Các
vị La-hán chùa Tây Phương !
Hôm nay xã hội
đã lên đường
Tôi nhìn mặt
tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng
hôn, tản khói sương.
Huy Cận
Chùa
Tây Phương nằm trên ngọn núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá,
huyện Thạch Thất. Chùa được cho là xây dựng dưới thời
Mạc nhưng chưa được chứng minh, trùng tu nhiều lần các
thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Lần cuối để lại hai tấm bia mờ
hết chữ nhưng còn đọc được rõ ở mặt ngoài Tây phương
sơn Sùng Phúc Tự thạch bi, mặt kia áp vào tường. Các
hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII. Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông,
chùa dựng thượng điện 3 gian, hậu cung hành lang 20 gian. Giữa
những năm 1657-1682, Tây Ðô Vương Trịnh Tạc cho phá chùa
cũ, xây chùa mới và tam quan. Năm 1794, dưới thời Tây Sơn,
chùa được đại tu hoàn toàn kiến trúc như thấy ngày nay
qua tên Tây Phương Cổ Tự. Tuy nhiên, tên Sùng Phúc Tự còn
và Hoàng Sơn Thiếu Lâm Tự cũng được dùng. Chùa quay mặt
về hướng đông, nhìn ra gò Rồng Sông (nay là xóm Đồng Sống)
và gò Kim Quy, còn gọi là Núi Rùa. Chùa tọa lạc trên đỉnh
núi cao hơn 100m, khách phải trèo 239 bậc lát đá ong mới lên
đến tam quan, đạt đến ba ngôi chùa Hạ, chùa Trung, chùa
Thượng làm thành tiền đường, chính điện, hậu cung, sắp
song song theo kiểu chữ Tam, từ thấp lên cao. Cách nhau 1,6m,
cả ba chùa tuy có kiến trúc khác nhau, đươc sắp đặt hài
hòa theo hình chữ công giữa một khu rừng um tùm trang nghiêm.
Mỗi chùa có hai tầng mái lợp hai lớp ngói, lớp trên có
múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hay ngói chiếu,
hình vuông màu ngũ sắc xếp trên những hàng thanh rui gỗ thành
ô vuông vắn. Xung quanh diềm mái đều chạm trổ tinh vi hình
lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con vật bằng đất nung.
Ðầu mái trình bày những hình hoa, lá cùng những hình rồng,
phượng, sô (sư tử) kiểu "rồng quài, phượng mớm, sô đùa
"cao vút, sinh động. Cột chùa kê trên những bệ đá chạm
hình cánh sen tượng trưng cuộc sống trong sạch. Tường xây
gạch Bát Tràng để trần nung đỏ quanh các cửa sổ tròn
bán âm bán dương quét vôi trắng biểu tượng sắc tướng
hư không tạo ra cảm giác Phật tính như khi đi viếng toàn
thể ngôi chùa.
Kiến trúc độc đáo
không thể làm mờ những tác phẩm đặc sắc của nghệ thuật
điêu khắc, chạm trổ, phù điêu, tạc tượng, đặc biệt
tôn giáo tập trung trong chùa. Những tác phẩm bằng gỗ sơn
thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép cũng
như cách bố cục các bộ phận. Ðề tài trang trí quần, áo,
khăn, mũ, đai, hia, vũ khí,...hầu hết là những hoa quả miền
đồng bằng sông Hồng như lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc
hay những những hoạt cảnh thường thấy trong các lễ hội
bình dân như hổ phù, tứ linh rồng lân rùa phượng, tinh tế,
đa dạng, tỏ rõ một kết hợp hài hòa những đường nét
mềm dẻo và cứng rắn. Tác giả là những nghệ nhân Chàng
Sơn trong Tổng Nủa, một làng nghề mộc nối tiếng xứ Đoài.
72 pho tượng cùng các phù điêu đều được thờ trong các
điện và nhà Tổ. Phần lớn các tượng cao hơn người thật,
có khi đạt đến 3m. Trong tòa hậu đường, sau pho tượng
Thích Ca màu đen có bộ tượng Tam Thế Phật (Quá khứ, Hiện
tại, Tương lai) còn gọi Tam thân (Pháp thân, Ứng thân, Hóa
thân) đầu thề kỷ XVII, sơn son thép vàng, ở tư thế tọa
thiền trên bệ hoa sen. Dưới tượng Thích Ca có mười pho
tượng Thập Điện Diêm Vương nhỏ hơn ngồi quanh hương án.
Trong tòa trung đường bộ Di Ðà Tam Tôn gồm có Phật A Di
Ðà ở giữa, hai bên có Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát hầu. Trước Phật A Di Ðà có tượng Tuyết Sơn
màu đen, da bọc xương sau kỳ tu khổ hạnh trên núi tuyết,
mắt trũng sâu lim dim, khoác áo cà sa mỏng, tay trái đặt lên
một chân bó gối chống thẳng. Hai bên có các tôn giả Ca
Diếp và A Nan, đứng chắp tay, chân không. Trong tòa tiền đường
có tượng Di Lặc tay ôm đầu gối, phanh áo lộ bụng tròn,
toàn thân toát ra lạc quan, sung sướng. Hai bên có tượng Ðại
Diệu Tường còn gọi Văn Thù Bồ Tát, chắp tay, chân đi đất,
bấm ngón xuống mặt bệ, và tượng Pháp Hoa Lâm tức Phổ
Hiền Bồ Tát, râu đen, dang một tay trước mặt. Hai bên chính
điện các tòa trung đường và tiền đường có 8 pho tượng
Bát bộ Kim Cương.

Nhưng được biết
và có tiếng nhiều nhất là 18 pho tượng ngồi trên bệ dọc
tường, chạm trổ mặt mày, y phục hoàn toàn khác nhau và
cử chỉ điệu bộ mỗi vị một khác : ta thường gọi là
các vị La Hán hay A La Hán, mang tên Ấn Độ arhat (Phan
tự) hay arhant, arahant (pali), là những bậc thánh hiện
thân của sự giác ngộ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy.
Lúc ban đầu con số 500 (nghĩa là vô số) được đưa ra. Theo
quan niệm Thiền tông họ là những vi Tổ truyền đăng (Tổ
trao đèn), đăng là đèn, tức là ánh sáng giác ngộ mà Tổ
trao lại cho người sau. Theo quan niệm nầy, đức Phật Thích
Ca trước truyền cho 28 vị Tổ người Ấn Ðộ gọi là Tây
thiên nhị thập bát tổ, sau qua Trung Quốc truyền cho các
vị Tổ Thiền tôn, rồi truyền tiếp cho các vị Tổ Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam 16 vị, thêm tiếp tôn giả Khánh
Hữu và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18, nên có tên Thập
bát La Hán. Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào Tô
Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài
văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La Hán. Tiếp
đến, họa sĩ Trương Huyền dựa vào 18 bài văn ca tụng của
Tô Thức mà tạc tượng 18 vị La Hán, nhưng lại thay hai vị
17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Từ
đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, con
số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công nhận,
con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại
Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Ða La và
Bố Ðại Hòa Thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long và
Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc. Các Ngài đã
đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa
giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian
để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh.
Thập
bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian.
Tranh tượng La Hán trình bày những nét sống động của các
bậc Thánh hết sức hồn nhiên phụng hiến năng lực của
mình. Sự tích 16 vị La Hán (danh tánh, trú xứ, sứ mệnh)
được chép trong sách Pháp Trụ Ký do đức Phật thuyết giảng,
vị Ðại A La Hán Nan đề mật đa la (Nandimitra) tức Khánh
Hữu lượt thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664)
dịch ra chữ Hán. Tiếp theo, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn
là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A La Hán.
Tương truyền Thiền sư nhân nằm mơ cảm ứng thấy được
hình ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Người ta còn tìm thấy
những hình ảnh này ngày nay tàng trữ trên vách tường Thiên
Phật động tại Ðôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.
Sau Thiền sư Quán Hưu còn có các hoạ sĩ Pháp Nguyện, Pháp
Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La Hán.
Có nhiều sự tích
khác về 18 vị La Hán. 1- Sự tích thứ nhất được kể trong
tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ Hoằng Khai,
trụ trì chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Ðức thứ
tư (1851). Theo sách này thì nước Triệu có nàng công chúa
tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành mộ đạo, nàng chuyên
niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một
đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng
tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan Âm hóa độ
và thọ ký để họ trở thành 18 vị La Hán. Nội dung sự
tích này khá lý thú, cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật,
Khổng, Lão rất thịnh hành ở Á Đông. 2- Trong sự tích thứ
hai, tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng
cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh,
nương theo Phật pháp tu hành và đắc quả A La Hán. Sự tích
này tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách huyền
thoại, nên ít được phổ biến. 3- Còn có một sự tích kể
trong tập tiểu truyện được thực hiện nhân dịp thiền
viện Thường Chiếu khánh thành La Hán Đường vào tháng chạp
năm Ất Dậu (01-2006), để giúp các huynh đệ hiểu thêm về
các vị La Hán, tăng trưởng niềm tin của mình đối với
Phật pháp. Ðấy là chuyện 18 người ăn mày lần lượt vào
xin ở lại ở hai chùa. Ngôi chùa thứ nhất nhờ có một nôi
nước cốt, nước giếng trong vắt ngọt ngào lại có linh
khí tương truyền do năm con rồng hóa thành nên còn gọi Ngũ
Long Tuyền. Nước ban nhiều phép lạ, chữa lành bệnh, hóa
phép có con, vua uống nước thành mạnh khoẻ, trăm bệnh đều
tiêu, bảo nước chùa chữa bệnh thần kỳ bèn đổi tên chùa
Xuất Thủy Tự. Bắt đầu từ đây càng khách đông, mỗi
ngày hàng ngàn hàng vạn người. Tiền bạc nhiều để sửa
chùa. chùa mỗi năm càng rộng lớn, phồn hoa, giàu đẹp. Nhưng
một hôm, trời mây đen phủ, giò lạnh buốt xương, một bọn
18 người ăn mày y phục mỏng manh, bộ dạng lam lũ, lại xin
ở nhờ một đêm. Không những bị đuổi đi, họ còn bị
trách mắng, bèn ngước mặt lên trời cười thật to, múa
hát mà đi.
Hồn nhiên mà
đi chừ tùy duyên độ người
Từ bi để lòng
chừ bổn phận thầy tăng
Công danh lợi
dưỡng chừ vốn thuộc nghiệp ma
Nhân quả rõ
ràng chừ Phật tại một tâm
và để lại trên
bức tường trắng cạnh cửa một câu không sao chùi rửa được:
Xuất thủy chẳng
xuất tăng,
Chỉ lưu một
tăng đốt nhang đèn.
|
|
|
Dharitaka
|
Misamta
|
Upagupta
|
Từ đây trong chùa
việc tai họa xảy ra liên miên. Quan viên địa phương đến
lục soát chùa, sung công của cải nhập vào quốc khố. Điền
sảng miếu bị quan phủ thu làm doanh trại quân lính, chỉ
để tăng nhân còn lại làm Phật sự. Không bao lâu chỉ còn
một ông thầy già bịnh hoạn ốm yếu, cô đơn linh đinh lo
việc hương hỏa cho chùa. Xuất Thủy Tự dần dần bị tàn
phá. Bọn 18 người ăn mày kéo nhau qua chùa Hương Tích. Là
một ngôi chùa cổ, Hương Tích ngày càng vắng khách hành hương,
trở thành đổ nát, vách sụp tường nứt, Phật hoại tăng
tàn. Chiều hôm ấy, trong tuyết bay sương lạnh, ba vị tăng
đã sớm tu khóa chiều, ngồi thiền xong, chợt thấy 18 người
ăn mày đến. Ba vị Hòa thượng thấy vẻ đói lạnh bức
bách của 18 người, liền vội vàng đốt củi sưởi ấm,
lấy rơm làm nệm cho họ nằm, nhưng không đủ, tính chuyện
vào thành hóa duyên mượn thêm mền nệm, rồi còn cơm cháo
sáng mai. Đêm hôm ấy, Vương Quán sát nằm mộng thấy 18 vị
La Hán giáng lâm xuống phủ đệ, tay nâng một biển vàng vuông,
trên biển khắc tám chữ lớn: Lạc thiện hảo thí tất
hữu hậu phước (Vui làm lành ham bố thí ắt sẽ có phước
về sau). vội sai người gom góp mền bông chở lên chùa. Sáng
hôm sau, trời vừa hửng sáng, các Hòa thượng thấy một đoàn
bóng đen, bay vùn vụt như chim hồng, từ trong chùa phiêu diêu
về phương xa. Ðược tin, lại chùa xem thì Quán sát thấy
tượng hình La Hán trên bản cửa, ở mỗi giường một hình
La Hán và một cuốn kinh La Hán. Ông liền bàn bạc với ba
vị tăng, đóng tiền, bỏ lương mau mời thợ đúc tượng
La Hán, đồng thời sửa sang Ðại Ðiện La Hán Ðường, xây
dựng Tàng kinh lâu chứa kinh La Hán. Nhưng các vị Hòa thượng
vẫn tiếp tục lối sống như xưa. Tiểu thiếp của Vương
Quán sát đến ngày Đông chí sanh được một con trai, rất
vui sướng, đem gia đình, đến Hương Tich Tự để hoàn nguyện,
thuận tiện xin quy y với Hòa thượng trụ trì và làm cư sĩ.
Tiếng tăm La Hán Tự chợt như mầm lúa ra khỏi đất, tự
trong lòng người đón gió lớn lên, thiện nam tín nữ theo
nhau đến, tiền vật bố chất chồng như núi. Không hơn nửa
năm, bên cạnh Hương Tích Tự hoàng tàn đổ nát, một La Hán
Tự lộng lẫy huy hoàng bạt đất nổi lên. Về sau con Vương
Quán sát lớn lên, đậu Tiến sĩ, kế thừa nghiệp cha, trọn
đời làm Hộ pháp cho La Hán Tự, tạo ra vô số công đức.
Hòa thượng Trù trì cũ Xuân Thủy Tụ cũng lại thăm hỏi,
hối hận chỉ biết tâm tiền, mất hết tâm Phật, hổ thẹn
muôn bề, xin ở lại làm tăng thường bên cạnh đức Phật
sống, kiên định được tâm Phật, song song thành tựu chứng
quả với Hòa thượng Trù trì La Hán Tự.
Trong những sách
tiếng pali theo truyền thống phái Nguyên thủy Theravada
tức
Nam tông, khi những người thanh cao đạt đến ngưỡng giải
thoát mà không có ý chí nhập cõi La Hán vì lòng thương chúng
sinh thì nguyện làm Bồ Tát giúp đở nhân loại cho dến lúc
giác ngộ. Bắt đầu từ đây họ phải trải qua đoạn đường
dài dẫn đến cõi Phật, tức là con đường tất nhiên của
vị La Hán chứng quả được phú cho một khả năng lớn hơn
La Hán thường. Theo những sách phái Ðại thừa Mayahana
tức Bắc tông, mỗi khi đạt đến trạng thái giải thoát,
vi La Hán có thể mải mê trong tình trạng ấy nhiều hệ thống
vũ trụ kalpa như bị trang thái ấy cầm tù và không
còn nghĩ đến giải phóng chúng sinh. Chỉ khi nào những tia
sáng của từ các mắt urna các vị Phật chói đến,
vị La Hán mới tỉnh giấc để bước vào con đường các
Bồ Tát dẫn đến giác ngộ. Thập Bát La Hán tượng
trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các
Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
Hệ thống tượng Tổ trình bày ở chùa Tây Phương là 18 cá
thể, mỗi người một dạng vẻ, một tư thế, ai nấy có
cuộc sống riêng biệt rất đậm nét, sống động. Những
nhà khảo cúu đối chiếu những tượng này với hình vẽ
trong thư tịch cổ thì thẩy hầu hết có bố cục giống nhau,
chỉ một ít tượng khác hẳn về cách sắp xếp song vẫn
đồng nhất về căn bản và nhất là ở những chi tiết đặc
thù. Vì thế qua nhận diện có thể khôi phục chính xác tên
và xây dựng lai lịch cho từng nhân vật. Bám theo hình mẫu
trong thư tịch cổ, nhấn mạnh tính cách cá nhân, các nhà
điêu khắc xưa đã sáng tạo được những tác phẩm điêu
khắc mang đậm chất chân dung, chẳng những nắm bắt cấu
tạo cơ thể chính xác, mà còn đi sâu vào cuộc sống nội
tâm của nhân vật, đảm bảo được cả hai mặt của loại
hình tác phẩm chân dung là giống và sống, cái giống ở đây
là chất người của nhân vật đã tạo thành mẫu hình ổn
định trong ý thức người xem. Các vị Tổ đều là người
Ấn Độ, song ở chùa Tây Phương tượng các vị đã được
các nghệ nhân Việt Nam sáng tạo mang phong cách riêng của
nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Chúng ta gặp ở đây cuộc
pha trộn những lớp người Việt đang sinh sống trên mọi
miền quê đất nước. Nó đạt tính dân tộc ở thời điểm
ra đời và giữ mãi tính dân tộc ấy để đóng góp một
diện mạo Việt Nam vào kho tàng nghệ thuật tạo hình thế
giới. Trong một buổi chiếu hình nhưng các vị La Hán chùa
Tây phương trên màn ảnh điện Louvre nhân giảng dạy về
mỹ thuật Á Ðông, nhà Bảo quản trưởng Pierre Baptiste ở
viện Bảo tàng Guimet đánh giá những kiệt tác nầy là những
tượng bằng gỗ xưa, đẹp, quý nhất Việt Nam. Thi sĩ Huy
Cận cũng đã khéo léo đưa các vị La Hán vào điêu khắc
bằng lời, vào thơ ca trong bài
Các vị La Hán chùa Tây phương,
nhưng, như tác giả Hành Vân đã nhận xét trong một buổi
học làm văn lớp 12 bổ túc (2013), nhà thơ với những ý tưởng
về thời đại mới, không mang sự thành kính của người
thợ xưa.
Có vị mắt giương,
mày nhíu xệch
Trán như nổi
sóng biển luân hồi
Môi cong chua
chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn
tay mạch máu sôi.
Huy Cận (1960)
 |
 |
 |
Vasumatra
|
Nagarjuna
|
Pareva
|
Giáo sư Chu Quang
Trứ, trong cuốn Chùa Tây Phương, dẫn Nguyễn Đổ Cung (viện
Bảo tàng Mỹ thuật 1960), Nguyễn Phi Hoành (Lược sử Mỹ
thuật Việt Nam 1970), khẳng định tượng La Hán ở chùa Tây
Phương là tượng 18 trong 20 vị Tổ đầu tiên của Phật giáo.
Các vị Tổ những kiếp trước đã tu hành thành đạt được
danh hiệu La Hán, tất cả đều được tôn xưng Tôn giả.
Các nghệ nhân trình bày những tượng ở chùa không lầm khi
để tên dưới tượng là Tổ. Các Tổ là những Phật tử
xuất gia đã đến mức dứt tuyệt các phiền não trong lòng,
không còn lầm lỗi, được tự do tuyệt đối, tâm trí tự
tại, không sinh không tử. Hạng người nầy về mặt đạo
đức là những mẫu người chuẩn mực rất đáng tuyên dương
làm gương sáng cho mọi người học tập, song trong nghệ thuật
tạo hình thì là những người mất hết cá tính không thể
trở thành nhân vật sống động, và một tập thể đều thế
cả thì đâu phải là những tác phẩm đẹp. Chính vì vậy
mà tượng các vị Tổ là đặc sắc, chân thật, tư thế,
điệu bộ, không có vị nào giống vị nào, thật đúng mỗi
người một vẻ. Các pho tượng đã thoát ra ngoài các khuôn
mẫu chuẩn mực của các tượng Phật, Bồ tát, để mang lên
mình những sáng tạo, cảm hứng sống động. Các tượng Phật
thường được tạo ở trong trạng thái Tĩnh: ngồi chắc vững
trên tòa sen, mắt nhắm hờ, bất động chìm trong cõi bất
khả tư nghị, các nếp áo đều phủ xuống lặng lẽ. Các
tượng Tổ chùa Tây Phương đươc trình bày trong trạng thái
Ðộng: đứng, ngồi, nói, thuyết, quạt, ngoáy tai... rất sinh
động phong phú, các tà áo tung bay, các bước đi khoang thai.
18 vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên
trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật,
tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh
nghịch nửa mỉa mai. Có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ
người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu,
lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò
chuyện cùng ai...Các nghệ nhân dân gian đã thổi hồn cuộc
sống vào các tượng Tổ này, hơn bất cứ pho tượng nào
trong chùa. 18 pho tượng Tổ chùa Tây Phương được coi là
một bộ tượng hoàn thiện nhất của điêu khắc gỗ Việt
Nam trong thế kỉ XVIII.
 |
 |
 |
Asvaghosha
|
Samghayacas
|
Rahulata
|
Trừ hai tổ Ca Diếp
và A Nan được đặt ngay trên bàn thờ chính điện, 18 tượng
Tổ bày trong chùa thượng. Tượng Tổ Ca Diếp Kasyapa,
cao 1,8m, qua pho tượng đậm chất chân dung, miêu tả cả dung
mạo và tính cách, đứng bên trái Tuyết Sơn, là
một người tuổi cao lớn, ăn mặc nghiêm chỉnh, ánh mắt
tinh tường, bộ râu hí hỏm. Sống lên trong một gia
đình Bà La Môn, ông quyết xả bỏ dòng dõi để tu theo Phật
và trở thành người cao đạo. Một hôm đức Phật thăng hoa
thuyết pháp ở núi Linh Thứu, chỉ cầm cành hoa thị chúng,
đại chúng vô cùng kinh ngạc, chỉ một mình Ca Diếp tâm lãnh
thần hội, nét mặt tươi cười. Thế là Ca Diếp được tâm
pháp của Phật, được phong tôn là sơ tổ Thiền tông Ấn
Độ. Sau khi Ðức Phật nhập diệt, ngài gõ chuông tập hợp
chúng tăng kết tập ba tạng kinh điển tiểu thừa. Khi A Nan
chứng quả A La Hán, ngài truyền cho y bát. Tượng Tổ A Nan
Đà Ananda (gọi tắt A Nan), cao 1,78m, có nghĩa vui mừng,
Hoan hỷ, Khánh hỷ. Ngài là em thúc bá của đức Phật sinh
vào đêm Phật thành đạo, 25 tuổi xuất gia và theo hầu đức
Phật suốt 25 năm liền, được thụ trì tất cả Phật pháp,
là người hiểu biết nhiều và sau nầy đọc lại tất cả
các kinh Phật. Ngài có mặt bên Phật đến lúc cuối, được
Phật truyền cho những giáo điều sau cùng và cách giữ gìn
đạo lý. A Nan được tạc ở thế đứng với hình dáng chung
nuột nà, trẻ trung, đang ôm sách kết tập kinh tạng, ánh
mắt và khóe miệng tươi cười vui vẻ. Dáng tượng đứng
thẳng chững chạc, những nếp áo uốn quanh càng làm tượng
vươn lên trong khối chung óng mượt, tỷ lệ các phần cân
đối, cả hình dáng và nội tâm đều sáng láng. Sau khi đức
Phật nhập diệt, Ca Diếp tổ chức kết tập kinh tạng. A
Nan phiền não chưa hết nên chưa chứng được quả La Hán.
Ca Diếp bèn dắt A Nan ra ngoài Hội nghị để ngồi thiền.
Ðến cuối đêm mệt mỏi A Nan định nằm nghỉ, nhưng đầu
chưa chạm gối thì bỗng nhiên giác ngộ thành Đại A La Hán.
Ngay khi ấy, ngài xin vào Hội nghị tham gia, sau nầy soạn tiên
kinh văn. Lúc Ca Diếp nhập tịch, A Nan được truyền làm Tổ
nối nghiệp. Đến khi mệnh yểu nhược, ngài vắt chân ngồi
yên trên dòng sông Hằng và thong dong vào cõi Niết bàn.
 |
 |
 |
Samghanandi
|
Kumarata
|
Jayata
|
Nếu hai vị Ca Diếp
và A Nan ở chùa nào cũng có, 16 vị Tổ - La Hán đủ bộ còn
lại chỉ được thờ trong một số chùa. Và không một chùa
nào có bộ Tổ - La Hán tuyệt vời như ở chùa Tây Phương.
Các tượng đều bằng gỗ phủ sơn, niên đại cuối thế
kỷ XVIII, sau đây sắp theo thứ tự số Tổ. Tượng Tổ
Canavara cao 1,5m ngồi chân trái thỏng, chân mặt vắt ngang,
tay mặt trên đùi mặt, tay kia thu trong bọc, áo nhiều nếp
che bụng, để hở bộ ngực gầy xương. Dáng tư lự, mặt
đăm chiêu, đôi mắt xụp, môi bĩu nhẹ, Ngài có vẻ lo toan,
suy tư, khắc khổ, sống nhiều bằng nội tâm. Tượng
Tổ
Upagupta cao 0,92m ngồi trên gót chân trái quỳ gập, chân
mặt gấp lên đở bàn tay mặt cầm một vật nay bị mất,
tay trái cầm thẻ tre, mặc áo dài xỏa trùm xuống đất. Ðầu
lớn, trán rộng, má đầy, tai dài, hàng ria mép, lông mày rậm,
cánh mũi nở, râu quai nón, miệng chớm nở như Ngài đang thuyết
pháp giáo lý uyên thâm. Tượng Tổ Dhritaka cao 0,96m ngồi
xếp bằng, hai tay chấp lại, áo dài phủ toàn người kể
cả tay, chỉ để lộ phần trên ngực. Khuôn mặt đăm chiêu,
tai dài, gò má nổi trội, cặp mắt lim dim, Ngài có dáng suy
tư, nghĩ ngợi.Tượng Tổ Misamta, cao 1,65m, đứng thẳng
trong thế chững chạc, áo dài nghiêm túc chỉ để lộ ra phần
trên ngực, tay mặt thu trong bọc, tay trái bấm đốt lần tính.
Mắt lim dim, miệng hấp háy, Ngài có vẻ bàng hoàng, ngơ ngác.
Đây Ngài đứng một mình trông như đang nói chuyện, thật
ra trong tranh vẻ Ngài đứng trước một tiểu đồng dâng rượu.
Tượng Tổ Vasumatra cao 1,65m là hình dáng một người
cao tuổi, đứng thẳng, mắt lim dim, đầu buộc dây, tóc mọc
dài, cổ tay đeo vòng, ngữa mặt lên trời. Ngài há miệng
như đang đọc kệ hay thuyết trình, hai tay chấp lại trong
tư thế một người cầu khấn. Tượng Tổ Boudhanandi
cao 0,9 m ngồi chân mặt xếp bằng, chân trái chống nghiêng,
tay trái đặt trên đùi, tay mặt cong lên như để ngoáy tai.
Người béo tốt, hai tai dài, cổ nhiều ngấn, tay đeo vòng,
miệng cười hoan hỉ, Ngài mặc áo phanh ra hở cả ngực và
bụng với lỗ rún, quần xuê xoa buông thỏng. Tượng Tổ
Boudhamitra cao 1,05m, ngồi hai chân buông thỏng, mình hơi
nghiêng về bên trái, mặc áo nhiều nếp nhăn, hở ngực, khuôn
mặt đầy đặn, tai dài, sung sướng, hân hoan. Ngài cong tay
mặt lên (trong sách cổ cầm trượng), miệng hé, mắt nhìn
xuống tay trái cầm cuốn sách cuộn tròn. Tượng Tổ Parsva,
áo dài phủ tận chân,, để hở phần trên ngực, hai tay chéo
nhau đằng trước, tay mặt cầm quạt. Mặt bóng bẩy, hóm
hỉnh, hình vuông, đầu tròn, Ngài có tiếng là luôn tu hành
à du hành, người đã thuyết pháp dưới gốc cây chú bé sau
nầy trở thành Tổ thứ 8, không có tượng.
 
Tượng Tổ Asvagosha,
cao 0,75m ngồi cạnh con rổng, chân mặt thả thỏng, chân trái
co lên, áo dài phủ lên hai đùi, quần bọc chân chỉ chừa
hai bàn, ngực và bụng để hở. Ðầu tròn, tai chạm vai, mặt
tươi cười, miệng há rộng, tay trái gấp ngang bụng, ngón
tay chỉ con rồng, Ngài có vẻ tự tin, điềm tĩnh, chan hòa
với mọi người. Tượng Tổ Capimala cao 1,63m có mãng
xà uốn quanh, đứng vững vàng, mặt nhìn lên, ngực để hở.
Gò má cao, mắt mở to, miếng bím môi, Ngài toát ra một bản
lĩnh hiên ngang chinh phục được ngay cả đối thủ cao cường.
Tượng Tổ Nagarjuna, cao 0,88m ngồi xếp bằng trên tòa
sen, dáng nhà hiền triết uyên bác, từng trải khắc khổ nhưng
xem nhẹ đời thường, áo dài phủ tận chân, ngực để hở
để lộ hai hàng xương. Trước mặt là một con rồng đội
kệ sách kinh Hoa Nghiêm quay đầu nhìn Ngài. Không thấy tượng
Tổ thứ 13. Tượng Tổ Rahulata cao 1,22m ngồi thẳng người,
hai chân thả thỏng, ngực để hở, bàn tay mặt xòe ra trên
đầu gối mặt để lộ móng tay dài của người trưởng giả,
tay trái dang lên ngang ngực áp vào tích trượng dựa lên vai.
Một con hươu ngồi cạnh, quay cổ và hướng đầu về Tổ
như chờ đợi vỗ về. Tượng
Tổ Samghanandi cao 0,81m,
ngồi tì cằm lên hai bàn tay úp đè nhau trên đầu gối chân
trái, áo bào choàng từ cổ xuống đất, để lộ khối chân
mặt gấp nằm ngang và khối chân trái dựng đứng. Mặt chữ
điền, gò má đầy, mắt lim dim, miệng mĩm cười, Ngài đang
ngồi thiền trong một tư thế dân dã như đang ngồi nói chuyện.
Trong một tư thế sống động, Tượng Tổ Samghayacas
cao 1,7m, đang bước đi trong gió thổi bay các tà áo, hai ống
tay bay phất phơ, tay mặt co lên ngang ngực. Gò má đầy, miệng
hé mờ, đôi mắt mở to, Ngài cầm gương bên tay trái để
soi lại chính mình từ tuổi thơ đến khi đắc đạo. Tượng
Tổ
Kumarata cao 0,88m, ngồi thoải mái, chân mặt gấp đứng,
chân trái gấp ngang, tay mặt đặt trên đùi chân mặt, tay
trái cầm cành hoa (tích trượng trong sách), áo choàng để
hở ngực và bụng. Gương mặt bầu bĩnh, hai tai rất dài,
miệng cười thỏa mãn, Ngài cho toát ra nét lãng mạn, yêu
đời. Tượng
Tổ Jayata cao 0,92m, người gầy yếu, ngồi
cúi gấp người, chân chống chân gấp trên tấm thảm tròn,
tay trái đặt trên đầu gối chân trái, tay mặt dang cao cầm
que gãi lưng, áo phủ tận chân để hở xương ngực và nếp
nhăn bụng mướp. Gò má cao dưới hóm sâu đôi mắt, trên
cái miệng chụm lại, dưới các nếp nhăn trên trán, Ngài
bị ngứa lưng nhưng tỏ ra nội lực mạnh.
Thời buổi chạm
trổ các tượng Tổ, không có người ngồi mẫu nhưng chất
người của nhân vật đã tạo thành hình ổn định trong mắt
người xem. Các vị Tổ đều là người Ấn Ðộ, qua tay Trung
Quốc minh họa thời Minh trong sách Tam Tài Đồ Hồi,
thời Tống trong Ngũ Ðăng Hội Nguyên, rổi đến lượt
Việt Nam chuyển họa qua cuốn Thiền Uyển Kế Ðăng Lục
soạn thời Lê, tranh đã được Á Ðông hóa phần lớn, và
khi hoá thân vào gỗ thành tượng chùa Tây Phương thì được
Việt Nam hóa hoàn toàn. Trong ngành nghệ thuật điêu khác cổ
Việt Nam, từ những tượng cổ điển thời Lý đến những
tượng Phật, tượng Tổ, tượng Hậu ở các thế kỷ XVI-XVIII
với nhiều tác phẩm đặc sắc phẩm trong các chùa là sự
khẳng định tài năng của những nghệ sĩ Việt Nam. Thế kỷ
XVIII ít có điểu kiện cho điêu khắc phát triển, năng lực
những kỳ tài Nguyễn Cong Hiệu, Tô Phú Vượng, Hoàng Đình
Ức, Đào Thúc Kiên đành phải tích tụ âm ỉ cho đến thời
Tây Sơn mới có dịp sáng tạo tuyệt vời, cho phát tiết những
kiệt tác như các tượng chùa Tây Phương mà tột đỉnh là
tượng các Tổ kế đăng.
Ảnh
chup hai năm 1992,1995
và
mượn sách Chùa Tây Phương
|
Thành
Xô mùa xuân 2017
Mừng
Phật Ðản 2560 |
Tham kháo và trích
dẫn :
- Louis Frédéric,
Les
dieux du bouddhisme, Flammarion, Paris 1992
- Chu Quang Trứ,
Chùa
Tây Phương, Nhà xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội, 1998
- Philippe Cornu, Dictionnaire
encyclopédique du Bouddhisme, Editions du Seuil, Paris 2001
- Thích Trí Như,
Sự
tích 18 vị A La Hán, Thông Thủy Quán 08.11.2011 phongthuyquan.com
- Hành Vân, Phản
biện nhà thơ Huy Cận về các vị La Hán chùa Tây Phương,
Kiến thức 05.03.2013 kienthuc.net.vn
- Thích Nữ Như
Ðức, Sự tích Thập bát La Hán, Thư viện Hoa Sen 01.07.2014
- Mai Trà biên dich
theo Soundofhope, Thân thế của 18 vị La Hán, Ðại Kỷ
Nguyên 22.12.2015
dkn.live
- BBT Sưu tầm,
Sơ
lược và ý nghĩa 18 vị La Hán trong Phật giáo, Vườn hoa
Phật giáo, vuonhoaphatgiao.com
Phụ lục
CÁC VỊ LA-HÁN
CHÙA TÂY PHƯƠNG
|
Các vị La-hán chùa Tây
Phương
Tôi đến thăm về lòng
vấn vương
Há chẳng phải đây là
xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt đau
thương? |
Ðây vị xương trần
chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm
thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu
vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến
nay. |
Có vị mắt giương, mày
nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển
luân hồi
Môi cong chua chát, tâm
hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch
máu sôi. |
Có vị chân tay co xếp
lại
Tròn xoe tựa thể chiếc
thai non
Nhưng đôi tai rộng dài
ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ
chuyện buồn... |
Các vị ngồi đây trong
lặng yên
Mà nghe giông bão nổ
trăm miền
Như từ vực thẳm đời
nhân loại
Bóng tối đùn ra trận
gió đen. |
Mỗi người một vẻ,
mặt con người
Cuồn cuộn đau thương
cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm
vật vã
Tượng không khóc cũng
đổ mồ hôi. |
Mặt cúi, mặt nghiêng,
mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi
trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không
lời đáp
Cho đến bây giờ mặt
vẫn chau. |
Có thật trên đường
tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo
trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại
run lần chót
Các vị đau theo lòng
chúng nhân? |
Nào đâu, bác thợ cả
xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi
một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình
khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật
kể cho nhau? |
Hay bấy nhiêu hồn trong
gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy
nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương
máu
Ðã khổ, không yên cả
đứng ngồi. |
Cha ông năm tháng đè
lưng nặng
Những bạn đươngthời
của NguyễnDu
Nung nấu tâm can, vò võ
trán
Đau đời có cứu được
đời đâu. |
Ðứt ruột cha ông trong
cái thuở
Cuộc sống giậm chân
hoài một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc
bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu
ánh dương |
Hoàng hôn thế kỷ phủ
bao la
Sờ soạng cha ông tìm
lối ra
Có phải thế mà trên
mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa
sương tà. |
Các vị La-hán chùa Tây
Phương
Hôm nay xã hội đã lên
đường
Tôi nhìn mặt tượng
dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản
khói sương |
Cha ông yêu mến thời
xưa cũ
Trần trụi đau thương
bỗng hóa gần!
Những bước mất đi
trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm
đường xuân |
Huy Cận
(Bài thơ cuộc đời. NXB
Văn học,
Hà Nội, 1963)
27.12.1960
|
|