bắc, chiếm châu Bạch (ĐSL 8). Viên tuần-kiểm Thẩm Tông-Cổ bị chết (TB273/5a). Đạo quân ấy lại tiến lên Dung-châu.Viên đô-tuần-kiểm các châu Bạch, Dung là Phan Nhược-Cóc và chỉ-sứ châu Dung là Vương Đạt và Tào Quăng cũng đều tử trận (TB 274/3b). Hình như đạo quân ấy dừng ở khoảng này, để chặn quân từ phương đông tới cứu Ung-châu.

5. Phản-động của Vuơng An-Thạch
Tin tức bấy giờ chuyển chậm, vì dịch-trạm ở miền nam chưa tổ chức. Tuy Khâm-châu bị chiếm ngày 20 tháng 11, mà đến mồng 6 tháng sau, ti kinh-lược Quảng-tây đóng ở Quế-châu mới được tin và tâu : " Người Giao-chỉ họp quân thủy ở Triều-dương (tức là Vĩnh-an châu, hay làHải-ninh bây giờ. Sách TB 271/5b chép Hồ-dương, sai vì tự-dạng), sắp sửa đi hai đường vào cướp ". Đúng một tháng sau khi Khâm-châu bị mất, tin mới tới triều đình Tống (20 tháng chạp, Đ.Vi, DL 28-1-1076 ; TB 270/5a).

Ba ngày sau lại tiếp tin Liêm-châu cũng mất luôn.

Các tướng ở địa phương bối rối đã đành ; mà vua tôi Tống cũng rất đỗi hoang mang. Triều đình náo động.

Báo tin mất Khâm-châu, ti kinh-lược Quảng-nam tây-lộ xin viện binh : 20.000 quân, 3.000 ngựa và một tháng lương, tất cả lấy dọc đường từ kinh đến Quảng-tây. Lại xin chừng mười sứ thần theo quân, xin thêm khí giới, đồ dùng, và xin điều động các dân khê-động. Muốn điều khiển quân mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung-châu (TB 271/12a).

Ngày 20 tháng 12, được tin báo Khâm-châu mất, vua Tống Thần-tông liền hạ lệnh chuẩn bị các trạm, cấp đủ người và ngựa, để đem tin cho chóng. Lại sai Trương Thuật, Tạ Quí-Thành tới ti kinh-lược Quảng-tây để chuẩn bị tướng-lệnh (TB 271/12a). Sợ quân ta thừa thế đi thuyền đến Quảng-châu, vua Tống ra lệnh cho quan coi Quảng-châu phòng bị cẩn mật. Về mặt trận Quảng-tây, dặn các tướng phải cố thủ ở các thành và nơi hiểm yếu và chớ khinh địch. Lời chiếu nói rằng : " Giao-chỉ chiếm Khâm-châu chưa lui. Sợ nó theo bờ bể dòm ngó Quảng-châu, nên phải lo giữ. Nay xét thấy quân các đồn ở Quảng-tây yếu và ít, mà lại phân tán ra. Nếu không cố thủ các thành, thì quân ta sẽ tan rã, và tiếng tăm giặc sẽ lan ra, làm tăng thế nó. Vậy chiếu cho Quảng-tây, hãy bảo các tướng phải giữ thành, chớ có khinh-địch "  (TB 271/12a).

Hai ngày sau, lại có tin báo Liêm-châu cũng mất. Triều đình Tống càng thêm lo, hoang mang rất mực. Vua Tống liền hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây, dặn rằng : " Nếu xem chừng quân Giao-chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm mà thôi. Chỗ nào có tiền, vải, luơng thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay giặc " (TB 271/12b). Sau đó lại ra một lệnh trái ngược, nói rằng : " Nếu quân bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình " (TB 271/13a).

Cũng ngày ấy (22 thánh chạp), vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế-châu và làm kinh-lược-sứ Quảng-tây. Cấp cho Quảng-tây 50.000 quan tiền và sai cáclộ chung quanh trữ lương thực để mộ quân (8). Sai mộ 3.200 đinh tráng ở các châu Thú, Ung, Tân, và dặn nếu không đủ thì mộ thêm thổ dân để dùng. Vua Tống lại sai chọn trong các châu quận những người dân trai trẻ, khỏe mạnh, đảm dũng, đem tới Quế-châu ; cứ 500 người lập một chỉ huy, rồi dạy vũ nghệ, và đặt tên là quân Tân-đằng-hải (TB 271/13b). Vua Tống lại định đem quân Hà-bắc xuống miền nam để ti kinh-lược Quảng-tây dùng : đạo quân thứ 35 xuống Quế-châu, đạo quân thứ 19 xuống Đàm-châu (Tràng-sa bây giờ). Sai hai lộ Kinh, Hồ sắm 7.000 cung nỏ bằng gỗ để cấp cho Quảng-tây (TB 271/14a).

Ý vua Tống là vận động cấp tốc binh sĩ để ngăn quân ta tiến lên phía bắc. Đối với dân gian, vua Tống sai tồn-tuất cho nhà có người chết trận. Nếu có ai muốn chạy lánh nạn lên Lĩnh-bắc (vùng Hồ-nam), thì cũng dưa lên. (TB 271/13b).

Vương An-Thạch rất tức giận, khi được tin Lý Thường-Kiệt chỉ trích chính sách tân-pháp trong lời lộ-bố yết dọc đường. Bèn định sai tướng dem đại quân đi đánh đất ta. Ngày 25 tháng chạp (T. Ho, DL 2-2-1076 ; TB 271/15a), vua Tống Thần-tông chọn viên-ngoại-lang lại-bộ, hiện coi Diên-châu (Thiểm-tây), là Triệu Tiết, làm An-nam-đạo-hành-doanh-mã-bộ-quân đô-tổng-quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứ kiêm chức Quảng-nam-tây-lộan-phủ-sứ. Vua lại sai hoạn quan Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ, và Yên Đạt (TS chép lầm ra Yên Quì vì tự dạng) làm phó-đô-tổng-quản, Ôn Cảo làm quản-câu, coi việc kê-cứu thư từ. Rồi sai thảo một tờ chiếu đặc biệt, gọi là Thảo Giao-chỉ chiếu để ban ra một cách long trọng. Theo lời Tư-mã Quang, thì chính tay Vương An-Thạch thảo lời chiếu ấy, để trả thù lời lộ-bố của Lý Thường-Kiệt chỉ trích các tân pháp của y. Lời chiếu rằng :

" Chúa nước An-nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa nhận và vỗ về. Tiên triều đã từng tha lỗi cướp họ Lê. Nay lại phạm vào nội địa, giết hại lại dân. Can tội với nước Thiên-tử, như thế không thể tha thứ được !

" Quân Trời tới đánh, thật có danh nghĩa !

" Nay Trẫm sai Triệu Tiết làm An-nam-đạo-hành-doanh mã-bộ-quân đô-tổng-quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứ ; Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ và Yên Đạt làm phó-đô-tổng-quản.

" Các ngươi hãy cất quân thủy, lục, tiến chóng đi !

" Trời tỏ muốn giúp, nên đã có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng gian, nên đều căm giận quân địch ác !

" Chiếu cho quân Giao-chỉ hay : khi thấy quan quân đến thì đừng chạy. Dân chúng đã chịu khổ sở lâu ngày. Nếu dỗ được chúa mày vào nội phụ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho. Càn-đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự ngươi gây ra. Ngày nào ngươi tới chầu, Trẫm sẽ tha thứ cho... (TTh 13).

Ta nên để ý tới sự vua Tống quan tâm đến danh nghĩa của cuộc chinh phạt này. Trước đó, vua và An-Thạch bàn chuyện đánh Giao-chỉ. Vua do dự và cho rằng chưa phải lúc dụng binh. An-Thạch đáp : " Binh, không có lúc nào là không dùng được. " Vua nói : " Dụng binh bây giờ không có danh nghĩa gì cả. "An-Thạch sỗ sàng trả lời : " Nếu Bệ-hạ quả muốn dụng binh, sao lại không có danh nghĩa ? " (Theo lời Trần Quán, TB 244/4a).

Lần này danh nghĩa rõ ràng. Tự nhiên An-Thạch vịn lấy cớ.

6. Vây Ung-châu
Trong khi triều đình Tống vội vã đối phó, quân Lý Thường-Kiệt đã lục tục kéo trên đường Khâm-Ung, để họp cùng quân Tông Đản đến đó trước (TT và VSL).

Ta đã thấy rằng sau khi lấy được Khâm, Liêm, Lý Thường-Kiệt chia quân làm hai đạo : một mặt, từ Liêm-châu kéo lên lấy châu Bạch, hình như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới; một mặt, đại quân rời Khâm-châu kéo thẳng lên Ung-châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập-vạn. Sau ngày 10 tháng chạp (Đ. Zu, DL 18/1/1076) đại quân mới đến thành Ung (TB 271/6b).

Hai đạo quân ta kẹp lại, bắt đầu vây chặt Ung-châu.

Thành Ung có tiếng rất chắc. Chính Vương An-Thạch cũng đinh ninh rằng quân ta không thể phá nổi (TB 272/10a). Quân Tống giữ thành Ung lại là một người kỳ cựu, lão luyện, thông minh và rất cương quyết; ấy là Tô Giàm. Trận Ung-châu, bởi thế, sẽ rất khốc liệt, và sẽ là một trường tranh đấu giữa mưu trí của Lý Thường-Kiệt và lòng dũng cảm của Tô Giàm.

Giàm là một văn quan. giữ những chức nhỏ ở Quảng-nam từ lâu và được cử coi Ung-châu đã năm năm. Giàm đã biết chính sách của quan trên là Thẩm Khỉ, Lưu Di, thế nào cũng gây ra họa chiến tranh. Nhiều lần can Khỉ rồi Di, mà không được (VI/5,6,7).

Lúc nghe quân ta gần tới Ung, Giàm nghĩ rằng Ung cách Quế không xa, viện binh chỉ 14 ngày đường đã đến nơi, cho nên quyết tâm đóng thành cố thủ.

Giàm liền kiểm điểm binh lính trong quận. Kể cả cấm binh, sương binh và quân già yếu, chỉ có cả thảy2.800 người. Giàm bèn hô hào người trong quận, bảo người nào có tài dũng thì bày tỏ phương-lược, rồi chia nhau phòng thủ (TB 271/7a).

Dân nghe tin, rất sợ hãi; đạp nhau chạy, đông không biết bao nhiêu mà kể. Thấy quân dân nao núng, Giàm đem hết của công và tư bày ra cho quân xem, rồi nói :"Khí giới ta đã dự bị đủ, lương thực trữ cũng không thiếu. Bây giờ giặc đã đến dưới thành. Chỉ còn cách cố thủ lấy thành để đợi ngoại viện. Ắt là ta sẽ thắng. Nếu có một ai chạy, thì lòng dân sẽ náo động, và đại sự sẽ hỏng. Nếu chúng ngươi nghe ta, thì sẽ được hậu thưởng. Nếu có ai không nghe mà bỏ chạy, thì ta sẽ chém "(TS 446 và TB 271/7b).

Trước đó, con Giàm là Tử-Nguyên, vốn làm quan ở Quế-châu, đưa vợ con tới thăm Giàm. Lúc sắp trở về, thì thành Ung bị vây. Tuy vậy, Tử-Nguyên muốn đưa vợ con đi, Giàm không cho, và chỉ để Tử-Nguyên một mình đi thôi. Ấy vì sợ nếu bà con mình chạy, thì dân gian sẽ chạy hỗn loạn. (TS 446; TB 272/7b).

Có một viên đại-hiệu, tên Địch Tích, muốn trốn. Giàm sai người nấp ngoài cửa, bắt được quả tang, đem chém và bêu đầu để làm gương. Vì thế, trên dưới ai cũng nín hơi mà nghe theo. (TB 271/7b và TS 446).

Giàm lại mộ được hơn một trăm quân cảm tử, chèo thuyền trên sông Ung-giang, đón đánh quân ta. Chúng chém được mười voi lớn (TB 271/6b) và hai tướng (TS 446).

Quân Lý vây thành càng ngày càng riết. Giàm đốc thúc quân cố thủ. Muốn an ủi nhân tâm, Giàm phao tin rằng viện binh sắp tới. Giàm lại dùng thứcung thần-tí bắn một phát được nhiều tên. Bắn ra giết nhiều lính và voi. Quân Lý dùng công cụ (một thứ máy bắn đá ?) tứ bề trèo lên cao nhắm bắn vào trong thành, giết nhiều quân phòng thủ.

7. Diệt viện-binh. Trận Côn-lôn-quan
Lúc thành Ung sắp bị vây, Giàm đã sai sứ về Quế-châu, ở cách phía bắc chừng 400 cây số, để cầu viện. Quan coi Quế-châu là Lưu Di sai viên đô-giám Trương Thủ-Tiết đem quân đi cứu. Nhưng Thủ-Tiết nghe báo rằng quân ta đông gấp mười, nên dùng dằng không chịu đi liền. Trái lại Thủ-Tiết đem binh đi vòng theo đường Quí-châu để tới Tân-châu. Y trú binh lại ở trại Khang-hòa để chờ xem sức Giàm chống lại với ta thắng bại thế nào đã. Không thấy viện binh đến, mà vòng vây đã thắt chặt, Giàm phải cho người mang lạp-thư, nghĩa là thư viết vào giấy rồi vò vào trong sáp mà ngậm trong miệng, lọt ra vòng vây để cấp-cáo với viên đề-điểm hình-ngục Tống Cầu. Lúc nhận được thư, Cầu khóc và giục Thủ-Tiết tiến binh. Thủ-Tiết hốt hoảng không biết làm thế nào; bèn đem quân đóng ở núi Hỏa-giáp (TS chép Đại-giáp), rồi kéo tới giữ ải Côn-lôn giữa đường Ung-tân, cách Ung chừng 40 cây số. (TB 272/1a và TS 446).

Thường-Kiệt được tin, đưa quân đến đón đánh. Thình lình quân ta tiến tới, quân Tống chưa đánh đã chạy. Thủ-Tiết nhu nhược không điều khiển nổi binh sĩ, liền bị thua. Nhiều tên quân hàng theo ta (TB 277/17a). Thủ-Tiết bị giết (9). Ấy vào ngày 4 tháng giêng năm Bính-thìn (T. Zu, DL 11-2-1076; TB 272/1b). Các viên đề-cử Tả-giang Ôn Nguyên-Dụ, đô-giám Hồ-nam Trương Biện, tuần-kiểm các châu Ung Tân Hứa Dự, tuần-kiểm các châu Liễu, Tân, Tượng Vương Trấn đều bị chết. (TB 273/4b).

8. Phá Ung-châu
Thành Ung bị vây từ mồng mười tháng chạp năm trước, đến bấy giờ gần một tháng. Nhưng thành cao và chắc. Giàm lại giỏi điều khiển binh lính. Quân Lý không sao vào lọt. Muốn dòm vào trong thành, ta dùng vân-thê, là một thứ thang bắc chuyền nối nhau rất cao, rồi sai các tù binh trèo lên mà trông vào thành. Bốn bề dựng thang.Thang vừa dựng, Giàm sai bắn hỏa tiễn, tức là một thứ pháo thăng thiên, đốt cháy thang. (TS 446 và TB 272/7b).

Cầm cự nhau mãi. Bên ta, quân và voi chết mất nhiều. Quân mất một vạn rưởi (TB 271/7b). Quân ta dùng tên độc bắn lên thành. Trên thành người và ngựa chết rất nhiều.

Ta lại đào đường hầm lót da cho kín nước, định chui vào thành. Giàm để ta tiến tới gần, rồi phóng hỏa đốt các huyệt (TB 272/7b). Có tù binh bắt được ở Côn-lôn, tên Triệu Tú, bày cho ta dùng hỏa-công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành (TB 281/13b). Trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy (TB 273/15a).

Ta vây thành đã 42 ngày, mà không sao phá được. Thường-Kiệt sắp kéo quân lui. Lại có tù binh xui ta dùng phép thổ-công : quân ta lấy đất bỏ vào bì, xếp chồng vào nhau, thành bực thềm để lên thành.

Bao đất chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Ấy là ngày Canh-thìn 23 tháng giêng (10) (DL 1-3-1076 ; TL và TB 272/7b).

Trong khi thành bị vây, lương hết, giếng cạn. Người Ung phải vốc nước bẩn mà uống. Nhiều người mắc bệnh lị, chết chất trồng đống. Nhưng không ai phản chí và phản lại. Giàm biết thế nguy, nhưng vẫn chống rất hăng. Giận tụi Thẩm Khỉ, Lưu Di đã gây việc binh đao mà không lại không chịu tới cứu, Giàm muốn dâng sớ kêu kiện, nhưng đã tiệt đường. Giàm bèn yết bảng ở chợ kể tội Khỉ, Di, mong lời đạt đến vua Tống (TS 446 và TB 272/8a).

Lúc quân ta lọt vào trong thành Ung, Giàm còn đem lính bị thương ra chống lại, ruổi ngựa đánh rất hăng. Nhưng thấy mình không còn đủ sức chống nữa, bèn nói với bộ hạ rằng : " Ta quyết không chịu chết về tay giặc ". Giàm bèn trở về dinh, tự giết 36 người nhà, kể cả hai con và hai cháu (theo TS, còn TB nói Giàm bảo 36 người nhà chết trước). Giàm dấu thây người nhà vào một cái hầm, rồi tự thiêu mà chết (11) (TB 272/8a và TS 446).

Quân dân thấy Giàm nghĩa khí như vậy, không ai chịu hàng. Vì Giàm kháng cự lâu, quân Lý tức giận. Lúc vào thành, quyết tìm bắt Giàm cho được. Khi biết Giàm đã chết, chúng tìm xác cũng không thấy. Tức giận, chúng giết sạch dân thành ; kể cả quan lại, lính tráng, thổ đinh, cư dân, cả thảy hơn năm vạn người. Các sách TB 272/8a và TS 446 còn chép rằng quân Lý sắp đầu người thành đống ; mỗi đống 100 đầu mà có tới 580 đống.

Thường-Kiệt sai phá thành Ung, lấy đá lấp sông để ngăn quân cứu viện.

Lấy xong Ung-châu, Thường-Kiệt kéo quân lên phía bắc, ý muốn lấy Tân-châu. Viên coi Tân-châu, là Cổ Cắng-Lặc, nghe quân ta kéo gần đến thành, bỏ thành chạy trốn(TB 280/2b).

9. Lui quân và đề phòng
Bấy giờ đại quân Tống từ bắc đã kéo xuống. Mà quân Lý đánh Ung trong hơn một tháng, coi chừng cũng mỏi mệt. Vả mục đích chính của ta là phá các cứ điểm của Tống có thể dùng để đánh ta. Nay các thành Ung, Khâm, Liêm đã bị phá, các trại Vĩnh-bình, Thái-bình, Thiên-long, Cổ-vạn đã bị đốt. Như thế, ta xuất quân cũng thắng lợi rồi.

Vả chăng nếu quân Tống tiến gấp, chúng có thể qua vùng khê động vào thẳng các châu Quảng-nguyên, Môn, Lạng và Tô-mậu, trong khi quân ta bị kẹt ở vùng Ung. Vì cớ ấy, sự rút quân ta về là cần kíp (VII/10).

Thường-Kiệt hạ lệnh lui quân. Tháng ba năm Bính-thìn (1076), quân ta ra khỏi đất Tống. Tư-mã Quang (TTh 13) nói ngày 21-1 Ung-châu mất, ngày 23-1 Lý rút quân về, không hợp với sách TB. Nhưng không sách nào khác nói rõ ngày Lý rút khỏi Ung.

Biết Tống sắp sửa kéo quân tới trả thù, Lý Thường-Kiệt gia sức đề phòng trước. " Ngày ngày ông sai tụ tập binh lính để tập trận ; nhóm họp voi ngựa, tập duyệt phép chạy, phép xung phong " (theo lời chiếu cho Quách Quì 20-7 năm B.Th ; TB 277/4b).

Một mặt khác, Lý hết sức do thám hành động của quân Tống. Lúc hạ Ung-châu, có bắt được 200 nhà sư. Ta thu lấy bằng-sắc. Rồi sai thám tử cạo đầu, mặc áo cà sa, mang bằng sắc ấy, giả làm sư Tống, vào đất Tống dò xét (TB 277/12a). Ta lại dùng dân thuyền chài ở ven bể, cho lẫn vào đất Tống để thám thính (TB 276/6b).

Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ-an, Thanh-hoá, xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể trốn theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều nghĩa là hàng nam-triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi, phải sung làm lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên-tử-binh. Còn đàn bà, con gái, thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khác của nhà nước (TS 488).

Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ-Tiết, bị Thường-Kiệt bắt ở ải Côn-lôn, và đã bày cho ta dùng hỏa công ở Ung-châu. Tháng 10 năm Bính -thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả ba mươi người, từ trại Nghệ-an, cưỡi thuyền vượt bể để về bắc ; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê-động ở đảo Hải-nam ngày nay (TB 276/3b).

Thường-Kiệt lại dò biết Tống dụ Chiêm-thànhvà Chân-lạp họp lực để đánh nam-thùy ta. Tháng tám năm ấy (Bính-thìn 1076), Thường-Kiệt đem quân vào tuần-du ở các châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh mà Chiêm-thành mới nhường cho ta bảy năm trước. Ông vẽ địa đồ các châu ấy để tiện việc phòng thủ. Muốn củng cố địa vịcủa ta ở những châu mới ấy, ông chiêu dân tới ở, và tổ chức cai trị lại. Đổi tên Địa-lý ra Lâm-bình và Ma-linh ra Minh-linh (TT).

Về việc này, sử ta (TT) chép rằng " vua sai Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm-thành (12), nhưng đánh không thắng bèn vẽ bản đồ... " Nhưng chắc rằng mục đích cuộc xuất quân này không phải là dể xâm chiếm Chiêm-thành. Bấy giờ quân Tống đã tụ tập nhiều ở Ung-châu. Thường-Kiệt chỉ đi tuần tra kiểm soát sự phòng thủ, để ngừa sự bất trắc ở miền nam thôi. Sự họa bản đồvà di dân tới ở các châu mới kia đủ tỏ ý định ấy.

Tâm trí Thường-Kiệt bấy giờ phải chuyên chú về sự Tống đương soạn sửa uy hiếp miền bắc.

Sau trận Lý tấn công, vùng Tả-giang trên đất Tống bị tàn phá. Muốn ngăn Tống kéo quân xuống, quân ta đã dùng phép thanh-dã. Các kho tàng, tiền bạc, lương thực đều bị đốt cháy. Quân Lý, nhất là thổ binh, lại mang cả nhà đi theo, cho nên đã cướp của cải, bắt đàn bà, con gái Tống rất nhiều. (Theo lời tâu Trương Phương-Bình, TB 276/18b). Dân gian chạy tán loạn vào rừng núi. Nhiều khê động quay theo Lý. Người Tống dẫu muốn phục thù, trước hết cũng mất nhiều thì giờ để khôi phục và sắp đặt vùng ấy đã. (TB 275/12b và TB 276/19b).

10. Ảnh-hưởng
Trên đây, tôi đã nhờ một ít chi tiết ghi trong các sách Tống, để kể lại cuộc tấn công của Lý Thường-Kiệt vào đất Tống. Tự nhiên, sách Tống đã tìm mọi cách để giảm vũ công ta, như nói có người Tống bày mưu kế hay chiến thuật. Nhưng thế cũng không che nổi sự thất bại lớn lao và chua cay của Tống. Ta hãy xem những ảnh hưởng của nó, sẽ hiểu rõ.

Sau khi Tống bị đại bại, tại triều Tống, vua và tể thần không ai chịu nhận lỗi mình. Người này đổ lỗi cho người kia. An-Thạch viết trong tư-kỷ của mình rằng : " Vua sai Khỉ kinh-chế kín việc Giao-chỉ, các đại thần không hay. Phàm Khỉ tâu xin gì, vua cũng nghe " (TB 244/3b). Thần-tông thì chối không hề sai Khỉ làm bậy ; tự tay viết chiếu kể tội Khỉ, có nói : " Trước đây Thẩm Khỉ ở Quảng-tây nói dối là nhận được mật-truyền của triều đình bảo soạn đánh Giao-chỉ " (TB 272/2a). Người đương thời cũng kết tội Khỉ như thế ấy (TB 272/2a), và nhiều kẻ buộc hẳn lỗi tại An-Thạch tham lập công (Trần Quán, TB 244/4a).

Sau ngày Khâm và Liêm mất, Lưu Di bị cách chức và Thạch Giám được bổ thay (tháng 12 năm Ất-Mão 1075).

Ngày mồng 9 tháng giêng (B. Da, DL 16-2-1076; TB 272/2a), vua Tống sai Thạch Giám và Chu Ốc xét tội Thẫm Khỉ và Lưu Di, tuy rằng trước đó vua có hạ chiếu kể tội hai viên coi Quế-châu ấy (VI/cth3).

Thất trận, An-Thạch đổ hết tội cho các thuộc-hạ. Kỳ thật, ai cũng biết chính y là chủ mưu và hoàn toàn phải mang trách nhiệm. Sau khi nghe quân mình thua trận liên tiếp ở Quảng-tây,Vương An-Thạch muốn bưng bít, kẻo sợ dư luận bài xích. Lúc được tin Ung-châu bị vây, An-Thạch nói : " Thành Ung rất chắc, quyết là không phá nổi ". Vua cho là đúng. Đến khi Ung-châu mất, vua muốn triệu hai ti trung-thư và khu-mật tới hội nghị ở các Thiên-chương, An-Thạch canrằng : " Hội ở đó thì việc thất lợi này thành ra việc to. Bất-nhược hội ở Đông-phủ ". Tư-mã Quang (TTh 13) chép lời ấy và thêm rằng : Vương An-Thạch lo, tỏ vẻ ra lời nói và sắc mặt, đến nỗi Vương Thiều phải bảo : " Ông ở đây còn lo như thế, huống chi kẻ ở ngoài biên-khích ! Xin ông án-trọng, để trấn-tĩnh vật-tình " (TB 273/10a).

An-Thạch lo sợ như vậy, là vì y để hoàn toàn hy vọng vào việc lập biên-công, để gây thanh thế cho mình ở trong triều và ngoài nước. Y lại rất tin rằng thành Ung vững chắc. Khi biết Ung-châu bị vây, y đã lập tâm cho Triệu Tiết đem dại-quân, thừa-hư đánh thẳng vào đất Lý (TB 276/2b). Đến khi thấy mưu mình thất bại, y hoang mang, bối rối.

Ngày 24 tháng 5 năm Bính-thìn 1076, vua Tống Thần-tông phàn nàn với An-Thạch rằng : " Đời vua Chân-tông lúc Lê Hoàn chết, có thể lấy được Giao-chỉ ; thế mà bỏ mất cơ hội ". An-Thạch nói : " Khi Nùng Thiện-Mỹ nội-phụ (1074), Giao-chỉ không giám cố-nài (VI/5). Bấy giờ Càn-Đức mới lên ngôi. Trong ngoài, dân chưa theo. Trong nước ai cũng sợ Trung-quốc tới đánh...Nay có người buôn bán ở Giao-chỉ, nhân theo giặc tới Ung, rồi trốn thoát. Đã gọi nó tới và hỏi rằng : " ngày trước Giao-chỉ vào cướp có 6 vạn người, mà trong đó nhiều đàn bà, con gái, ông già, kẻ ốm, có phải thế không ? " Kẻ kia trả lời : " Nhà có sáu người thì năm người đi theo quân, còn một người nữa không đi được, nên ở lại ". Xem vậy, cả nước Giao-chỉ đã vào cướp. Trong nước chúng đã không còn ai. Ta bỏ mất cơ hội, thật là đáng tiếc ! " (K.Vi, DL 28-6-1076 ; TB 276/13b).

Trên đây là một chứng, tỏ rằng An-Thạch và vua Tống lăm le muốn thừa cơ lấy nước ta. Sau đây còn có một chứng khác, tỏ rõ rằng An-Thạch trước khi Ung-châu mất, muốn thừa-hư đánh úp ta, và sau khi ấy, lại bối rối và hối hận. Ngày mồng 6 tháng 6, vua Tống và An-Thạch cãi nhau về việc dùng người đi phủ-dụ các khê động đã theo ta, lúc quân ta tới Tả-giang. Vương Thiều nói : " Trước, định cuối xuân đầu hạ đánh Giao-chỉ. Sau, ti tuyên-phủ lại đổi ý. " Vua hỏi : " Sao lại thế ? " An-Thạch trả lời : " Tôi khi trước thấy Giao-chỉ đánh Ung-châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không ; nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp ở hậu phương nó. Làm như thế, thì ta không cần đánh quân nó đương cướp ở đất ta, mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung mất, sự đánh úp chúng không thể bàn đến nữa". An-Thạch lại nói thêm :"Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn-Đức mới lập. Bấy giờ, các khê động đều muôÙn nội-phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao-chỉ, thì chỉ cần mộ 2 vạn tinh binh, chọn 5, 6 tướng vừa vừa, là có thể làm xong chuyện. Tôi trộm nghĩ rằng nếu bấy giờ ta đoán được sự ngày nay chúng không tuân lệnh, thì ta đã có tiếc gì mà không cử binh. Thế mới biết rằng : việc bốn cõi biên thùy, nếu không lo sự lớn hơn sự bé, làm việc khó trước việc dễ, thì đến nhọc quân tốn của" (DL 9-7-1076; TB 276/2b và 3a).

Vua tôi Tống tiếc rẻ không đánh ta trước, nhưng lại không biết rằng sở dĩ Tống bị đánh trước, là vì Tống dự bị đánh ta. Trong cuộc xung đột nam bắc, hai bên rất rõ ý nhau. Chỉ có bên khéo tính toan, hành động nhanh chóng, là bên thắng. Chuyến nầy, nhờ Lý Thường-Kiệt, nước ta đã đi nước trước, cho nên mới thắng một cách hoàn toàn và khỏi thua về sau.

Nhưng Vương An-Thạch cũng không phải kẻ tầm thường. Y tính toan rất đúng lẽ. Khốn nỗi, trên vì vua còn do dự, dưới vì tướng vụng về, cho nên gây thành thất bại ấy. Hãy nghe tiếp câu chuyện của vua tôi Tống còn kể dở trên kia.

Vua Tống nói :"Ngày trước, nếu ta muốn hưng-binh cho lợi, thì trước phải luyện binh đã". An-Thạch trả lời :"Cứ bắt đầu làm đi, thì kẻ có tài tự nó luyện lấy. Nếu không bắt đầu, thì binh khó lòng mà luyện được; nếu ta đêm ngày tập mà không biết địch-khí ra sao, thì lúc cử-sự, sẽ bất lợi. Nếu ta cứ cử-sự đi, thì kẻ có tài và kẻ bất tài sẽ phân biệt. Ta sẽ thưởng bạt kẻ có tài, kẻ bất tài cũng phấn khởi". An-Thạch thích hoạt động, nên hay bênh thuyết "phải hoạt động mới thấy tài, và chỉ có kẻ bất tài mới không hiếu sự". Vua Tống nói :"Cũng phải dùng đến quân có sẵn, rồi mới có thể cử sự được; và ta cũng phải xét sức có thể thắng hay không, mới nên cử sự". An-Thạch trả lời :"Lúc Càn-Đức mới lập, ta chỉ cần hai vạn tinh binh là xong việc. Ở Trung-quốc, há lại không thể mộ được hai vạn quân giỏi, năm bảy tướng vừa hay sao? Lúc quân ta diệt được Giao-chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ta bá-cáo cho Thiểm-tây biết, quân dân Thiểm-tây sẽ thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được Hạ, thì ai dám quấy nhiễu Trung-quốc nữa" (Nhật-lục, TB 276/2a, 2b và 3a).

Mộng Vương An-Thạch đã tan. Vương An-Thạch hối cũng không kịp. Tuy y đã dự bị việc phục thù, nhưng dư luận xôn xao; các triều thần nhao nhao chỉ trích. Trong các thư tịch đời Tống còn lại, các danh nhân như Tư-mã Quang, Trình Hạo, Phương Chinh-Bình, vân vân, còn chép một vài mẩu chuyện về việc xuất quân bất lợi của An-Thạch. An-Thạch hoàn toàn cô lập, trở nên chán nản. Không đợi kết quả của cuộc phát quân phục thù mà mình đã chủ mưu, An-Thạch phải xin từ chức. Ấy vào tháng 10 năm Bính-thìn (1076).

Một ảnh hưởng bất ngờ của cuộc thắng trận của Lý Thường-Kiệt là : không những nó đánh đổ âm mưu xâm lược của Tống, không những nó đánh đổ kẻ chủ mưu cuộc xâm lược ấy, mà nó còn là cớ cuối cùng đánh đổ một cuộc cách mạng về tư tưởng, về chính trị, về kinh tế, vĩ đại nhất ở thế giới trong đời trung cổ.

CHÚ THÍCH
(1) Theo sử ta, Lý Công-Uẩn là con vô thừa nhận. Bố nuôi là Lý Tự-Khanh, cho nên lấy họ là Lý. TT còn chép chuyện hoang đường mẹ có mang với thần nhân. Sự thật, chắc rằng thuyết ấy là bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốc tích không được đẹp đẽ, hoặc để cho dân sự đương thời theo về. Sách VSL chép : khi lên ngôi, Lý Công Uẩn phong bố làm Hiển-khánh-vương, anh làm Vũ-uy-vương, em làm Dực-thánh-vương. Xem vậy, Công-Uẩn biết cha là ai và có đủ họ hàng, chứ không phải là một đứa con vô thừa nhận. Tuy ta có thể nghĩ rằng bố đây là bố nuôi, Nhưng VSL chép rõ những chữ : phụ, huynh, đệ.

Vì thế, thuyết nói Công-Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Vả chăng nước ta bắc buộc trong nghìn năm, người Trung-quốc hoặc sang buôn bán, hoặc sang làm việc quan, rồi sinh con cái ở đất ta rất nhiều. Có lẽ hầu hết dân miền trung châu gốc ở Trung-hoa. Cho nên Lý Công-Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ tiên sang nước ta lúc nào ? Dựa vào sự họ Lý dấu gốc tích, tôi nghĩ rằng gốc ấy mới. Có lẽ bố Lý Công-Uẩn người Mân, có chức vị quan trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn tích. Sau Công-Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy, nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả thuyết này đúng hay không. Một điều chắc chắn là đời Tống, người Tống đều nhận Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá-Tường nói mà thôi, mà sách Mộng khê bút đàm cũng nói thế. 1.

(2) Có lẽ Bá-Tường sau này không giúp Lý Thường-Kiệt. Sau khi quân Lý rút lui, viên coi Quế-châu là Thạch Giám có khai công trạng Từ Bá-Tường, đã mộ 700 quân che chở cho nạn nhân chạy giặc xuống Quảng-châu. Ngày 22 tháng 3 năm B. Th (1076), Bá-Tường được bổ làm tuần-kiểm các châu Khâm, Liêm và Bạch (TB 273/17b).

Nhưng sau, vua Lý tố giác sự Bá-Tường xui ta đánh Tống. Ngày 26 tháng 2 năm M.Ng (1078), có chiếu cách chức anh em Bá-Tường, ép Bá-Tường tự thắt cổ chết, và phát phối cho con cái (TB 288/7a). 1.

(3) Xem câu chuyện giữa vua Tống và Vương An-Thạch (VII/10). Tô Tử-Nguyên cũng có nói với An-Thạch rằng : quân Giao-chỉ, một nhà tám người thì bảy người đi, còn một người ốm yếu ở nhà (TB 276/13b). 2.

(4) Sử ta, như TT và VSL, chép mười vạn. Sách TB có lúc chép 6 vạn (276/13b), có lúc chép 8 vạn (271/6b). Những số ấy cũng đều có lý. Dân các châu kéo vào Ung-châu, thì khó lòng đếm được, nhất là phu-phen đi theo không có định số. Còn số quân chắc có thể đến 6 vạn. 2.

(5) TS quyển 495 chép :"Họ Nùng có Tông-Đán, coi động Lôi-hỏa, cũng là khá hiệt-liệt. Đời Gia-hữu thứ 2 (1057) đã từng vào cướp đất Tống. Viên coi Quế-châu là Tiêu Cố chiêu dụ Tống-Đán, y bèn theo, được trao chức trung-vũ tướng-quân; Con Tông-Đán là Nhật-Tân, nguyên coi động Ôn-mẫn, được trao chức tam-ban chức-phụng. Năm Gia-hữu thứ 7 (1062) cha con Tông-Đán đem các động Lôi-hỏa, Kế-thành nộp cho huyện quan, và xin vào ở Lạc-châu, để đời đời làm dân Tống. Vua Tống ban cho mỗi người họ Nùng một chức. Tông-Đán được coi châu Thuận-an, và được ban trâu, muối, vóc...Sau đó, Nhật-tân từng coi thuế ở Ung-châu.

(6) "Đời Trị-bình (1064-1067), Tông-Đán có hiềm khích với tụi Lý Nhật-Tôn (Thánh-tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng ép bức. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn sai người đến dỗ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình mà dời nhà vào nội địa. Vua Tống ban cho chức hữu-thiên-ngưu-vê tướng-quân".

TS quyển 488 (Giao-chỉ truyện) chép lược hơn, nhưng cũng phù hợp với trên : Năm đầu niên-hiệu Trị-bình (1064), Giao-chỉ đòi lại Nùng Tôn-Đán và con là Nhật-Tân, với đất hai động Ôn-mẫn. Hàn Kỳ bàn với vua Tống nên trả lại (V/8).

TB 349/6a chép : Tông-Đán nộp đất Vật-ác; Tống đổi ra châu Thuận-an.

Trong trận Ung-châu, Nùng Nhật-Tân bị chết, nên được vua Tống tặng cho chức giám-áp Ung-châu (thánh hai năm B.Th 1076, TB 273/3a). Còn Tông-Đán vẫn theo Tống. Nhưng vua Tống cũng không tin lắm. (V/8)

Những việc trên, tuy làm cho ta không tin chắc rằng Nùng Tông-Đán đã theo Lý đánh Ung-châu, nhưng cũng không đủ để bác thuyết ấy. Sau khi quân Thường-Kiệt rút về và đại quân Tống tới, có nhiều tù trưởng trước là tướng theo Lý, bấy giờ lại theo Tống, như Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, vân vân. 2.

(7) Các sử ta không còn thấy chép việc sao chổi hiện. 3.

(8) Quảng-tây biện 57 vạn thạch gạo, Quảng-đông biện 57 vạn thạch gạo và 10 vạn thạch đậu, Kinh-nam biện 3 vạn thạch gạo, Phúc-kiến biện 3 vạn thạch gạo (TB 271/12a). 5.

(9) Lúc luận công, đáng lẽ năm con Thủ-Tiết được bổ làm quan, nhưng ngày 27 tháng 7 năm B.Th (1076), viện khu mật tâu : "...Nhưng xét ra, thì Thủ-Tiết nhu-nhược, không điều khiển được quân. Quân lính nhiều người hàng giặc, và bày cho giặc làm súng pháo để đánh thành Ung. Nay xin chỉ bổ cho hai con y mà thôi" (TB 277/17a). 7.

(10) Về ngày Ung-châu mất, mỗi sách chép một khác. TTh chép ngày 21 tháng giêng. ĐĐSL cũng chép ngày ấy. BM chép ngày A.Ma, nhưng tháng giêng không có ngày ấy. Trên đây, theo Thần-tông thực-lục mà TB chép. 8.

(11) Vua Tống Thần-tông được tin Tô Giàm chết, rất thương tiếc. Ngày 15 tháng 2, vua nhịn ăn để tỏ lòng xót thương. Bèn tặng Giàm chức Phục-quốc-công, tiết-độ-sứ, và ban tên thụy Trung-dũng. Vua Tống lại cấp mười khoảnh ruộng hạng nhất ở khu đệ nhất trong kinh thành. Ban chức cho những người thân thuộc, và thăng chức cho con là Tử-Nguyên, duy nhất sống sót vì Giàm đã để cho rời khỏi Ung trước khi Ung mất, làm tây-đầu cung-phụng hạp-môn chỉ-hậu. Tử-Nguyên được bổ làm phó-tướng, đi mộ thủy-quân. Vua Thần-tông đặc-biệt mời Tử-Nguyên đến mà an ủi. Vua nói :"Nếu không có cha ngươi giữ Ung-châu, thì thành ấy cũng như Khâm và Liêm, giặc vừa đến đã mất. Như thế thì giặc thừa thế đánh tràn, và các châu Tân, Tượng, Quế cũng không giữ nổi. Đời Đường, Trương Tuần, Hứa Viễn giữ Mục-dương để che cho Giang Hoài, công so với cha ngươi không hơn gì xa."

Vua Tống lại thăng cho Tử-Nguyên chức điện-trung-thừa, thông-phán Ung-châu. Còn các con khác, như Tử-Minh, Tử-Chinh, các cháu như Quảng-Uyên, Trực-Ôn, chết ở Ung với Giàm, đều được ưu tặng (TB 273/9b, TS 446).

Vua Tống lại sai lập đền thờ Tô Giàm ở Ung-châu (TS 446).

Việc Ung-châu mất, làm náo động nhân tâm ở Tống. Trước vì Ung là cửa vào phương nam nước Tống. Sau vì Giàm tử tiết ở đó. Sự tử tiết, trong thời đại trọng nho, có tiếng dội rất to. Người đương thời ngợi ca khí tiết của Tô Giàm. Ngô Xử-Hậu, trong sách Thanh-sương tạp-ký có kể chuyện sau này : trước đó, Xử-Hậu là đồng liêu với Giàm ở Việt-châu, y có làm thơ khen Giàm có công chống với Nùng Trí-Cao ở Anh-châu. Trong thơ có câu:"Yến hàm tướng quân dục bạch đầu, tích niên trung-dũng động nam-châu...". Sau đó vua Tống ban tên thụy cho Giàm là Trung-dũng. Xử-Hậu cho thơ y là câu sấm.

Chữ Giàm cũng có âm Giam hay Cảm. 8.

(12) TT chép việc đánh Chiêm-thành vào tháng 8 năm trước (A. Ma 1075). VSL không chép việc ấy. SK cho ta biết rằng sách Việt-sử bi-lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm B. Th 1076. Chép như thế mới đúng lý. Nhưng ta không biết Nguyễn Nghiễm dựa vào đâu mà chép khác TT.

Trong khoảng sử về Lý, TT còn chép lầm một vài chỗ khác.

Còn như VSL, thì không nói đến việc nầy. Ấy tỏ rằng việc tuần-du nầy không quan hệ lắm. Vậy chắc không phải để đánh Chiêm. 9.