

Chùa Thiên Mụ (Tiếng
chuông Thiên Mụ dặn dò, Em đi cảnh vắng hẹn hò cùng ai
?) cũng như đồi Vọng Cảnh hay xa hơn núi Ngự Bình (Hương
Giang in bóng trời mây, Ngự Bình đón gió tháng ngày thông
reo) (8), đồi Thiên An là những nơi phong cảnh
hữu tình gần thành phố thường được trai gái đem nhau lại
tình tự. Sông Hương nhìn từ thềm chùa hay từ trên đỉnh
tháp là cả một bức tranh sơn thủy, xa xa là dãy núi Trường
Sơn xanh biếc, thấp thoáng sau những đám mây lờ lững, giữa
sông là những thuyền mành nhẹ lướt trên các lớp sóng nhấp
nhô cạnh những ngư phủ vừa thanh thản buông câu vừa nhẹ
quậy mái chèo, thật là cảnh thái bình. Vào cuối xuân đầu
hè, cây phượng trước chùa nở hoa tô thêm màu đỏ thắm
làm tăng vẻ cổ kính của ngôi chùa rêu phong, lại lơ thơ
rủ bóng xuống sông như để quyến rũ khách còn chần chừ
trên thuyền. Về chiều, trời lại đổi sắc, mây nước đổi
màu, sớm xanh, trưa vàng, chiều tím, phong cảnh mờ ảo
nửa hư nửa thật, thật là nên thơ.
Sông Hương một giải
xanh xanh,
Gió vờn mặt nước,
sóng tình đầy vơi.
Con thuyền xuôi nguợc
hôm mai,
Nhẹ tay chèo lái
những ai đó giờ ! (3)

 
Trước khi làm nguồn
mạch cảm hứng cho thi sĩ, phương tiện sinh sống cho ngư phủ,
từ thuở nào sông Hương đã là một đại lộ góp phần chuyên
chở, đi lại. Nhưng khúc sông thượng lưu nầy không dẫn
đi được đâu xa nên ngoài những bè tre, mảnh gỗ luồn nước,
những nốt củi, đò cát đầy ắp, chỉ có vài thuyền mành
của những ngư phủ cô đơn buông câu thả lưới hay những
chiếc đò của người phụ nữ tan chợ hối hả về nhà.
Có những hôm, vào khúc Nguyệt Biều, Kim Long (Kim Long có
gái mỹ miều, Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi),
mây trắng vờn đỉnh núi, gió chiều nhẹ gợn sóng, đò yên
lặng lướt trên mặt nước xanh rờn, để lại đàng sau những
vạch bọt dài trông tựa nét bút một bức tranh Tàu. Ngồi
trên bờ nhìn xuống, khách cảm thấy lòng nhẹ lâng lâng và
không sao tránh được cảm xúc khi một câu hò xao xuyến, da
diết, bay bổng vang dội trong cảnh tĩnh mịch hoàng hôn.
Biết đâu là cầu
ô thước ?
Mênh mông nguyện
ước, dưới nước trên trời.
Đêm khuya ngớt tạnh
mù khơi,
Khúc sông quạnh vắng
có người sầu riêng.
(2)
 
  
Trước khi chảy ngang
trung tâm thành phố, trước khi cho tách hướng đông nam nhánh
sông Lợi Nông tức con sông đào An Cựu (Núi Ngự Bình trước
tròn sau méo, Sông An Cựu nắng đục mưa trong), sông chảy
quanh cồn Giả Viên, thường được cho cùng với Cồn Hến
cách hạ lưu khoảng 5km là hai nhân tố địa lý phong thủy
tạo nên thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ (rồng bên
trái, cọp bên mặt) chầu hai bên Kinh thành, bảo vệ thành
trì và nhân dân. Cồn Giả Viên từng là một vườn hoa. Nơi
đây cũng có tổ chức voi cọp đấu với nhau, nhưng có lần
một con hổ nhảy ra phía khán giả, làm vua quan khiếp sợ
và vua Minh Mệnh (1791-1841) sau đó đã xây trường đấu Hổ
Quyền ở gần Nguyệt Biều. Lầu ngự của vua nghe nói tồn
tại đến năm 1900, từ 1925 thì bỏ mặc cho mưa nắng. Bắt
đầu từ đây sông chảy theo tường phía nam Kinh thành, ngăn
cách cung thành của Nam triều ngày trước và khu nhà ở do
người Pháp xây dựng, một khu vực hình tam giác mà ba cạnh
là sông Hương, sông An Cựu và một phần sông Như Ý, một
đỉnh hướng nam Kinh thành là nghẹo Dàng Xay ở trên quốc
lộ. Có bốn chiếc cầu bắc ngang qua sông Hương : cầu thứ
nhất có xe lửa chạy qua cồn Giả Viên được gọi là cầu
Bạch Hổ (Dịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma Biến mất vì
nghe giục tiếng gà)
(9) , vừa qua có thêm một
cầu thứ hai đường bộ Bạch Hổ; cầu thứ ba xưa nhất
có từ thời vua Thành Thái (1879-1954), lần lượt mang những
tên Thành Thái, Clémenceau, Nguyễn Hoàng nhưng tên thông dụng
luôn vẫn là cầu Trường Tiền, vì gần công trường đúc
tiền, hai lần bị hư nặng nhân trận bảo năm Thìn 1904 và
trong thời kỳ chiến tranh nay đã được sửa lại ; và cầu
thứ tư nằm giữa hai cầu Bạch Hổ và Trường Tiền được
xây dựng thời Mỹ là cầu Phú Xuân, chắc chắn để chịu
đựng được mọi xe cộ nhưng không yêu kiều, duyên dáng
bằng cầu Trường Tiền.
Cầu Trường Tiền
sáu vài mười hai nhịp,
Anh qua không kịp
tội lắm em ơi !
Thà rằng không biết
thì thôi,
Biết rồi mỗi đứa
mỗi nơi cũng buồn !

 
Có lẽ vì có hai hòn
đảo chắn ngang dòng sông, lại thêm sông có dạng hình cung
nên nước chảy chậm lại, rất thuận tiện cho dân chài lưới
sống quanh bờ. Bên trái, sông âm thầm chảy qua trước đình
Nghênh Lương, Kỳ đài tức Cột cờ ( Ngọ Môn năm cửa
chín lầu, Cột cờ ba cấp Phu Văn Lâu hai tầng) thấp thoáng
đàng sau, rồi khi đến góc đông nam Kinh thành thì trở nên
nhộn nhịp với chợ Đông Ba, nguyên là Đông Hoa nhưng đọc
trạnh ra để tránh tên Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mệnh. Bên
mặt, sông chảy qua trước trường Quốc Học, đài Trận vong
tử sĩ, Bệnh viện thành phố, trường Đồng Khánh, khách
sạn Saigon-Morin,...toàn những tên quen thuộc cho người sống
lên ở đây. Con sông Hương quả thật là linh hồn của kinh
thành Huế. Nếu sông Hương chỉ phục vụ một thành phố
Huế độc nhất, những thành phố có một con sông chảy qua
thì nhiều : Paris có sông Seine, Wien có sông Donau, Al-Qâhira
có sông Nil, München có sông Isar,...nhưng đối với tôi không
có con sông nào quyến luyến bằng con sông Hương. Những năm
cầu Trường Tiền gảy, cầu Phú Xuân chưa xây, qua lại phải
dùng đò. Tôi còn nhớ mãi học sinh nam nữ vọc nước chọc
nhau, tiềng cười dòn dã nay vẫn còn vương vẫn trong trí
óc tôi. Ưi thời tuổi trẻ nay còn đâu...
Nhớ anh trở lại
Thần Kinh,
Sông Hương nước
chảy, non Bình thông reo.
Bên sông ngơ ngẩn
mái chèo,
Sườn non một giấc,
bao nhiêu nổi niềm. (4)

 
Nằm kẹp giữa sông
Hương và Kinh thành là trung tâm thương mãi thành Huế. Cả
một dãy nhà hàng buôn bán đủ thứ nối nhau trên đường
Trần Hưng Đạo, giữa hai cầu Trường tiền và Gia Hội, mà
hồi nhỏ chúng tôi gọi là "phố" nói tắc phố Đông Ba hay
phố Trường tiền. Bên kia phố, dọc theo sông Hương là chợ
Đông Ba. Chợ nầy lúc trước ở bên ngoài cửa Chánh Đông,
còn gọi cửa Đông Ba, dưới thời Gia Long (1762-1820) mang tên
Qui Giả Thị đánh dấu sự kiện trở về Phú Xuân của nhà
Nguyễn. Năm 1885, chợ hoàn toàn bị đốt sau ngày Kinh đô
thất thủ, vua Đồng Khánh cho xây lại với tên chợ Đông
Ba, và năm 1899 vua Thành Thái cho dời qua địa điểm bây giờ
là một chỗ đất trống lúc trước có trại sửa chữa thuyền
ngự, đọc trạnh ra thành giại nên có câu hát
Chợ
Đông Ba đem ra ngoài giại, Cầu Trường tiền đúc lại xi
moong... Chợ Đông Ba mà ta thấy ngày nay được xây mới
lại năm 1967, trùng tu năm 1987, kể cả hoa viên, bến đổ
xe cũng rộng gần 50 ngàn met vuông. Trên bộ có đường xe
giao thông, dưới sông có thuyền bè chuyên chở, chợ nằm
ở một địa điểm rất thuận lợi cho việc buôn bán, kinh
doanh. Ngày ngày, năm, bảy ngàn người ra vào mua bán, Tết
nhất số người tăng gấp đôi. Hàng hóa, áo quần, vải bô,
tôm cá, mắm muối, hoa quả, cây trái,.. chợ có đủ thứ,
thật là nơi quy tụ đặc sản cả một vùng miền Trung. Khách
đến Huế không thể không ghé qua chợ Đông Ba.
Bến chợ Đông Ba
tiếng gà gáy sáng,
Bên làng Thọ Lộc
tiếng trống sang canh,
Giữa sông Hương
tiếng sóng khuynh thành,
Đêm khuya một chiếc
thuyền tình ngửa nghiêng.
(2)
 
  
Trước ngay Kinh thành,
sông chảy qua lầu Phu Văn hay Phú Văn Lâu là nơi lúc trước
yết các bảng thi hội, thi đình nên tên ban đầu là Bảng
Đình. Các chiếu thư sau khi được đọc ở điện Thái Hòa
hay ở Ngọ Môn cũng được đặt lên long đình đưa về yết
ở đây như bức chiếu thoái vị của vua Bảo Đại (1922-1997).
Nhiều cuộc vui đã được tổ chức vào dịp sinh nhật các
nhà vua như lễ ngủ tuần của vua Tự Đức (1829-1883). Vua
Minh Mệnh đã ngự thuyền lại xem voi cọp đấu nhau trước
lầu. Vua Thiệu Trị (1807-1847) xếp lầu vào hạng thứ 9 trong
số 20 thắng cảnh đất Thần Kinh, vào dịp lễ tứ tuần
đã mời 773 bô lão thết đãi trong luôn ba ngày. Có chuyện
vua Duy Tân (1900-1946) giả dạng thường dân ra đây ngồi câu
cá chờ gặp Trần Cao Vân (1866-1916) (hay trái lại Trần Cao
Vân ra đây ngồi câu cá chờ gặp vua Duy Tân) để mật bàn
chuyện quân sự. Chắc hồi đó Phu Văn Lâu gần mặt sông
hơn.... Dù sao cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị có bài hò trong rất
lâu đi vào nhân dân và được xem như là bài hát dân gian
nhắc lại sự kiện nầy ; cụ giải thích chữ ai là
vua Duy Tân nhưng cũng có thể ám chỉ nhà chí sĩ
yêu nước kia.
Chiều chiều trước
bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai
sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm,
ai nhớ, ai trông,
Thuyền ai thấp thoáng
bên sông
Đưa câu mái đẩy
chạnh lòng nước non.
(2)
 
  
Vừa ra khỏi khu vực
trung tâm thành phố, ngay góc chợ Đông Ba, sông Hương cho tách
bên trái con sông đào Đông Ba, nguyên thuôc hệ thống bảo
vệ Kinh thành gọi là Hộ thành hà, chảy theo thành phía đông
để gặp lại sông Hương ở Bao Vinh, làng Thế Lại. Bây giờ
sông chia làm hai nhánh, chảy quanh một hòn đáo. Đó là Cồn
Hến, nguyên là một bãi đất phù sa, khắp đảo từ bờ sông,
đường sá, qua sân nhà, vườn tược đều lấp đầy một
lớp vỏ hến, nhà cửa phảng phức một mùi hến luộc đặc
sắc của đảo. Ở đây lúc trước có trường thi, phủ Ao,
lần lượt được gọi ấp Bối Thành tổng Phú Xuân thời
Minh Mệnh, phường Giang Hến thời Tự Đức, trước 1945 thuộc
xã Thanh Thảo, từ 1956 thuộc xã Phú Lưu rồi Hương Lưu, nay
thuộc phường Vỹ Dạ. Cồn nổi tiếng về hai sản phẩm
là chè bắp và cơm hến, có bán ở nhiều nơi trong thành phố
nhưng cơm hến ở cồn là ngon nhất. Món ăn là hến luộc,
mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào
giòn, ớt, đâu phụng, tiêu, vị tinh, muối, đặc trưng cho
âm dương, ngũ hành, ăn với nước hến nóng và cơm nguội.
Cơm hến đã vào với dân gian qua bài hát lý giao duyên. Bánh
khoái Đông Ba bún bò Gia Hội, Cơm hến bên cồn quen lối tìm
nhau. Người sành ăn bảo cơm hến chỉ ngon khi thật cay,
cay hít hà.
Nhớ em quang gánh ngược
xuôi
Nhớ tô cơm hến
tôa mùi đua cay.
Cay cho xé mắt cau
mày,
Cay cho hết biết
buồn này từ đâu. (7)
 
  
Đối diện với Cồn
Hến, bên mặt sông Hương tách ra con sông Như Ý chảy về
Thanh Thủy, Hương Phú. Từ đầu thế kỷ trước, nhiều đập
đã được xây dựng quanh vùng để ngăn nước mặn vào sông,
chống lũ lụt, đảm bảo mùa màng vùng hạ lưu chiếm gần
hết diện tích ruộng đồng tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt trái
của các đập là biến những dòng sông thành sông chết, thuyền
bè không đi lại được, hủy bỏ những tuyến giao thông.
Các mẫu sông nầy còn trở nên hồ chứa nước thải và rác
rưới, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà chức trách đang
tính cách phá bỏ những đập kia, khơi thông cho các dòng sông
kết nối lại với nhau, giải quyết các vấn đề môi sinh,
môi trường, giao thông. Trong số các đập nầy có Đập đá
cắt ngăn sông Như Ý, bắt đầu con đường độc nhất dẫn
về Vĩ Dạ (Biết đâu Vĩ Dạ cau nghiêng, Tóc thề đợi
lá trầu duyên lỡ làng) (6), Nam Phổ (Mua vôi
chợ Quán chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh)
và,
xa hơn, Cửa Thuận hay Thuận An ( Thuận An khuất bóng hoàng
hôn, Gió bao giờ thổi lại hồn trần
gian) (10)
là bải biển của thành phố. Nếu không phá bỏ thì hiện
đập đang bị xói mòn, lở khoét, nay mai cũng dễ bị lũ lụt
kéo mất. Mà phá bỏ thì liệu phải có cầu thay thế không
thì người dân Huế hết còn đường đi hóng gió, tắm biển
!
Xa xa núi Ngự nắng
vàng hanh
Vọng Cảnh đồi
xưa liễu rủ mình
Cồn Hến xạc xào
cơn gió thoảng
Trông về Đập Đá
nước vây quanh

 
Bắt đầu từ Bao Vinh,
sông Hương cho tách bên trái một nhánh nhỏ chảy về đầm
Thanh Lam, thong thả rời Kinh thành trong khoảng 10km chảy qua
làng Mậu Tài (Chợ Dinh bán áo con trai, Triều Sơn
bán nón, Mậu Tài bán kim), làng Sình (Kim Long dãy dọc
tòa ngang, Em chèo một chiếc xuồng nan về Sình) (7)
, xã Thanh Phước (nước khoáng), tiếp nhận sông Bồ từ huyện
Hương Điền chảy về, rồi tiến ra phá Tam Giang và cửa Thuận
An. Từ nay hết còn có cầu, qua sông phải lấy đò ngang, đi
xa thì lấy đò dọc, người ở các vùng lân cận muốn đi
Huế phải theo đường bộ không thì theo sông về phá rồi
lấy sông Hương đi ngược về Kinh thành. Đi như vậy mất
rất nhiều thì giờ nhưng thường đi đêm có thể nằm ngủ
hay ngắm trời nước bao la, mây trắng lồng lộng trên nền
trời xanh biếc, những cảnh tượng để lại nhiều ấn tượng
trong lòng người đã sống qua. Suốt 33km từ Bãng Lãng đến
Thuận An, trước khi đời sống hiện đại lại làm ô nhiễm,
nước sông trong xanh, hương thơm dào dạt nhờ cây cỏ trong
nước và ngoài bờ như những cây thạch xương bồ, thủy
xương bồ. Thuở xưa, người ta bảo các cô tôn nữ đã nấu
nước cây thơm đổ vào sông cho sông có mùi hương...Vào lúc
chưa có đò máy, sông luôn yên tĩnh, không phải các ngư phủ
yên tĩnh hay mấy cô lái đò duyên dáng đã làm náo động
thiên nhiên.
Yêu em anh cũng muốn
vô,
Sợ truông nhà Hồ,
ngại phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày
rày đã cạn,
Truông nhà Hồ Nội
tán cấm nghiêm.. (7)

 
Cuộc du ngoạn suốt
dòng sông Hương không thể đầy đủ nếu khách không có dịp
ngắm nhìn mặt trời lặn vào lúc hoàng hôn. Tôi may mắn sau
mấy chục năm sống tha hương, năm về lại thăm quê nhà một
chiều tà được ngồi uống nước ngắm trời ở tiệm cạnh
chân cầu Phú Xuân. Để thêm phần hứng thú, tiệm nước
mang tên lãng mạn Giọt đắng. Cố gắng tìm, tôi còn
thấy được vài tên khác cũng không kém phần thơ mộng :
Chiều
nhớ là lạ, Lộng gió hay hay, Thì thầm trên
đường lên lăng, Đã đành trong một ngõ hẻm Phú Hiệp,...
Tuy nhẹ nhàng nhưng sống động hơn là tối đến, dưới trăng
sáng tỏ, được nghe ca hò trên đò giữa sông Hương. Tôi
còn được may mắn nghe cô Minh Mẩn tặng cho một bài nam ai
não nùng ai oán mà ngày nay hết còn nằm trong chương trình
rộng lớn ba miền các ca sĩ trẻ tuổi. Rời sông Hương, rời
Huế trong một điệu hò thì không gì lưu luyến bằng.
Nước chảy xuôi con
cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược
con cá vượt lội ngang ;
Thuyền em xuống bến
Thuận An,
Thuyền anh lại trẩy
lên ngàn anh ơi! (2)
 
 
 
___
Thành
Xô mùa thu 2013
sau
10 lần về thăm Huế 1986-2005
Thơ (1) Đông Hồ ; (2) Ưng
Bình Thúc Giạ Thị ; (3) Á Nam Trần Tuấn Khải ; (4) Tương
Phố ;
(6) Hồ Đắc Thiếu Anh
; (7) HD ; (8) Hoài Quang Bùi Đình San ; (9) Thúc Tề ; (10) Bích
Khê.
Chim Việt Cành Nam 53
22.11.2013 |