|
Tình
nghĩa sông nước
21
- Viếng Hội Lim
xem hát Quan Họ
Bài
và ảnh
Võ Quang Yến
|
|
|
Ngồi
tựa cái bên song đào.
Hỏi
người người tri kỷ ra vào vấn vương.
Gió
lạnh cái đêm đông trường,
Nửa
chăn nửa chiếu nửa giường để đó chờ ai,
Ca
khúc Ngồi tựa song đào
|
Ai
về thăm Việt Nam đi viếng đất Bắc mà không ghé lại dự
Hội Lim đầu xuân là một thiếu sót. Từ ngày 12 đến ngày
14 tháng giêng âm lịch, Hội Lim được tổ chức trên đồi
Lim thuộc xã Lũng Giang, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, cách
Hà Nội khoảng 20 km. Tương truyền lúc xưa có một ngưòi
đàn bà đến tu đắc đạo trên đồi nầy, khi hạn hán biết
phép làm mưa thật linh ứng nên được tôn làm thành hoàng.
Hội Lim chính là để nhớ ơn bà. Hội Lim là một hình thái
sinh hoạt dân gian, tổng hợp âm nhạc, thơ ca, ngôn ngữ, trang
phục,...gồm có hai phần lễ và hội. Ngày lễ, các làng Duệ
Khánh, Đinh Cả, Lộ Bao, Lũng Giang hội tụ thành một đoàn
từ từ tiến vào trung tâm hội để dự tế lễ, có cúng
bái với các bà áo quần màu sắc sực sỡ. Ngày 13 mới là
chính hội, có ẩm thực với đủ thứ xôi chè cổ bánh vùng
Kinh Bắc, giải trí như bình thơ, hát xướng cùng những trò
vui như bịt mắt bắt heo, kéo co, đánh đu, đánh cờ, đô
vật, đập niêu, bơi lội, dệt cửi...Ngày nay cũng còn tuy
giới hạn hơn. Trong một chuyến quanh Kinh Bắc, tôi được
đưa viếng Hội Lim, quá lanh chóng để có thiø giờ thưởng
thức đúng mức. Khoảng gần trưa, khách đã lại đông. Trong
nhà thờ các bà lộng lẫy trong các chiếc áo hồng, đỏ,
vàng, đang ngồi đợi làm lễ. Không có thì giờ chờ xem lễ,
tôi được kéo ra ngoài xem các trò vui. Lần đầu tiên tôi
được xem đánh đu trên mấy cây tre giản dị trên cột nhúm
lại với nhau, dưới toạt rộng ra làm chân đứng, trai trẻ
từng đôi nhún đưa qua lại trông rất đẹp mắt. Bất chợt
tôi nghĩ đến những câu thơ của Hồ Xuân Hương " ...Trai
đu gối hạc khomkhom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng...
" . Tôi đang mãi tìm bốn mảnh quần hồng và hai hàng chân
ngọc thì trong máy vi âm vọng lên những câu hát trữ tình
từ dưới hồ bên cạnh. Thế là tôi lại được kéo ra hồ. |
Hội Lim có một đặc
điểm là hát quan họ gọi là để " cầu vui ". Làn điệu
dân gian phong phú nầy phát sinh từ lâu, nghe đâu từ đời
nhà Lý. Họ hát cả ban ngày, trong nhà hay trên đồi, lẫn
ban đêm, dưới thuyền. Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm, quan
họ mộc mạc, chân tình nhưng càng nghe càng ngấm càng say
và càng về khuya mới càng ngấm. Người ta kể đến ngày
hẹn, nhóm chủ nhà đã lo sẵn cơm nước gọi là " cơm quan
họ " rồi ra chùa hay cổng làng đợi nhóm bạn. Nhóm bạn
mới đến là đã bắt đầu hát chúc, hát mừng, nhất là
vào dịp đám cưới, tân gia, nhóm chủ nhà hát đáp lễ rồi
mời nhóm bạn vào nhà, cất nón, dẹp dù. Có khi trái lại,
nhóm chủ nhà hát chào trước rồi nhóm khách mới hát cám
ơn sau. Sau đó cả hai nhóm cùng ngồi đối diện, mời trầu,
mời nước và cùng hát cho đến trưa. Aên trưa xong, họ cùng
nhau di xem hội, tối về cơm nước xong lại tiếp tục hát
trên thuyền. Đó là chuyện xưa tôi chỉ đuợc nghe kể. Hôm
chúng tôi lại Hội Lim, chưa đến trưa mà đã thấy hát ngoài
hồ. Các ca sĩ không ngồi trên thuyền nhỏ mà đứng trên
hai chiếc đò lớn, một bên nam, một bên nữ. Dân làng đến
xem chen lấn nhau vui vẻ trên bờ hồ, bàn cải thoải mái,
phê bình giọng hát, lối hát, khen chàng nầy đẹp trai, cô
kia hát hay. Ngày nay, văn minh có khác : ca sĩ không cần hét
to vi có máy vi âm. Thật vậy, nói chuyện tình, vì quan họ
chỉ đề cập yêu thương chứ không bàn bạc đồng án, mà
la hét thì còn gì là tình tứ. Họ hát đối đáp, hết bên
nầy đến bên kia. Mỗi lần chỉ có một người hát, mấy
người kia yên lặng ngồi đợi phiên mình. Tôi mải miết
nghe hát, mê man ngắm mấy cô duyên dáng miền Bắc, nhớ lại
đôi mắt liến thoắng của cô đóng vai Thị Mầu trong đoàn
Chèo qua Paris mấy năm trước, thì những câu hát ví von đưa
tôi về lại Hội Lim : " Người ơi ! Người ở đừng về
! Người về em vẫn (í i có mấy) trông theo. Trông (ư, ứ)
nước tiønh chung là như nước chảy (mà nầy cũng có trông
a bèo). Trong bèo (là) bèo trôi ". Và đã quá trưa, chuyện
trò chưa kịp có lời hẹn ước thì mấy người bạn tháp
tùng thúc hối tôi ra về, lòng mang một mối u hoài man mác,
tim nặng một nỗi nhớ thương mông lung. |
Quan họ là một làn
điệu dân ca vùng đồng bằng Bắc bộ rất đặc sắc nên
năm 2009 đã được Unesco công nhận là Di sản phi vật thể
đại diện của nhân loại, đồng thời với ca trù Di sản
phi vật thể cần được bảo vệ, sau nhã nhạc cung điønh
Huế và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Dân ca nầy
thường được chỉ định là quan họ Bắc Ninh hay quan họ
Kinh Bắc (tức Bắc Ninh và Bắc Giang), phát triển rộng rãi
ven con sông làm biên giới hai tỉnh nầy là sông Cầu. Dòng
sông nầy cùng với những dòng sông Đuống, sông Thương, sông
Lục Nam quen thuộc trong dân gian, làm nền tảng cho chất thơ,
tính lãng mạn trong làn điệu dân ca. Vì vậy nhiều người
tin lối hát nầy bắt nguồn từ nhân dân, trải qua một thời
gian nghi lễ trong triều đình rồi trở về lại dân gian chứ
không phải vì có chữ quan mà hiểu quan họ phát xuất từ
triều điønh. Về mặt thể thức, quan họ là một cách hát
đối tức là hát giao duyên giữa hai nhóm trai gọi là " bọn
nam " hay " liền anh " và gái gọi là " bọn nữ " hay " liền
chị ". Khi mới gặp nhau trai gái mời nhau ăn trầu, nhận lời
ăn trầu là nhận lời hát với nhau. Nhưng những nhóm nam và
nữ không chỉ hát qua hát lại mà thôi. Nếu ăn ý với nhau
về lối hát cũng như về cách cư xử, không có quan hệ buông
thả, thái độ lả lơi, thiø dần dần nảy nở một mối
tình cảm nối liền với nhau những " liền anh " và " liền
chị ". Sau nhiều năm cùng nhau " ngủ bọn " ở nhà ông (hay
bà) Trùm để học câu, luyện giọng, sau nhiều lần trao đổi
những câu hát thắm đậm tiønh ái, ca ngợi thủy chung, trọn
nghĩa vẹn tình, nhưng không bao giờ có ý tưởng tình dục,
họ có thế đi đến " kết chạ ", một tập quán xã hội
có ý nghĩa tập thể " kết nghĩa quan họ ". Tuy nhiên, dù trìu
mến nhau, trước kia họ không đi đến chỗ kết duyên vợ
chồng, có lẽ vì sợ lo toan mưu sinh, chăm lo con cái sẽ làm
cản trở ít nhiều tình cảm mơ mộng, cảm hứng ca hát. Ngày
nay hình như tục lệ có phần thay đổi, quan hệ giữa " liền
anh " và " liền chị " không còn nghiêm khắc như xưa. Những
bài hát có thể theo một kịch bản soạn truớc tuy cũng có
khi được ứng tác tùy khả năng của các ca sĩ. |
Nói đến quan họ, không
thể không đề cập đến trang phục của các ca sĩ. Các "
liền chị " thường mặc ba áo dài lồng vào nhau gọi là mớ
ba, có khi bảy áo dài thì gọi là mớ bảy. Trong cùng, các
bà trung niên mặc một cái yếm bằng lụa gọi là " yếm cổ
xẻ ", màu sắc rực rỡ, phần lớn màu đỏ (yếm thắm),
vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh
sen), hồ thủy (xanh biển) còn các cô thanh nữ thì mặc " yếm
cổ viền ". Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm
thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao
và thắt lưng. Trên yếm là một áo cánh trắng hay vàng bằng
vải phin. Ngoài cùng họ mặc áo dài năm thân bằng the, lụa,
cài khuy, khác với áo tứ thân thắt hai vạc trước. Màu sắc
áo trong thay đổi từ đen qua nâu già, nâu non hay cánh kiến.
Áo ngoài được nhuộm nhiều màu hơn : hoa hiên, thiên thanh,
cánh sen, hồ thuỷ,... Thắt lưng dùng để thắt chặt cạp
váy vào eo làm bằng lụa cũng nhuộm những màu tươi sáng
như màu các hoa đào, lựu, hiên tươi, hồ thủy. " Liền chị
" mặc váy sồi, váy lụa màu đen, có khi " váy kép " trong bằng
lụa, lương, the, đoạn, ngoài bằng the, lụa. Trên đầu, họ
chít " khãn mỏ quạ ", đội " nón quai thao ". Dép " liền chị
" làm bằng da trâu, trên có vòng tròn để xỏ ngón chân cho
dép khỏi rơi khi đi lại, mủi cứng uống cong vừa bảo vệ
vừa che dấu các ngón chân. Áo dài năm thân " liền anh " dài
tới quá đầu gối, trên một hoặc hai áo cánh bên trong. Thường
bằng lương, the, hay bằng đoạn nếu khá giả, màu đen, áo
có thể may hai lớp, gọi là " áo kép ", ngoài bằng lương,
the, trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ, vàng chanh,
Quần trắng dài " liền anh " ống rộng may bằng phin, trúc
bầu, lụa truội, màu mỡ gà, có thắt lưng nhỏ để thắt
chặt cạp quần. Thời trước, đầu có búi tó thì phải vấn
tóc bằng khãn nhiễu, bây giờ mang " khãn xếp " bán sẵn.
Họ đội nón chóp lá hay nón chóp dứa, quai lụa màu mỡ gà,
có khi mang ô (dù) đen. |
Bữa " cơm quan họ "
cũng góp phần hào hứng với " mâm đan, bát đàn" nghĩa là
mâm cổ tròn ba tầng bằng gỗ, sơn đỏ, vừa trang trọng
vừa thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà đối với
khách, bát thì tiện bằng gỗ cây bạch đàn. Thường những
món ăn riêng của làng chủ được bày trên tầng trên cùng
vì mỗi làng có những món ăn đặc trưng, trừ những món
dọn trong bát lớn khó chồng mới phải đặt xuống dưới.
Dù sao, các món ãn buộc phải có giị lụa, thịt gà, thịt
lợn (heo) nạc, trong số những thức ăn khác ít mỡ để tránh
hỏng giọng. Cũng như không có dọn rượu nếu có hát sau
khi ãn. Theo thông lệ, tôi được nghe kể là khách được
mời ngồi ãn trước, chủ hát cho khách nghe rồi mới ãn.
Những lời hát bắt đầu nầy thật ra là những lời mời
xơi cơm, theo thứ tự chị Hai, chị Ba, chị Tư, chị Năm,
chị Sáu, anh Hai, anh Ba, anh Tư, anh Nãm, anh Sáu là tên đặt
trong " bọn ", chứ không gọi bằng tên thật. Ăn nói nhã nhặn,
bao giờ cũng nhận mình là em để tôn trọng khách. Lời mời
cũng phải lịch thiệp, khiêm nhượng, tao nhã thể hiện trong
câu nói dân dã, thức thà nhưng thắm đậm thi ca : "... Nãm
mới, tháng xuân, đương quan họ liền anh ( hoặc liền chị
) không chê làng nước chúng em nghèo mà sang chơi. Chúng em
sắm bữa cơm quê, gọi là mâm đan, bát đàn, đầu mâm đĩa
muối, cuối mâm đĩa dưa, xin mời đương quan họ nâng bát,
dựng đũa xơi thật nhiệt tình cho chúng em mừng ạ ! "
Thường cả chủ lẫn khách đều ãn rất ít có thể để
giữ hơi và giọng để hát cho hay. Nếu thấy khách rụt rè
ãn ít thì " liền anh " mời khéo " Cơm hẩm ãn với rau dưa,
Quan họ làm khách em chưa bằng lòng, đấy ạ ". " Liền
chị " cũng tỏ ra mình không kém lịch sự " Liền anh nói
vậy chứ Cơm trắng ãn với thịt gà, Tuy rằng ãn ít nhưng
mà no lâu đấy ạ ". Tiếng nói quan họ vãn hoa, thấm đậm
tình người như con người quan họ thanh nhã, lịch thiệp. |
Để ý về cách xưng
hô, nhún nhường, quan họ thường tự xưng là em, dù là nam
hay nữ, bất chấp già hay trẻ, nhưng tôn trọng, họ cũng
gọi nhau là người " Người về em dặn người rằng Đâu
hơn người ấy, đâu bằng đợi em " nếu không là chàng
" Chãn chiếu ai trải giường này, Đêm qua chàng ngủ đêm
nay chàng nằm ". Có khi họ dùng chữ mình rất thân mật"
Đêm
qua ghé nón trông điønh, Điønh bao nhiêu ngói, thương mình
bấy nhiêu ". Ngôn ngữ, xưng hô ý tứ, tập quán, lề lối
cũng phải chu đáo. Khi họ muốn mời bạn về nhà không phải
nói năng thế nào cũng được mà phải lựa lời " Mời
quan họ liền anh sang chơi bên nhà chúng em, trước là thăm
thầy mẹ chúng em, sau là cho chúng em học đòi quan họ vài
đôi lối..." Đằng kia họ phải tỏ ra mình không nhận
lời dễ dàng " Em đỡ lời chị Hai, chúng em chỉ sợ nắng
mưa thì tốt lúa đồng, chúng em nãng đi lại thì thầy mẹ
lại coi thường chúng em ". Khi đi hát về khuya " liền anh
" muốn mời quan họ về nhà giải lao, dù là cần thiết, cũng
phải khiêm tốn " Hôm nay bên liền chị sang bên đất nhà
em, anh em nhà em có mâm cơm, thì đầu mâm đĩa muối, cuối
mâm đĩa gừng, mâm đan bát đàn, để xin mời đương quan
họ dựng đũa, lên chén, để anh em chúng mình được thừa
tiếp đấy ạ ". " Liền chị " có khi nói ghẹo " Anh
Hai, anh Ba nói mà như sấm bên Đông, chớp động bên Tây,
mưa tỉnh Hà Nội mà đây ướt đường đấy ạ ", có
khi nói kháy " Dạ thưa anh Hai, biết thì đi chợ xa, còn
chị em chúng em không biết thì đi bảy mươi ba cái chợ gần
đấy ạ ". " Liền anh " tỏ ra dè dặt " Dạ thưa chị
Hai, đã có lòng sang đất nhà chúng em, thì cho anh em chúng
em được thừa tiếp dãm ba lối nữa ". Trong khi hát, nếu
thấy bạn hát sai thì " liền chị " không ngần ngại
" Dạ
thưa liền anh, ca bất hợp rồi đấy ạ". Nếu khi bạn
đối đúng trong lối hát đối đáp thì " liền chị " cũng
lên tiếng ngay " Dạ, thưa liền anh, tương hằng rồi đấy
ạ". |
Ở 49 làng quan họ cổ
được xác định ở Kinh Bắc, theo truyền thống, quan họ
là một lối hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian gồm có
những cách hát khác nhau. Lúc trước không có " hát quan họ
" mà là " chơi quan họ " trong những lễ hội ở làng, không
có đàn đệm, còn gọi là " quan họ làng " hay " quan họ chay
", không có khán giả mà chỉ có người biết thưởng thức
những làn điệu tình tứ. Có bốn yếu tố rất đặc trưng
trong cách hát quan họ là thể hiện trong tiếng thường được
cho là đệm kết dính những âm điệu : " vang, rền, nền,
nẩy ". " Vang " là âm thanh truyền mạnh, truyền xa. " Rền"
là luyến láy, nhấn nhá. " Nền " là giọng rung liên tục.
" Nẩy " là âm thanh bị tắt ở họng được bật ra ngoài.
Khi một đôi nam hát đối đáp, đối cả lời lẫn ý, với
một đôi nữ thì gọi là " hát hội, hát canh ", một người
"dẫn giọng ", người kia " luồng giọng ", cả hai giọng vừa
phải ăn ý vừa có sự tương đồng về âm sắc. Khi cả hai
nhóm cùng hát đối đáp thì gọi là " hát chúc, hát thờ ".
Vì là truyền khẩu nên các giai điệu quan họ rất phong phú,
lại có rất nhiều dị bản. Ở Kinh Bắc trong số 400 trãm
bài ca, với những giai điệu khác nhau, một số lớn đã được
nhiều nghệ nhân hát, ghi âm và lưu giữ ở sở Văn hóa ở
hai tỉnh, tính ra có khoảng 300 bài được ký âm và in thành
sách. Ngày nay, quan họ mới thay đổi ít nhiều so với quan
họ truyền thống và, theo một vài người, còn có phần phong
phú hơn. Quan họ không còn cần phải nhất thiết hát ở lễ
hội Kinh Bắc, mà bất cứ ở một cuộc gặp mặt nào, nhân
dịp Tết nguyên đán chẳng hạn, gọi là " hát hội " trước
mặt đông người. Các bọn nam nữ đúng thành hai nhóm riêng,
xung quanh chùa, trong sân đình, dưới bóng cây hay trên thuyền.
Như vậy, những " liền anh ", " liền chị " không chỉ trao
đổi tâm tình với nhau mà còn chia sẻ với khán thính giả
dù chỉ một chiều vì khán thính giả trông và nghe mà không
được mời vào dự cuộc hát. Đằng khác, thể thức biểu
diễn có phần thay đổi : có thề hát đơn, hát đôi, hát
tốp, hát có đàn đệm, hát có múa phụ họa, hát trên sân
khấu, hát trên đài phát thanh gọi là " quan họ đài ", phù
hợp với thị khiếu khách du lịch, nhưng mất ít nhiều tính
cách truyền thống, dân dã. Bài hát cũng được cải biên
lời hoặc cả nhạc lẫn lời, có khi có bài mới hoàn toàn
khéo soạn đến nổi khán giả chẳng biết là bài xưa hay
bài mới. Người ta bảo dân ca quan họ có khi đã " quan họ
hóa " những tác phẩm, những yếu tố âm nhạc, vãn hóa các
nơi khác. Đằng khác tập quán xã hội cũng thay đổi rất
nhiều : những tục " ngủ bọn " , " kết chạ " , " kết bọn
" hầu như không còn nữa. Cũng hết còn " hát thi " lấy gíải
làm cho ứng tác các bài ca bị mai một... |
Có những việc làm
quan trọng cấp bách ngày nay cho dân ca quan họ là bảo quản
cẩn thận những bản ghi âm, kiếm cách bảo tồn nguyên vẹn
truyền thống trong đà cải cách, phong trào đổi mới, cùng
lúc tiếp tục phát huy lan tỏa làn điệu. Cần phải tôn vinh,
đãi ngộ nghệ nhân, tạo điều kiện để truyền dạy, xuất
bản những ấn phẩm, khuyến khích sưu tầm, nghiên cứu, trình
diễn, giao lưu cả trong nước lẫn ngoài nước. Báo chí đăng
tin mùa xuân năm nay (2012) Hội Lim đã đạt một kỷ lục :
3500 " liền anh" " liển chị " chỉnh tề khăn áo quan họ cùng
nhau hát ! Về mặt nước ngoài, cũng vào dịp Tết Nhâm Thìn
ở Pháp, những người hâm mộ quan họ sung sướng được
dự những buỗi trình diễn của một đoàn từ Bắc Ninh qua.
Riêng phần tôi may mắn được nghe lại được những câu
hát trữ tiønh quyến luyến, thấy lại được những bộ mặt
xinh tươi, hài hòa tưởng như đã từng gặp ở Hội Lim năm
nào.
Người
ơi! Người ở đừng về
Người
đừng tưởng gió trông mây...
Người
về em dặn người rằng
Đâu
hơn người ấy, đâu bằng đợi em
Ca
khúc Người ở đừng về
|
Thành
Xô Tết Nhâm Thìn
Ảnh
Hội Lim 1995 - Paris 2012
|
|
Đọc thêm
Di sản thế giới tại
Việt Nam : Quan họ Bắc Ninh, www.vietnamtourism.com
Unesco công nhận Quan
họ Bắc Ninh là di sản nhân loại, Dân Trí (Đại Dương),
01.10.2009
Dân ca Quan họ Bắc
Ninh : Nón quai thao, 22.11.2010
Cơm Quan họ (Bắc Ninh):
tao nhã, lịch thiệp, 06.12.2010
Trầu têm cánh phượng
đặc trưng văn hóa Kinh Bắc, 17.12.2010
Vang, rền, nền nẩy
trong kỹ thuật hat Quan họ, 22. 12. 2010
Ngôn ngữ Quan họ, 02.04.2011
Quan họ Bắc Ninh : "
Để thương, để nhớ,... để say ", 22.01.2012
Nguyễn Chí Bền, Quan
họ Bắc Ninh, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2012
Ngược dòng quan họ
: Giới thiệu quan họ Bắc Ninh, QuanHo.org
Chim
Việt Cành Nam 48 08.08.2012
|
|