Cách
một dòng sông mà đó thương đây nhớ,
Chung
một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa
Câu
hát dân gian
Thời Trịnh Nguyễn
phân tranh, nước ta có một sông Gianh làm ranh giới phân chia
Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786). Trong thời Trường kỳ
Kháng chiến thay thế cho sông Gianh là sông Bến Hải ở tỉnh
Quảng Trị, ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai vùng tập
kết quân sự. Phía Bắc là lãnh thổ của Quân đội Nhân
dân Việt Nam. Phía Nam là nơi chiếm cứ Quân đội Liên hiệp
Pháp, bao gồm cả Quân đội Quốc gia Việt Nam. Phía nam vĩ
tuyến 17, từ sau khi quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương
vào năm 1954 thì chỉ còn chính thức Quân đội Quốc gia Việt
Nam và hoạt động trong bóng tối các lực lượng bán vũ trang,
du kích của Việt Minh, không tập kết ra Bắc vì không chính
qui theo quy định Hiệp định Genève. Năm 1955, Quân lực Việt
Nam Cộng hòa kế thừa Quân đội Quốc gia Việt Nam, Quân giải
phóng miền Nam được thành lập trên cơ sở các lực lượng
bán vũ trang, du kích của Việt Minh trước đây. Sông Bến
Hải, còn gọi Rào Thanh, bắt nguồn từ vùng núi Động Chân,
chảy theo vĩ truyến 17, thuộc dãy Trường Sơn, từ tây nam
sang đông bắc, rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng thuộc quận
Vĩnh Linh, Quảng Trị. Từ đầu nguồn sông Bến Hải chảy
được 80km thì gặp sông Sa Lung từ phía tây bắc đổ vào,
hai sông hợp lưu chảy tiếp ra biển, qua làng Minh Lương ở
bờ bắc nên có tên là sông Minh Lương. Do phải kiêng húy
tên vua Minh Mạng, nên cả tên làng và tên sông đều đổi
thành Hiền Lương, cây cầu gần ngã ba sông cũng mang tên là
Hiền Lương. Địa danh Bến Hải nguyên là Bến Hói có nghĩa
dòng
sông nhỏ đọc trạnh ra. Dòng sông dài khoảng 100km, rộng
chừng 20m, nơi rộng nhất không quá 200m, được ca tụng trong
nhiều bài hát.
Ngó bên
tê Trường Sơn một dải
Nghe bên ni sóng
vỗ Cửa Tùng
Vĩnh Linh ơi
trăm mến ngàn thương
Quê ta đó đứng
đầu sóng gió
Hoàng Vân (Bài ca Vĩnh Linh)

Hồi trước chưa
có cầu, qua sông phải dùng
phà, mãi đến năm 1928 mới
được xây dựng nhờ đóng góp công sức của nhân dân. Qua
năm 1943, cầu được nâng cấp để xe cơ giới loại nhỏ
có thể qua được. Năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp cho xây
dựng lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng 3,6m
trọng tải 10 tấn. Hai năm sau cầu bị Việt Minh đánh sập,
Pháp cho xây lại dài hơn, hai bên cầu có thành chắn cao 1,2m,
trọng tấn 18 tấn. Chiếc cầu nầy tồn tại được 15 năm
thì bị bom Mỹ đánh sập. Sau một thời gian hai năm tạm dùng
cầu phao thay thế, năm1974 chính quyền Việt Nam cho xây dựng
lại cầu, lần nầy dài 186m, rộng 9m, có hành lang 1,2m cho
người đi bộ. Sau khi hòa bình lập lại, cầu cũ xuống cấp
nghiêm trong, năm 1996, bộ Giao thông Vận tải cho xây một chiếc
mới dài 230m rộng 11,5m. Đặc biệt phương pháp hiên đại
đúc đẩy lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam. Năm
2001 một chứng tích lịch sử là chiếc cầu sắt 1952 được
phục chế lại nguyên bản. Khánh thành công trình phục chế
được tổ chức ngày 18.05.2003 tại Quảng Trị, cầu bây giờ
dài 183m, gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim. Sau khi thiết lập ranh
giới phi quân sự theo hiệp định Genève, Quân đội Nhân dân
Việt Nam từ miền Nam phải tập kết ra Bắc nhưng lực lượng
bán vũ trang và lực lượng chính trị được tập trung tại
chỗ, quân đội Pháp từ miền Bắc phải tập kết vào Nam.
Giữa hai quân đội vùng 5 km từ mỗi bên Sông Bến Hải được
sử dụng làm vùng đệm nhằm tránh sự xung đột có
thể xảy ra giữa hai bên. Điều khoản khu phi quân sự và
giới tuyến quân sự này chỉ có giá trị lý thuyết trong
vòng hai năm,1954-1956, vì sau đó sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển
cử để hoàn toàn thống nhất đất nước. Nhưng năm 1956,
tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Ðình Diệm, lên cầm quyền
sau một cuộc trưng cầu dân ý, từ chối không tham gia cuộc
tổng tuyển cử cho nên sông Bến Hải tiếp tục chia cắt
đất nước và làm ly tán nhiều gia đình ở hai miền Việt
Nam. Hiền Lương đã trở thành biểu tượng của sự cách
trở, chờ đợi, ngóng trông, chia ly và nỗi đau mất mát...
Đôi bờ Bến Hải đã trở thành nhân chứng lịch sử,
mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước, nơi đã chứng
kiến nhiều cảnh vô cùng tang tóc, đau thương và cũng là
nơi chịu hậu quả nặng nề và tàn khốc. Đây là nơi trục
xuất ra Bắc giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và bác sĩ thú y
Phạm Văn Huyến năm 1965.
 
Hai bên bờ sông
Bến Hải vì có hai chính quyền đối lập giáp nhau cho nên
cầu Hiền Lương trở thành trung khu tranh chấp, không những
quân sụ mà còn về những mặt khác.Ngay chuyện màu sắc là
cả một vấn đề. Ở đoạn giữa cầu có một vạch trắng
kẻ ngang, rộng 1cm, được dùng làm ranh giới. Thoạt đầu
Việt Nam Cộng hòa chủ động sơn một nửa cầu phía nam màu
xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một
nửa cầu còn lại. Sau Việt Nam Cộng hòa lại chuyển sang
màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu
nâu. Cứ như thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc,
hễ Việt Nam Cộng hòa sơn một màu khác đi để tạo ra hai
màu đối lập thì ngay lập tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
liền sơn lại cho giống. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu
có chung một màu xanh thống nhất. Một thời sau 1954 tiếng
súng vừa chấm dứt, tiếng loa rầm rộ, căng thẳng thay thế.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho xây dựng một hệ thống loa
phóng thanh được phân bố thành 5 cụm trong chiều dài 1.500m
ở bờ Bắc, mỗi cụm gồm 24 loa có công suất 25W. Hệ thống
loa phóng thanh này không đủ mạnh để át được các loa do
Tây Ðức và Úc cung cấp phát với âm thanh lớn hơn của chính
quyền Việt Nam Cộng hoà. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trả đũa bằng cách tăng thêm 8 loa công suất 50W và 1
loa công suất 250W được viện trợ từ Liên Xô. Ngay sau đó,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại được Mỹ viện trợ
cho những loại loa tối tân hơn, vang xa hàng chục cây số.
Vào đầu năm 1960, một giàn loa của Mỹ với công suất mỗi
loa lên tới hàng trăm oát được chuyển đến và đặt tại
bờ Nam sông Bến Hải. Không chịu thua, lúc bấy giờ chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lắp đặt chiếc loa
có công suất 500W với đường kính rộng đến 1,7m và bổ
sung thêm 20 loa loại 50W, 4 loa loại 250W của Liên Xô tại chiến
tuyến Bến Hải. Khi thuận gió, tiếng loa có thể truyền xa
hơn 10km. Ðể có đủ điện cho hệ thống loa có tổng công
suất 7.000W này hoạt động ...
 
Sau tranh chấp
màu sắc, cuộc đấu khẩu tiếng loa giữa hai phía
qua hệ thống loa là những lời tuyên truyền chính trị chỉ
trích đối phương, thường là những tin không có lợi hoặc
có thể trái ngược với thực trạng. Mỗi ngày buổi phát
thanh kéo dài 14-15 tiếng đồng hồ, có khi phát vào lúc 1 -
2 giờ sáng, mở hết công suất làm người dân cả hai bờ
đều nghe thấy. Song song với
tranh chấp màu sắc và
cuộc
đấu khẩu tiếng loa,
còn có cuộc tranh thủ
hào hứng treo cờ thường đươc gọi
chọi cờ giới tuyến.
Lúc đầu chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho làm một
cột cờ bằng cây phi lao cao 12m để treo một lá cờ có khổ
3,2m x 4,8m. Ở bờ Nam, Pháp cắm cờ tam tài lên nốc lô cốt
Xuân Hoà cao 15m. Theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, binh
lính chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vào rừng
sâu để tìm bằng được một cây gỗ cao 18m, cao hơn cột
cờ của Pháp 3m và treo một lá cờ bằng vải sa tanh rộng
24m. Ngay sau đó, chính quyền miền Nam đã cho dựng một trụ
cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờ Nam, trên đỉnh
treo một lá cờ Việt Nam Cộng hòa lớn, có hệ thống đèn
huỳnh quang nhấp nháy đủ màu. Khi dựng cờ xong, họ cho loa
chiến tranh tâm lý hướng sang bờ Bắc tuyên truyền: Tổng
thống Việt Nam Cộng hoà cho dựng cột cờ cao 30m ở Vĩ tuyến
17 để dân chúng miền Bắc thấy rõ chánh nghĩa Quốc gia.
Năm
1957, chính quyền miền Bắc dựng lên một cột cờ bằng thép
ống cao 34,5m mang trên đỉnh một ngôi sao bằng đồng đường
kính 1,2m, 5 gắn thêm một chùm bóng điện loại 500W, lá cờ
rộng 108m2.Trước sự kiện này Chính quyền miền Nam xây tiếp
cột cờ của họ lên thành 35m và cất loa: Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa muốn chọi cờ nhưng chọi sao nổi với Quốc
gia.Năm 1962, một cột cờ cao 38,6m kéo lên lá cờ đại
134m2, nặng 15kg ở miền Nam được xem là cột cờ cao nhất
giới tuyến Ngày 8-02-1965, tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ
đã lái chiếc máy bay AD6 bắn phá cột cờ, nhưng pháo cao
xạ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắn trả bị thương.Mặc
dù Việt Nam Cộng hòa huy động hàng trăm chiếc máy bay ném
bom và hàng vạn đạn pháo cỡ lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên
bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào, nhưng vẫn không
thể làm sập được cột cờ ở bờ bắc sông Bến Hải.
Ðến ngày 2-8-1967, họ lại tập trung nhiều tốp máy bay thay
nhau đánh phá liên tục suốt ngày làm cho cột cờ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa bị gãy và đánh sập cầu Hiền Lương.
Tối hôm đó, loa của Việt Nam Cộng hòa loan rằng: Cột
cờ của Bắc Việt trên đầu cầu Hiền Lương đã bị không
lực Hoa Kỳ đánh tan tành tro bụi. Nhưng ngay đêm hôm đó,
một cột cờ mới được dựng lên. Sáng hôm sau, trong lúc
loa Việt Nam Cộng hòa đang đọc bản tin thì lá cờ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục xuất hiện...
 
Như bao mảnh đất
khác ở khắp vùng đất nước, khi hai miền bị chia cắt trong
cuộc chiến thì dòng sông Bến Hải và mảnh đất đôi bờ
trở nên nổi tiếng. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành nhân
chứng lịch sử trên 20 năm mang trên mình nỗi đau chia
cắt đất nước : cụm di tích gồm tại đôi bờ Hiền Lương:
cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà
Liên hợp, Đồn công an giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm
tượng đài Khát vọng thống nhất ở bờ Nam, Nhà Bảo tàng
Vĩ tuyến 17. Một dòng sông rộng không quá 100m, một chiếc
cầu dài 178m bắc qua mà dân tộc Việt Nam ta phải đi suốt
hơn 20 năm ròng, cống hiến không biết bao xương máu. Có những
trận chiến ác liệt với bom đạn, và ở đó cũng có cả
những trận chiến ác liệt nhưng không một tiếng súng. Tại
khu di tích, hiện vật nổi tiếng không chỉ có những chiếc
loa mà còn cờ Tổ quốc. Tính từ năm 1956 đến năm 1967, các
chiến sĩ công an giới tuyến đã treo hết 267 lá cờ các cỡ.
Lá cờ to áp đảo, cao lớn nhất vĩ tuyến 17 của miền bắc
rộng 134m2, nặng 15kg, cao 38,6m. Những năm tháng ấy, cột cờ
và lá cờ là biểu tượng của dân tộc đã đứng vững dưới
mưa bom bão đạn, nhằm động viên, cổ vũ nhân dân trong cuộc
đấu tranh sinh tử với đối phương. Chỉ việc bảo vệ cờ,
các chiến sĩ Ðồn Công an vũ trang Hiền Lương đã chiến
đấu hàng trăm trận, ba lần bắt sống và truy đuổi đội
biệt kích thám báo vượt sông đặt mìn định phá hoại cột
cờ. Có lần đứng bên dòng sông Bến Hải, một cựu binh
giới tuyến của Công an vũ trang Vĩnh Linh năm xưa, được
đưa vào tham quan chiến trường xưa đứng nghiêm trang ngắm
lá cờ bay phấp phới trên cột cờ đầu cầu Hiền Lương,
người rưng rưng lệ bồi hồi: Sông Bến Hải, cầu Hiền
Lương là nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt của đất nước
và cũng là nơi chịu hậu quả nặng nề và tàn khốc trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và một người cựu
binh tự hào đã có mặt tại đây vào thời điểm những năm
tháng khốc liệt nhất của chiến tran lịch sử đã chọn
Quảng Trị làm nơi đối đầu của một cuộc chiến tranh
mang tầm vóc thời đại, một mất một còn giữa chính nghĩa
và phi nghĩa. Ngày 9-12-2013, Phó Thủ tướng Chính phủ đã
ký quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Ðôi bờ Hiền
Lương - Bến Hải thuộc huyện Vĩnh Linh và Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị là Di tích quốc gia đặc biệt đợt 4 cùng với 13 di
tích khác trên cả nước. Ngày nay, ở bờ Nam sông Bến Hải
có một tượng đài với tên gọi: Khát vọng thống nhất
non sông. Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ
đang đứng ở bờ Nam sông Bến Hải nhìn về phía Bắc để
tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể
vượt sông để gặp chồng và người thân.

Ðiển hình là câu
chuyện đêm nằm không ngủ của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, tức
Lưu Trần Nghiệp, sinh năm 1931 ở Mỹ Hiệp, Chợ Mới, An Giang,
mất năm 2013 tại TpHồChiMinh. Anh là tác giả bài hát xúc
động, mủi lòng Câu hò bên bờ Hiền Lương (chử không
phải bến, theo ca sĩ Văn Hanh), lời của
Ðằng Giao. Anh đă sáng tác nhiều khúc trên đề tài giải
phóng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước, tỏ lộ
tâm tình của người lính xa nhà; trước giải phóng : Trường
Sơn Ðông –Trường Sơn Tây, Ngọc đèn đứng gác, Mùa chim
én, bay;..sau giải,phóng : Con đường có lá me bay, Mơ
về Hà Nội, Trở về dòng sông tuổi thơ....Trên bờ sông
Bến Hải chia đôi đất nước, anh liên tưởng đến những
ngày xuống ghe lên tàu ra Bắc tập kết rồi không được
tin ba má và các em sau gần chín năm xa cách. Những ngày đầu
ở phía Bắc bờ Bên Hái, anh sống trong một đồn biên phòng
nằm cách cầu Hiền Lương chừng trăm thước. Ban ngày, anh
đội mưa đi dọc theo bờ sông, đôi mắt đăm đăm nhìn sang
bờ Nam. Anh bắt gặp nhiều em, nhiều chị từ bên ấy, hình
như cũng nhìn thấy anh nên giả đò ra sông rửa chân tay để
được nhìn lại anh. Chắc họ muốn nhận coi anh có phải
là người thân hay người quen cùng làng đã đi tập kết.
Một lần nữa, anh lại bước ra hiên đồn, nhìn về phía
cầu Hiền Lương, chiếc cầu ban chiều anh đã đặt chân lên
đó. Tuy nhiên, anh chỉ được phép đi ở nửa cầu phía Bắc,
vì nửa kia là thuộc về miền Nam. Cây cầu lúc này đang bị
màn mưa che phủ, như ẩn như hiện, như thực như hư. Dầu
vậy, nó vẫn là vật biểu hiện cụ thể nhất của sự chia
cắt. Anh đâu có hi vọng gặp được người quen ở chốn
này bởi vì quê anh ở tận cùng phía Nam đất nước. Xóm
làng, chợ búa ở đây cũng không giống như ở quê anh. Mặc
dầu vậy, anh vẫn cố nhìn, cố nhận dạng những hình vóc,
những gương mặt mà anh cảm thấy rất gần gũi, yêu thương.
Và trong lòng thầm nhủ biết đâu đấy. Ban đêm, anh
hỏi chuyện các chiến sĩ biên phòng. Những người này cũng
chỉ cho anh biết những tin tức mà anh đã nghe qua. Đồn này
quá ít người. Họ lại thay phiên nhau đi làm nhiệm vụ luôn.
Họ còn là những người rất ít lời. Hết nằm xuống, anh
lại ngồi dậy vì giấc ngủ không chịu đến với anh.

Nhạc
sĩ Hoàng Hiệp(áo trắng giữa) Ca sĩ Văn Hanh
Chuyện cảm động
quanh cầu Hiền Lương không ít. Được kể nhiều là chuyện
bà mẹ nghèo Nguyễn thị Diệm ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh
Thành. Đêm đêm trong hầm nhà đen tối, dưới ánh ánh sáng
lờ mờ của ngọn đèn đèn dầu leo lút, mẹ ngồi vá lá
cờ Tổ quốc rách nhiều chỗ vì luôn tung bay trong gió. Lá
cờ rộng 108 mét vuông, nặng lắm trong tay mẹ đã già, tay
run rẩy, mắt mờ nhòa, nhưng mẹ cứ miệt mài vá đêm nầy
qua đêm khác cho đến khi cờ hết rách. Bà hảnh diện nhín
lá cờ tung bay trên cột cờ cao 34,5m và chắc chắn bên kia
bờ đồng bào sáng sáng ra sông gành nước cũng cùng nhau nhìn
cờ, nghĩ đất nước rất gần gũi, bom đạn không thể nào
làm sờn lòng những con người quyết chí một ngay gần đây
thành công sum họp. Nay mẹ không còn nữa để chia vui với
bà con đồng bào. Nhưng cũng có những chuyện tình êm ấm
đi đến một kết cầu dịu đẹp. Đấy là chuyện cặp vợ
chồng Trần Ngọc Châu-Nguyễn thị Định. Quen nhau từ thuở
mới biết yêu, nhưng họ chưa chịu lấy nhau ngay, hưa hẹn
đến khi nào, kháng chiến thành công sẽ cùng nhau xây dựng
tổ ấm, nghĩ chỉ là chuyện vài năm. Nhưng chiến tranh kéo
dài, anh lại phải tập kết ra Bắc, chị ở lại trong Nam,
ngày ngày trong ngóng. Thế là mặc dầu nhiều khó khăn, cản
trở, họ không muốn chờ đợi nữa và quyết đinh cưới
nhau. Anh vượt dòng Bến Hải sang bờ Nam nói là để thăm
gia đình. Chính quyền miền Nam không chịu cho làm đám cưới
đàng hoàng, không có nạp thái, vấn danh, đính hôn, bỏ trầu,..
và nhất là lễ đón dâu về nhà trai vì phải khai báo với
chính quyền. Gia đình giả đò tổ chức một buổi kỵ giỗ
và mời bà con làng xóm. Cô dâu chú rể không mặc áo cưới,
lúc sắp đón dâu thì chú rể phải trèo lên trốn trên rậm
thượng. Cô dâu một mình quỳ lạy mà nước mắt đầm đìa,
tiếp theo là cả nhà theo khóc như một đám tang. Ngay tối
hôm đó chú rể lại phải vượt sông về bờ Bắc.Vợ chồng
xa nhau ngay từ hôm cưới. Ngày ngày chị ra bờ sông giặt
dịa hay mò cua bắt ốc mạy được thấy chồng bên kia bờ
sông.Và cứ như thế 13 năm ròng cho đến ngày đất nước
thống nhất mới được đoàn tụ. Chuyên tình thê thảm đánh
dấu tình trạng thảm thương mà dòng sông Bến Hải chia cắt
đất nước vô tình gây nên.
Phụ lục : Câu
hò bên bờ Hiền Lương
1.
Bên ven bờ Hiền
Lương chiều nay ra đứng trông về
Mắt đượm
tình quê, đôi mắt đượm tình quê
Xa xa đoàn thuyền
nan buồm căng theo gió xuôi dòng
Bỗng trong sương
mờ không gian trầm lặng nghe câu hò.
[ÐK1:]
Hò ơi, ơi thuyền
ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một
dạ khăng khăng đợi thuyền
Nhắn ai gìn
giữ câu nguyền trong cơn bão tố
Vững bền lòng
son. Ơi câu hò chiều nay sao mang nặng tình ai
Ơi câu hò chiều
nay sao mang nặng tình ai
Hay là em bên
ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
Gởi lời tin
theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi.
2.
Trông qua rặng
Trường Sơn, miền quê xa khuất chân trời
Mây lặng lờ
trôi, mây đen lặng lờ trôi
Xa xa một đàn
chim, so mây dang cánh lưng trời
Hỡi chim hãy
dừng cho ta gửi đến phương xa vời.
[ĐK2:]
Hò ơi, ơi dù
cho, dù cho bến cách sông ngăn
Dễ gì chặn
được duyên anh với nàng
Rẽ mây cho sáng
trăng vàng
Khai sông nối
bến cho nàng về anh.
Ơi câu hò chiều
nay tôi mang nặng tình ai
Nơi miền quê
xa vắng em có nghe thấu cho lòng anh
Tình này ta xây
đắp nên thủy chung không bao giờ phai.
Hoàng
Hiệp
Ðọc thêm
:
- PV, Vĩnh biệt
nhạc sỹ của Câu hò bên bờ Hiền LươngTTXVN
09.01.2013
- Hoàng Hiệp, Rơi
nước mắt câu chuyện "Câu hò bên bờ Hiền Lương"VTC
News 10.01.2013
- Xuân Quảng, Nhớ
khúc tráng ca nơi đôi bờ Bến Hải, Ðại Ðoàn Kết,
23.12.2013
- Hà Tùng Long, Người
đầu tiên hát Câu hò bên bò Hiền Lương, dongnhacxua.com
19.04.2014
- Nguyễn Hưng, "Câu
hò bên bờ Hiền Lương" và chuyện tình cảm động ở vĩ
tuyến 17 DSPL11.01.2015
-
Thanh Bình, Câu chuyện tình bên bến Hiền Lương,
Công an nhân dân 27.04.2015
- Hữu Tiến, Quảng
Trị: Du lịch Vĩnh Linh "thức giấc" trong nắng mới,
Xây Dựng 07.06.2016
Bà mẹ Nguyễn
Thị Diệm vá lá cờ
Chim Việt Cành Nam 71 01.07.2018
|