Hồn
ta lọc trong vàng nắng
Gió Tây Hồ
thổi suốt mái rêu phong
Thái Thăng Long
Phủ
Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây; nay thuộc phường
Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Phủ là nơi thờ
Mẫu, đây là nơi thờ Liễu Hạnh Công chúa, một nhân vật
một trong bốn vị thánh bất tử thuộc tín ngưỡng của người
Việt. Hồ Tây trước đây còn có các tên gọi khác như Đầm
Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ, là một
hồ nước tự nhiên lớn nhất ở nội thành Hà Nội. Hồ
rộng hơn 500 ha với một chu vi 18 km, chiếm vị trí phía tây
bắc trung tâm Hà Nội. Ngành địa lý lịch sử chứng minh
hồ Tây là một đoạn của sông Hồng xưa trong quá trình ngưng
đọng lại sau khi sông đổi dòng chảy. Các khu vực liền
kề xung quanh hồ Tây được quy hoạch để trở thành trung
tâm của Thủ đô Hà Nội mới trong tương lai gần. Thay thế
dần vị trí hiện nay đang là Hồ Hoàn Kiếm. Hồ Trúc Bạch
cũng chính là một phần của Hồ Tây, từ thế kỉ XVII khi
dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang (nay là phố
Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc đông nam Hồ Tây để nuôi
bắt cá. Từ khi thành một hồ biệt lập, hồ đã đi vào
thư tịch cổ. Sách Tây Hồ chí cho biết nguyên ở phía nam
hồ có làng Trúc Yên, có nghề làm mành, do đó nhà nào cũng
trồng trúc, trúc mọc như rừng từ dấy phát sinh tên Trúc
Lâm. Vào thế kỷ XVIII, chúa Trịnh Giang cho xây một cung điện
để nghỉ mát cạnh hồ và cũng gọi là Trúc Lâm. Sau đó
Trúc Lâm trở thành nơi giam giữ các cung nữ phạm tội, họ
buộc phải tự dệt lụa để nuôi sống bản thân. Lụa của
họ rất đẹp và trở nên nổi tiếng khắp vùng. Lụa đẹp,
bóng bẩy gọi là lụa trúc (chữ Hán là trúc bạch).
Từ đó xuất hiện một làng chuyên dệt lụa với tên là
làng Trúc, và hồ cũng được gọi là hồ Trúc Bạch (không
có nghĩa Tre trắng). Theo truyền thuyết,
phủ Tây Hồ được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII nhưng
có thể có muộn hơn vì trong các sách nói về di tích của
Thăng Long - Hà Nội cổ ra đời đầu thế kỷ XX đều không
ghi chép về di tích này. Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa
cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa năm 1996.
Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được
công nhận là cây di sản Việt Nam, và ở kề bên phủ
còn có đền
Kim Ngưu thờ Trâu Vàng. Ngày nay Phủ
Tây Hồ mở hội vào 2 ngày lễ chính là mùng 3 tháng 3 và
13 tháng 8 âm lịch mất vẻ yên tĩnh của mọi ngày, náo nhiệt
ồn ào không kém gì những đền chùa khác.

 
Tam quan vào cổng
Phủ Tây Hồ kiến trúc chính 3 nếp, mái làm giả ngói ống,
dưới diềm khắc 4 chữ Hán
TâyHồ phong nguyệt (Ðài
gió gác trăng), câu đối hai bên trụ nói về sự tích Phùng
Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh. Phủ chính có quy mô kiến trúc
lớn, mặt trước. Phủ có cửa tam quan 2 tầng, mái giữa có
ghi Tây Hồ hiển tích (Dấu để Tây Hồ), được trang
trí tỉ mỉ, công phu. Bốn cánh cửa giữa phần trên chạm
tứ quý, phần dưới chạm tứ linh (bốn vị thánh bất tử
của hệ thống điện thần: Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng
Tử, Liễu Hạnh) giữa chạm đào thọ. Qua tam quan vào là phương
đình 2 tầng 8 mái. Nhà tiền tế xây sát sau phương đình.
Phần thờ tự theo thứ tự từ ngoài vào: lớp thứ nhất
thờ Tam phủ cộng đồng, Tứ phủ vạn linh và Hội đồng
các quan, có tượng ông Hoàng Bảy, Hoàng Mười, 3 đôi câu
đối ca ngợi chúa Liễu Hạnh. Lớp thứ hai, thờ Ngọc Hoàng
và Nam Tào, Bắc Đẩu, có câu đối ca ngợi thắng cảnh Tây
Hồ. Lớp thứ ba thờ Tam Tòa Thánh Mẫu có cửa võng đề
Tây
Hồ phong nguyệt (Ðài gió gác trăng) và đôi câu đối
ca ngợi bà Liễu Hạnh. Trên nóc mái giáp cửa hậu treo đại
tự
Mẫu nghi thiên hạ, hai bên có câu đối bằng gỗ.
Lớp trên cùng hậu cung là nơi đặt tượng của bà Liễu
Hạnh và tượng Chầu Quỳnh, Chầu Quế. Trên cao là bức đại
tự Thiên tiên trắc giáng (Tiên trời xuất hiện) và
Mẫu
nghi thiên hạ (Làm mẹ thiên hạ). Sát Phủ chính là lầu
Sơn Trang 3 tầng, 8 mái cong, lòng nhà có 2 tầng, tầng trên
thờ Quan Âm, tầng dưới là 3 động Sơn Trang chiếm 3 gian.
Phía ngoài Phủ chính xây 2 am thờ nhỏ thờ Cô và Cậu. Phía
trước lầu có tháp nhỏ, dưới gốc si là tấm bia Từ
chỉ của xã Vĩnh Thuận dựng năm Thiệu Trị 5 (1845). Di
vật trong Phủ còn khá phong phú với nhiều câu đối, cửa
võng, long ngai, bài vị, sập thờ. Cửa cuốn, cửa võng được
chạm khắc đẹp, mang nét nghệ thuật thế kỷ XIX. Ngoài ra
còn có các loại tàn, tán, lọng, 3 quả chuông đồng, 1 bát
hương đồng ghi Ðông Cung Ðiêu, bát hương đá, 10 đạo
sắc phong (3 đạo phong chúa cho Liễu Hạnh, 7 đạo phong cho
thần Kim Ngưu), 50 pho tượng tròn lớn nhỏ.Đây là di tích
trong quần thể di tích ven Hồ Tây, một thắng cảnh đẹp
của Thủ đô. Ðền Kim Ngưu đã bị đổ trong chiến tranh
chống Pháp, nhưng vẫn còn dấu tích là cây đa cổ thụ trên
đó có bàn thờ mà dân làng Tây Hồ dựng lên để thờ vị
thần Kim Ngưu (Trâu Vàng). Trong những năm gần đây, quận
Tây Hồ đã có các cuộc hội thảo khoa học về đền Kim
Ngưu, để từ đó có cơ sở phục hồi một điểm di tích
gắn với vùng Hồ Tây.

 
Theo truyền thuyết,
tiếng chuông làm bằng đồng đen của nhà sư Nguyễn Minh Không
đời Lý đã làm cho con trâu vàng bị giam giữ ở Trung Quốc
tưởng là tiếng trâu mẹ gọi, lồng về phía Việt Nam. Đường
trâu vàng chạy lún thành sông Kim Ngưu. Đến phía tây Kinh
thành thì tiếng chuông tắt, trâu đã lồng và xéo nát một
vùng thành hồ Kim Ngưu, tức Hồ Tây ngày nay. Đền Kim Ngưu
đã bị đổ trong chiến tranh chống Pháp, nhưng vẫn còn dấu
tích là cây đa cổ thụ trên đó có bàn thờ dân làng Tây
Hồ dựng lên để thờ vị thần Kim Ngưu. Một con đường
rợp bóng cây bát ngát hương hoa dẫn khách lại viếng phủ.
Vượt qua cổng tam quan và cây đa cổ, giữa hàng liểu rũ,
đường đạt đến hai cây vối lớn và một cây si cổ thụ
bao trùm rễ cây vương ra mặt nước gây nên một cảnh đẹp
nên thơ. Thảo nào công trình văn hóa tín ngưỡng nầy được
công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia nầy thu hút nhiều
đám du khách không ngớt tán thưởng. Không có gì lạ khi truyền
thuyết kể chính tại mảnh đất Phủ Tây Hồ, Quỳnh Hoa đã
tái ngộ xướng họa thơ văn cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan
(lần thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng) trong vai cô chủ
quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt, ít ngày sau Trạng Bùng
quay lại đã thấy biến mất cả người lẫn quán, chỉ còn
hồ nước mênh mông. Quỳnh Hoa đã được dân chúng lập phủ
thờ, đặt tên là Bà Chúa Liễu Hạnh, xem là một trong
bốn vị tứ bất tử, một tấm gương về sự tự mình
tạo lấy hạnh phúc.
  
Sự tích vị Thánh
Mẫu thờ trong Phủ Tây Hồ được người dân tổng Thượng,
huyện Phụng Thiên xưa (nay là vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Tây
Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Vạn Dâu) cung kính kể lại: Quỳnh
Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Ðệ nhị Thiên Cung,
do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống
trần gian đầu thai làm Giáng Tiên - con gái thường dân Lê
Thái Công ở An Thái - Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định vào năm
1557. Lớn lên, có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi thơ,
song lấy chồng và sinh con - một trai, một gái - thì Giáng
Tiên chớp mắt thăng thiên đình. Nàng giáng trần lần thứ
nhất để gặp lại người thân, có hai nữ thần Quế Nương,
Thị Nương hậu vệ; lần hai hiển linh để cứu nhân độ
thế, trừng phạt kẻ bất lương trêu ghẹo người này, gia
ơn cho kẻ khác và du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút làm
thơ. Bà Chúa Liễu Hạnh theo quan niệm dân gian đã trở thành
một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân, hóa thân thành
các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu
Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn
cai quản núi rừng, cai quản trên sông biển, thể hiện sự
ngưỡng mộ chân thành, coi trọng vai trò của người mẹ.
Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt
song hành: Mẫu ThượngNgàn là vị mặc áo xanh lá cây
tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các
loại củ; Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) là vị mặc áo
trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc
áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành
Tam
phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt,
từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng
lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên
phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa
phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản
thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn
cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và
giải ách, tín ngưỡng Tam phủ hấp dẫn mọi người.

  
Từ thuở nào, tâm
linh đã đóng vai trò rất quan trọng đối với người dân
Việt, trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là tập tục phổ biến
và có từ lâu đời. Đấy là tập tục thờ các vị nữ thần
có từ thời nguyên thuỷ với các nữ thần đại diện cho
thiên nhiên như Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Lúa… đến các
vị nữ anh hùng , các vị Công Chúa, Hoàng Hậu, hay bà Tổ
cô của dòng họ, bà Tổ nghề của một làng nghề… trong
dân gian. Các vị nữ thần thường được nhân gian suy
tôn là Thánh Mẫu, vừa là vị thần có quyền năng màu nhiệm
vừa là người mẹ bao dung che chở cho đàn con thơ, vừa huyền
bí lại vừa gần gũi. Một tín ngưỡng có sức ảnh hưởng
rộng rãi ở nước ta là tín ngưỡng thờ Mẫu và tam, tứ
phủ với nghi lễ đặc trưng là hầu đồng (hầu bóng, lên
đồng...).Trong tín ngưỡng này, Thánh Mẫu được tôn thờ
là vị thần chủ quyền năng cai quản toàn vũ trụ. Theo quan
điểm đó vũ trụ được chia ra làm ba miền (ứng với tam
phủ) hoặc bốn miền (ứng với tứ phủ). Theo quan điẻm
thứ nhất, Tam phủ gồm có : đê nhất
Thiên phủ
(Trời), đệ nhị Địa phủ (Đất), đê tam Thoải
phủ (Sông nước) ; Tứ phủ gồm có đệ nhất Thiên
phủ, đệ nhị Địa phủ, đệ tam Thoải phủ,
đệ tứ Nhạc phủ (Núi rừng). Trong Tam phủ cũng
như Tứ phủ, theo thứ tự các phủ thì: Thiên, Địa, Thủy,
Nhạc. Theo quan điểm thứ nhì cũng rất phổ biến trong các
khoa cúng và trong các bản chầu văn có một thứ tự khác:
Thiên, Nhạc, Thủy, Địa. Vậy Tam phủ gòm có đê nhất Thiên
phủ (Trời), đệ nhị Nhạc phủ (Núi rừng),
đê tam Thoải phủ (Sông nước) ; Tứ phủ gồm có đệ
nhất Thiên phủ, đệ nhị
Nhạc phủ, đệ tam
Thoải
phủ, đệ tứ Địa phủ. Thật ra ngày nay rất ít
người còn để ý đến chuyện xép đặt như xưa.Tuy vậy,
quan
niệm thứ tự của tứ phủ hợp lý nhất theo mặt không gian
từ cao xuống thấp. Cao nhất là tầng trời (Thiên); sau đó
đến vùng cao nguyên rừng núi ( Nhạc); sau đến vùng đại
dương sông nước (Thuỷ hay còn đọc chệch là Thoải), rồi
mới đến vùng đất (Địa). Bốn màu tượng trưng bốn phủ
: Màu đỏ (thiên phủ), Màu xanh (nhạc phủ), Màu trắng (thoải
phủ), Màu vàng (địa phủ). Tuy có nhiều quan điểm khác nhau
nhưng không hề mâu thuẫn bởi vì chung quy tất cả đều là
tôn thờ Thánh Mẫu tôn thờ toàn vũ trụ
.
Tương ứng với tam phủ là Tam tòa Thánh
mẫu, quyền năng tối cao. Danh hiệu các vị Thánh Mẫu
như sau: 1- Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên ,Cửu Trùng Thanh Vân Công
Chúa; 2- Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa ; 3-Mẫu
Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa; 4-Mẫu Đệ Tứ Nhạc
Tiên, Sơn Lâm Công Chúa.

 
Tam tòa Thánh Mẫu
được coi là ba vị Thánh Mẫu quyền năng tối cao,tương ứng
với tam phủ và tứ phủ như vừa trình bày. Có bốn vị thánh
Mẫu tương ứng với bốn phủ nhưng tam tòa Thánh Mẫu thì
chỉ nói về ba trong số bốn vị Thánh Mẫu mà thôi. Chính
vì vậy nên có nhiều quang điểm giống nhau về thứ bậc
trong Tam Tòa Thánh Mẫu. 2 quan điểm thường gặp trông như
giống trong quan điểm về tam phủ đã nói ở trên (thiên -
địa- thoải và thiên - nhạc - thủy). Mẫu Liễu Hạnh được
xem là thần chủ là khởi nguồn của tín ngưỡng này nên
cả trong hai quan điểm đều có nói đến ngài. Quan điểm
thứ nhất thường thấy trong các bản văn cúng, các bản chầu
văn. Quan điểm thứ hai lại rất thường gặp trong việc thờ
tự. Mẫu Liễu Hạnh vừa là Mẫu Địa Tiên vừa
được coi là Thiên Tiên Thánh Mẫu .Thần tượng của
ngài thường được tôn trí với trang phục màu đỏ và ngự
bên trái là Mẫu Thượng Ngàn ( trang phục màu xanh) và bên
phải là Mẫu Thoải ( trang phục màu trắng). Tam tòa Thánh
Mẫu cũng ứng với tam thân Thánh Mẫu , là biểu tượng
của quyền năng thâu tóm toàn vũ trụ. Xét về tâm linh thì
bốn vị Mẫu chính là đại diện cho một vị Thánh Mẫu duy
nhất đó là người mẹ của tâm linh.mà cũng có thể đơn
giản đó là biểu tượng của người mẹ bất diệt trong
lòng người dân Việt Nam. Phủ Tây Hồ vào
hội còn có hầu bóng, một loại hình nghệ thật dân gian
vừa có âm nhạc, vừa có ca hát và vũ điệu với trang phục
sặc sỡ, mà điển hình là điệu hát chầu văn đã khá phổ
biến hiện nay. Phủ Tây Hồ không có quy mô lớn lắm, nhưng
ở vào vị trí mây nước hữu tình tuyệt đẹp. Trong phủ
còn lưu giữ nhiều tự khí có giá trị văn hóa cao như: Hương
án cổ thời Lê với hoa văn là những con dơi trụ lại cảnh
Ngũ
phúc hàm tiền, quả chuông cổ thời Tây Sơn, tấm bia ghi
rõ một số nét hương ước của làng Tây Hồ. Bên cạnh đó,
đến thăm Phủ, khách du lịch ai cũng phải trầm trồ trước
cây vối cổ thụ nằm nghiêng đã mấy trăm năm như con kỳ
lân ngóng ra sóng gợn, còn trong phủ là vàng son, nhang khói,
tượng Mẫu, tượng Phật, tượng khu Sơn Trang, tượng Cô,
tượng Cậu, các quan… Vào dịp Tết đến xuân về, du khách
thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu
may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về áo
mây xe gió của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh
thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ
và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày
13 tháng tám âm lịch.


ảnh chụp năm
1995 và lấy trên internet
Thành
Xô Tết Kỷ Hợi
|
|
Đọc thêm
-H.Việt,Chất
sống Hồ Tây-Ðẳng cấp của thế gia,
Dân Trí 30.11.2017
-Trần Văn-Hà Trang,
"Mướt
mồ hôi" chen chân lễ Phủ Tây Hồ ngày Rằm tháng Giêng,
Dân Trí, Xuân Kỷ Hợi
-Nguyễn
Dương,
Người dân phấn khởi được gửi xe miễn
phí tại Phủ Tây Hồ,Dân Trí, Xuân Kỷ Hợi
-Nguyễn Đổng Chi,
Bà
chúa Liễu Hạnh, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, nxb
Trẻ tái bản 2015
-Hồng Phúc, Từ
bà chúa Liễu Hạnh trong tín ngưỡng dân dã đến đức Vân
Hương trong Tam kỳ Phổ độ, Nhịp cầu Giáo lý 20.09.2010
ChimViệt Cành
Nam
|