Hội đã tan rồi, chia tay bên dòng
sông Chiếc nón quai thao xôn xao câu quan họ Đến hẹn lại lên người ơi đừng quên
nhé Con đò bồng bềnh nhớ nhau em gọi câu: Mình ơi!
Nguyễn Tiến
Mời nghe : Nhớ đêm
giã bạn sáng tác: - Nguyễn Tiến
biểu diễn: - Lê Mận
2006
Trong dĩa nhạc Nhớ
đêm giã bạn của nhac sĩ Nguyễn Tiến do ca sĩ Lê
Mận biểu diễn, màn đầu chia tay là hai hàng liền anh liền
chị đứng trước nhau, các anh nắm ô đen,
các cô mang chiếc nón quai thao, một hình ảnh tuy giản
dị lại gợi biết bao nổi buồn lúc phân ly. Đối với một
người bôn ba lâu ngày bên phương trời Tây như tôi, quen sống
với những cảnh chia rời sống động, tay vẩy, mắt nhoè,
tuy cũng cảm động không kém nhưng như thiếu một cái
gì thiết tha trong lòng. Trong ký ức tôi luôn còn lưu luyến
ấn tượng cái ô (tức là cái dù miền Trung quê tôi), cái
nón quai thao mà trước khi xa xứ tôi chưa bao giờ
được thấy. Thật vậy, nếu biểu tượng xứ Huế
là chiếc nón bài thơ cùng với tà áo dài tha thướt tạo
nên nét đẹp duyên dáng cho cô
gái đất Thần kinh, cái nón
quai thao đi
đôi với chiếc áo tứ thân và cái khăn mỏ quạ chỉ
có ở miền Bắc mà không phải ở vùng nào, ngày nào phụ
nữ cũng mang. Và ngày nay ít còn thấy, nếu không là nơi có
lễ lạt. Tôi may mắn được
ngắm y phục nầy ở Hội Lim Bắc Ninh đầu
xuân
một năm trước và ở Paris trong
những buổi biểu diễn của các đoàn
truyền thống Việt Nam mời qua.
2012
Nón quai thao (còn gọi nón ba tầm, nón dẹt,
nón thúng, nón chủng, nón Nghệ,...) và áo tứ thân (còn gọi
áo mớ ba mớ bảy) là hai bộ phận quan trọng nhất trong di
sản văn hoá y phục quan họ Kinh Bắc. Nếu chiếc áo tứ thân
nửa kín nửa hở làm xao xuyến đấng
nam nhi, nón quai thao sang, đẹp được
xem như mang nặng câu hát trữ tình. "Ai làm
chiếc nón quai thao, Để anh thương
nhớ ra vào không nguôi". Không biết
nón quai thao ra đời lúc nào, ai là người sáng tạo.
Tương truyền nón xuất hiện ở Hải Dương vào đời Trần
(thế kỷ XVIII) sáng tạo cho cung nữ gọi là nón thượng.
Qua đời Lê, nón được thêm quai thao. Dân gian tin là
có viên quan trong triều, ông Vũ Đức
Úy, trong khi được cử làm phó
sứ sang Trung Quốc, bỏ công học nghề thủ công, dệt thao
rồi về nước truyền nghề : nghề dệt, nghề dùng sợi tơ
làm dây đàn, quai thao cho nón,...Ông
được vua phong làm Cục trưởng Cục Thao. Dân làng nhớ
ơn ông, trước thờ ông tại Đình
Lớn cùng với vị Thành hoàng, sau xây Đến thờ Tổ ba gian
trông ra hồ nước, cạnh chùa Hương Vân. Trên cánh đồng
Miễu, có ngôi mộ ông, bằng gạch với hai hàng chữ : "
Vũ Sứ thần chi mộ" và " Tổ thụ hoàng ân",
trước có tấm bia thời Cảnh Hưng thứ VI (1765) kể sự tích
vị Tổ. Trong chùa có tượng Vũ Sứ thần to như người thật
và câu đối :
Lục nghệ thần thông, tứ dân hoài
đức ; Song tinh nội chiếu, ngũ phúc kiêm toàn.
(Sáu nghề tinh thông, muôn dân nhờ
đức ; Hai sao chiếu sáng,
năm phúc vẹn toàn).
2011
Nón quai thao giống như một bánh xe lớn cở
70-80cm, lợp lá gồi hoặc lá cọ. Lá nầy cần phải chọn
lựa kỹ càng : lá mỏng, sống nhỏ, không già vì màu vàng
đậm, không đẹp, chỉ dùng đề
làm nón làm việc, không non vì chưa bền bĩ và lại màu vàng
nhạt cũng không hợp, được dùng
trong nón bài thơ ở Huế. Quanh nón là thành nón cao khoảng
10-12cm. Thành nón giúp che khuôn mặt người
đội tuy vẫn giữ thoáng, mát. Giữa nón là khua nón,
một vành tròn cao khoảng 8cm, ráp đúng vào đầu
để đội cho chắc.
Tuy nhỏ, khua nón đòi hỏi nhiều
công phu để làm. Phải chuốt bóng sợi tre nhỏ trước
khi lấy chỉ móc trắng và săn
như giây cước may kỹ lại với nhau. Khua cần phải cứng
để chịu đựng
được nón nặng. Mặt trong nón
được lợp giấy vàng hay bạc, ghép lại thành hình
hoa lá, chim bướm, trang hoàng chiếc nón, gọi là hoa nón. Những
cô cẩn thận sắm thêm một bộ "chiên, thẻ" : chiên là miếng
bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt
nguyệt. Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam
cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái vòng để buộc quai thao.
Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón rồi đặt cái chiên vào
đáy khua. Cũng có thể đính vào
gương soi lắm khi cần thiết. Tôi không biết mấy cô ngoài
Bắc có chui một lỗ nhỏ như mấy o người Huế không để
dù e lệ núp sau chiếc nón vẫn còn tò mò nhìn được
mấy chàng trai tiếp tục chòng ghẹo. Thường
ba loại nón được phân biệt : vành rộng, sườn cao
hơn hết là nón ba tầm còn gọi nón Mười là nón lớn hơn
nón Nhỡ hay nón Ngang và còn lớn hơn nữanón
Đấu. Mặc dù làng Chuồng (xã Phương Trung, huyện Thanh
Oai, tỉnh Hà Đông, Hà Nội hiện nay) có tiếng làm nón, khua
nón khó làm nên vẫn có làng chuyên làm khua :
Nón này chính ở làng Chuồng. Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khua Hà Nội thì kết quai tua Có hai con bướm đậu vừa chung quanh.
2012
Trong nón quai thao, nếu chiếc nón là quan trọng,
quai thao cũng không kém phần cần thiết vì về mặt vật chất
nó giữ thăng bằng, vững chắc, bên phía thẩm mỹ nó làm
tăng nét duyên dáng, dịu dàng. "Chưa chồng nón thúng quai
thao,
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai ". Ðể
quai thao có vẻ mềm mại, người làm đi mua những sợi tơ
sần có cục gọi là mốt cục đem
về nhuộm màu hay để nguyên : các cô gái thích dùng
quai màu trắng ngà là màu gốc tơ tằm, các bà già cũng như
những phụ nữ có gia đình thường
dùng màu đen. Bện hai hay ba sợi dài 1,5-2m lại với nhau thì
thành quai kép, giống như tim đèn,
ngoài bọc tơ dệt, thả lỏng đến
thắt lưng Nhiều đoạn quai được thắt lại, tết nút vừa
làm chắc quai vừa đẹp mắt Có khi hai trái cù (quả
găng), to bằng ngón tay cái, được đan thắt công phu ở hai
đầu quai thao. Quai rủ xuống bờ vai thành tua dài từ 20 -
25 cm và có chừng chục túm tua nho nhỏ, trông rất ngoạn mục.
Khi
đội nón, các bà các cô phải đi từ từ, tạo nên
vẻ chậm rãi, dịu dàng, lấy tay giữ
quai truớc ngực để tránh nón đong đưa, đồng thời
giữ vững nón nhất là khi có gió hay khi nghiêng nón che nắng.
Thời trước, khi nón quai thao đang
còn giữ vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội,
ở Hà Nội, những "cô ả" mười lãm mười sáu, cái tuổi
bắt đầu làm duyên, thường đi mua quai thao ở chợ phiên
hàng tơ Trìều Khúc, nôm na gọi làng Đơ Thao để phân biệt
với các làng Đơ Ðông, Ðơ Bùi chuyên làm ruộng. Cũng còn
được giải thích vì làng Triều Khúc, tổng Thanh Oai (nay là
huyện Thanh Oai, Hà Nội) ở trên đường Hà Nội - Hà Đông,
mà tên cũ của Hà Đông là Cầu Đơ nên có câu "Nón Chuồng,
khua lụa, quai thao làng Đơ"
Làng tôi công nghệ đâu bằng Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân Quai thao dệt khéo vô ngần Là nghề của Vũ sứ thần truyền cho
2014
Tuy nổi tiếng là nghề làm nón, sau những
năm chinh chiến, cho đến
những năm 80, 90, những nghệ
nhân già nhất trong làng mất hết,
từ đó chẳng ai còn biết cách làm nón quai thao nữa.
Ông Phạm Trần Canh là một người trở về làng tiếp tục
nghề làm nón kiếm kế sinh nhai và nuôi sống
gia đình. Vào những năm 90, một
đoàn văn công về làng đặt làm những nón quai thao
truyền thống. Không biết làm nón, không biết hỏi ai, nặng
lòng với nghề, ông Canh quyết tâm
đi tìm ờ vùng quê, rong ruổi lặn lội từNam
Định đến Thái Bình. May mắn
đã lại với ông vì ông mua được
một cái nón quai thao cũ, đem về
tháo ra, xem xét cách xếp nan tre, cách sắp
đặt lá cọ,...Nhờ kinh nghiệm làm nón, nhờ lời
động viên của bà vợ hiền, sau một thời gian kiên
trì, ông mày mò làm lại được chiếc nón quai thao. Ngoài
bát tuần, vẫn còn minh mẩn, tự mình xỏ kim không cần kính
lão, ông được mệnh danh "người
làm hồi sinh nón cổ", Ông không tự
mãn mà còn bỏ công sưu tầm các kiều nón cổ khác. Ngày
nay ông là chủ nhân 11 kiểu nón quai thao cổ, kể cả những
mẫu người Tày, mẫu người Thái,...kích cở khác nhau : 22,
55, 66cm,...Làm nón quai thao nhiều đoạn:
từ chạy kiếm mua chọn lựa lá cọ, ...
cho đến khâu trang trí, chỉnh sửa, hun diêm sinh cho trắng,
bền...biết bao công phu. Năm người
con đều không theo nghề cha, ông Canh sợ ngành nón lại
thất truyền. Ông mở lớp dạy làm nón miễn phí cho ngưòi
dân quanh vùng, đến nay có cả trăm
người theo học. Cùng với một ông bạn, ông quyết
tâm phát huy rộng rãi hình ảnh nón quai thao, tham gia nhiều
hội chợ triển lãm với những mẫu
nón độc đáo. Năm 2001, ông
tự tay đan hai chiếc nón
khổng lồ 2m cho khách sạn Liên Hoa đem triển lãm "Hàng thủ
công mỹ nghệ" tại Cộng hoà Séc và Đức. Mong
muốn được quốc tế chú ý, ông Canh đã thỏa nguyện đưa
văn hóa làng Chuồng ra năm châu.
Tài năng của ông được công nhận năm 2007 qua bằng
"Nghệ nhân làng nghề Hà Tây". Người ta bảo trong số các
nón quai thao xuất khẩu từ 4000 hộ làm nón làng Chuồng ngày
nay, không có cái nào đẹp bằng nón ông Canh, không chỉ về
mặt hình thức mà còn về phía tinh thần, chứa chan tâm tư,
tình cảm.
2014
Nón quai thao ngày nay rất tiếc chỉ còn thấy trong
những cuộc biểu diễn các đoàn
truyền thống, từ đấy nghề
làm nón quai thao, tuy được hồi sinh, sợ dần dần sẽ mai
một vì các đoàn văn công không đặt
làm nhiều, khách du lịch mua rât giới hạn. Tuy nhiên, cùng
với áo tứ thân, trong văn hóa quan
họ, nón quai thao luôn còn tồn tại trong ký ức, trong những
bài thơ, trong các bài hát, trong tiềm thức của người Việt
Nam.
Theo câu ca, anh tìm về sông Đuống Mái đình cong, những thửa ruộng con con Người Kinh Bắc hay cười, duyên đến lạ Nón quai thao như tình nghĩa vẹn tròn.
Kinh Bắc đâu rồi
? Mai Đức Nghĩa
Thành Xô mừng
Tết Ất Mùi 2015
(*)ảnh chụp các
đoàn chèo, múa truyền thống
Việt Nam được mời qua Paris
những năm 2006 (Nhà hát Châtelet), 2011 (Parc Floral), 2012,
2014 (Trụ sở UNESCO).
Chợ xưa miền Bắc - Tranh sơn mài Đinh Hương
(Khải Hoàn)