17 - Bức lụa thêu kinh
chùa Trúc Lâm Huế

Bài và ảnh  Võ Quang Yến

Ðường Trúc Lâm đá vàng cát trắng
Cảnh Trúc Lâm, cảnh vắng người thanh
Dòng khe lượn khúc như tranh
Rừng cây rợp bóng tươi xanh bốn mùa

Bs Lê Đình Thám

Cách đây hai mưỏi năm, 1998, trong chuyến đi tìm tài liệu cho luân văn nhà tôi, hai vợ chồng chúng tôi về Huế và được mấy cháu ở Nam Phổ chở xe máy đưa viếng chùa Trúc Lâm, nhân tiện xem các bảo vật của chùa từng có tiếng trong giới Phật giáo. Con đường thôn dã ít người biết bao thú vị chay xe giữa những hàng tre cao vút lung lay trong gió như chào đón chúng tôi. Nhà tôi được thỏa mãn vì sau khi dẫn viếng chùa, mấy vị sư thấy tôi là dân Huế chính cống lại đem người vợ ngoại quốc về thăm quê chồng, không lưỡng lự đem kho báu ra trình bày (và khoe) với tất cả hảnh diện của những con dân biết trọng của quý ông cha để lại. Vật chính của kho báu là bức kinh thêu từ mấy trăm năm, được cuốn tròn thận trong trong một hộp gỗ chạm trổ tinh vi. Tuy nhiên mở ra đóng lại nhiều lần, bức kinh hết còn giữ màu sắc năm xưa, lại không có phương tiện bảo quản nên cũng mất đi ít nhiều phẩm cách một tấm lụa mới thêu, thiếu chăng là hương thơm của tác giả. Tuy nhiiên, bức thêu vẫn còn đẹp với một sức quyến dũ tuyệt vời nên các vị sư rất sợ có người lại lấy mất, hoặc những nhà bảo quản "nhà nước’’mượn về trưng bày ỏ một viện bảo tàng mỹ thuật nào đó! Vâng theo lời dặn trong tinh thần giữ kím bảo vật cho nhà chùa, chúng tôi hoàn toàn không phổ biến, không nói và cũng không viết gì về bức kinh thêu nhiều năm sau. Thậm chí nhà tôi cũng chỉ nói miêng cho ông giáo sư điều khiển luận văn và không đã động gì đên trong bản viết. Nay thấy trên internet có nhiểu bài viết và ảnh chụp, ngay cả với mấy vị sư, chúng tôi hiểu là đến lúc không cần phải im lặng bảo vệ kho báu như đã được dặn dò nữa.

Một vât quý báu như vậy ắt phải có nơi bảo vệ xứng đáng. Chùa Trúc Lâm tọa lạc trên đồi Dương Xuân Thượng làng Thuận Hòa, huyện Hương Thủy, bao quanh có núi non hùng vĩ: gần nhất là núi Kim Phụng luôn có mây trắng điểm màu, xa xa nằm dài dãy Trường Sơn núp bóng trong mây mù phủ kín như để gợi thêm bí ần của chốn núi rừng. Dưới chân đồi khe suối uốn khúc, róc rách chảy dưới Cầu Lim dẫn vào địa phận Dương Xuân Hạ, gây nên một bản nhạc đơn điệu, nhẹ nhàng. Hai bên bờ suối là cát trắng trước chùa, dưới đáy lòng khe chen lẫn đá cuội đủ màu sắc, đủ kích thước hình dáng, trong nước tung tăng nhiều loại cá nhỏ tự do bơi lội thờ ơ với khách lại viếng thăm. Bức kinh không phải được thực hiện ở chùa Trúc Lâm. Khi vua Gia Long đi đánh nhà Tây Sơn ngoài Bắc năm 1801 đem về, thấy bức kinh có niên đại Tây Sơn lại thấy chưa đánh giá đúng mức giá trị mỹ thuật, lịch sử, tạm đem thờ trong Khương Ninh các, thuộc cung Diên Thọ hoàng thành Huế rồi bỏ quên, bản kinh một lúc coi như bị thất lạc (*). Không phải tình cờ mà Napoléon cùng thời đi chinh phục Ai Cập không quên đem theo nhiều họa sĩ, sử gia, các nhà khoa học, thực vật học… Mãi đến thời Khải Ðịnh (1916-1921) hơm một thế kỷ sau, hòa thượng Phước Huệ ở chùa Thập Tháp (Bình Định) về Huế giảng dạy Phật pháp, nghe chuyện bản kinh, nhận định là pháp bảo bèn nhờ các đệ tử truy tìm. Đến lượt Ni trưởng Diệu Không ở chùa Hồng Ân (Huế) tiếp tay và các đệ tử của bà đã tỉm ra trong một nhà thường dân. Tuy quỳ bản kinh hơn, nhà chùa chấp nhận mua bức kim cang với giá cao (tương đương bảy lượng vàng đương thời) ít vì lịch sử, mỹ thuật mà chủ yếu nhờ hộp gỗ trầm çhương chạm trổ công phu. Bản kinh được chuyển về cho hòa thượng Thích Mật Hiển. Hòa thượng Giác Nhiên ở chùa Tây Thiên (Huế) nhận bảo quản nhưng đến năm 1943, khi chùa Tây Thiên bị mất cắp một số đồ vật, bản kinh được chuyển về chùa Trúc Lâm.

Bản kinh Kim Cang (Cương) còn goi Bát nhã kinh, nhìn chung còn nguyên vẹn nhưng trải qua thời gian hơn 200 năm hiện trạng của bảo vật đang xuống cấp: chỉ thêu phai màu, gấm vàng nhiều chỗ nứt rách và lớp lót nhiễu điều lỗ chỗ vết mục do thời gian tàn phá. Như vậy, trải qua chặng đường dài lưu lạc, bản kinh tìm đến chùa Trúc Lâm, như sự tùy duyên của đạo Phật, nơi đâu duyên lành thì bảo vật tìm đến. Cuối cùng bản kinh được đặt trang trọng ngay chính giữa, trước bàn thờ Phật tổ trong ngôi chùa Trúc Lâm đại tự và được gìn giữ đến ngày nay. Như vậy, ngoài gấm vải đẹp, chữ thêu tinh vi, hộp đựng bằng gỗ trầm hương quý, bản kinh còn được xem như là một bảo vật vì hành trình của nó cũng là một hành duyên lý thú. Tổ khai sơn chùa là Thiền sư Giác Tiên. Năm 1895, thời Thành Thái, chùa Phổ Quang ở dốc Bến Ngự, nguyên là một thảo am, ngày càng hư hỏng. Bấy giờ có một tỳ kheo ni là bà Hồ Thị Nhàn người làng Chuồn, sau ngày chồng mất bà xuất gia thụ giáo với hòa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu (1898) pháp danh Thanh Linh hiệu Diên Trường. Bà xin phép đại lão hòa thượng được trùng tu chùa Phổ Quang. Bà còn được Thái hoàng Thái Hậu Trang Ý Thuận Hiếu cấp cho hai mẫu ruộng dùng vào việc đèn hương. Đấy cũng là thời điểm đang mở đường xe lửa chạy ngang qua dưới chân đồi, chùa Phổ Quang trở nên thị tứ ồn ào, dân cư đông đúc, chợ búa ghe thuyền tấp nập...  nên sư bà Diên Trường tìm đường rẻ lối tới chốn sơn lâm cùng cốc xa hơn lập một thảo am khác để tiện việc tu hành. Duyên lành đã hạnh ngộ trên đỉnh đồi Dương Xuân, khi thảo am xong thì sư thì Diên Trường mời sư Giác Tiên về làm trụ trì và sư cũng là vị tổ khai sơn của chùa Trúc Lâm.

Giác đạo kiếp không Tiên
Không không bát nhã Thuyền
Quả nhân phù hạnh giải
Xứ xứ tức an nhiên.
kệ Tâm Tinh
(Ðường giác kiếp không trước, thuyền bát nhã không không, hạnh giải hợp nhân quả, ở đâu cũng thung dung).

Bản kinh Kim Cang (Cương) 7.000 chữ Hán được thêu bằng chỉ ngũ sắc, như tên gọi, nhuộm năm màu đỏ, vàng, xanh, trắng, lục cách đều và liên tục, trên nền gấm vàng có viền và lớp lót bằng vải điều, dài 2,47m, khổ 23,4cm. Trong kinh điển nhà Phật có nói Dây Ngũ Sắc cũng là đại biểu cho Kim Cương Giới của Ngũ Phật (màu vàng), Tâm quán tưởng Tây Phương A Dì Đà Phật (màu đỏ), Nam Phương Bảo Sinh Như Lại Phật (màu vàng), Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật (màu xanh lá), Đông Phương A Súc Bệ Phật (màu xanh da trời), Chính Giữa là Tỳ Lô Giá Như Lai còn gọi Đại Nhất Như Lai Phật (màu trắng) !Năm phương Đại Phật đều chiếu Phật Quang ánh sáng vàng chói của giải thoát, tức là có thể đắc được Ngũ Phương Kim Cương Đại Phật bảo hộ thân mình. Chỉ Ngũ Sắc có tác dụng trừ tà ma, đem lại cát tường cho mọi người. Vòng đeo tay kết chỉ Ngũ Sắc được gia trì Ngũ Phật Tâm Chú, được 5 Ðức Phật gia hộ, nên khi mang dây Ngũ Sắc thì nên thường Tâm Niệm hình ảnh 5 vị Phật như kể trên mang lại bình an, may mắn, thành đạt và hạnh phúc cho tất cả những ai sở hữu nó. Nếu thường trì chú thêm vào cho Dây Ngũ Sắc thì công hiệu càng lúc càng mạnh. Nội dung kinh gồm ba phần: phần đầu có hai bản tựa, tiếp đến là toàn văn kinh Kim Cương và lời bạt cuối cùng. Lời tựa đại ý ca tụng sự thâm sâu của giáo lý Phật giáo được thực hiện trong bản kinh Kim Cương, cho rằng kinh Kim Cương là một trong những bản kinh Phật nói chuyện nhà Phật lấy lòng từ bi và dùng trí huệ soi sáng thế gian, làm thế nào để thế nhân thoát khỏi bể trầm luân, thoát khỏi cõi u minh để đi đến giải thoát. Với ý nghĩa đó, hai nhân vật được nhắc tên trong bài tựa thấy bản kinh rất hay và cũng muốn thực hiện như vậy trong việc cai trị đất nước của mình. Bài tựa thứ nhất với câu mở đầu "Thái thượng hoàng đế ngự chế...", và bài sau là "Cảnh Thịnh...". Thời gian hoàn thành việc thêu cũng được ghi rất rõ là "Cảnh Thịnh bát niên thập nhất nguyệt sơ nhất nhật" tức là ngày 1.11 năm Cảnh Thịnh thứ tám (16.12.1800). Do đó xưa nay giới nghiên cứu cho rằng bài tựa thứ nhất là của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ và bài tựa thứ hai là của vua Cảnh Thịnh - Quang Toản. Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng và khẳng định được điều này thì bản kinh càng có giá trị về mặt văn hóa lịch sử, khi mà những hiện vật văn hóa thời Tây Sơn phần lớn đã bị tàn phá sau biến cố thay đổi triều đại. Đạo giáo truyền thống lại có nói ngũ sắc là đại biểu cho Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy tất cả 5 hành, cũng là Đông Tây Nam Bắc Trung cũng 5 phương.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, bản kinh Kim Cang thêu là một văn vật đặc biệt nói riêng với Phật giáo và nói chung cho nền văn hóa Việt Nam bởi trong vô số các tàng kinh Phật, kinh Kim Cang là một trong những bộ kinh có ý nghĩa thâm sâu. Kinh được nhiều người ca tụng và đã được nhiều lần được dịch thuật ra thành ngôn ngữ bản địa của từng dân tộc để Phật tử khắp nơi trực tiếp tham cứu và tu hành. Bản kinh Kim Cang tại chùa Trúc Lâm được xem là một quốc bảo không chỉ bởi giá trị lịch sử, mà còn ở giá trị nghê thuật. Nội dung của hai bài tựa này cho thấy sự ngưỡng mộ của hai vị vua triều Tây Sơn đối với kinh Kim Cang, ca tụng bản kinh chứa đựng lời dạy thâm sâu của nhà Phật. Nội dụng chính của bản kinh là phần kinh văn, tức là thêu lại nguyên văn vào khoảng 7.000 chữ của nội dung kinh Kim Cang. Cuối cùng, trong phần hậu bạt ghi rõ về việc thực hiện bản kinh thêu của Tỳ kheo ni Diệu Tâm, khi đó là trụ trì chùa Sài Sơn (tức chùa Thầy ngày nay) tại Sơn Tây với mục  đích để cúng dường Ðức Phật và cung tiến thân phụ là Nguyễn Gia tướng công và thân mẫu là Quỳnh Liên công chúa Trịnh Ngọc Tuân, cầu cho ông bà, tổ tiên được siêu thoát. Theo Ông Hồ Tấn Phan, một nhà sưu tầm cổ vật, thì Cứ mỗi lần thêu một chữ là niệm 10 lời kinh văn của kinh kim cang. Bản kinh có tới 7 nghìn chữ, do sư bà Diệu Tâm đã để công sức làm công việc này trong một thời gian lâu dài. Chính điều đó đã nói lên tâm đức của sư bà. Vì những lý do này, hiện nay bản kinh được xem như một Pháp bảo của Phật giáo…Hơn nữa, cũng theo ông, thêu bằng chỉ kim tuyến năm màu trên vóc vải nâng cao giá trị thập nhị của bản kinh cang, số năm cũng là một khái niệm rất quan trọng trong tư duy của người Phương Đông mà rõ ràng nhất người ta thường gọi là ngũ hành…

Trong số các bảo vật của chùa Trúc Lâm, ngoài bản kinh thêu, còn có thể kể bức tiểu tượng treo trên tường hậu tổ, chiếc lư đốt trầm bình bát chu sa và muỗng gỗ . Những báu vật nầy nguyên thờ ở chùa Khánh Vân bên bờ bắc song Bạch Yến. Lư đốt trầm, cao khoảng 32cm, đường kính 22cm gắn liền với phần đế bên dưới, nhiều chỗ đắp nổi, có minh văn theo phong cách gốm sứ thời Mạc được cho là tráng men Tam Thái (ngà, trắng và xanh). Minh văn còn ghi rõ chiếc lư được sản xuất vào thời Lê niên hiệu Chính Hòa (1680-1704), là tự khí của chùa Bảo Sơn, phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngạn, Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho biết lư trầm này được thượng thư Hồ Ðắc Trung, thân phụ sư bà Diệu Không, đem từ Thanh Hóa vào dâng cúng nhà chùa. Bình bát bằng chu sa và muỗng gỗ được xem là của dâng tặng hòa thượng Thạch Liêm-Thích Đại Sán, tác giả cuốn sách Hải ngoại ký sự nổi tiếng. Sư ông Ðại Sán, người Giang Tây, Trung Quốc, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời từ Quảng Ðông về giúp nhà chúa xây dựng triều đình rất hợp lòng dân và bình bát này là một trong những vật nhà chúa tặng với lòng thành. Lẽ tất nhiên, hai hiện vật gốm đặc biệt có giả trị khi được ghép với bản kinh thêu. Lời tựa bản kinh thêu đại ý ca tụng sự thâm sâu của giáo lý Phật giáo được thực hiện trong bản kinh Kim Cang, và cho rằng Kim Cang là một trong những bản kinh Phật nói chuyện nhà Phật lấy lòng từ bi và dùng trí huệ soi sáng thế gian, làm thế nào để thế nhân thoát khỏi bể trầm luân, thoát khỏi cõi u minh để đi đến giải thoát.


Ngũ sắc, Ngũ Phật Tâm Chú
Thành Xô Mừng Phật Đản 2562

Ðọc thêm

-Hà Xuân Liêm, Những ngôi chùa Huế, nxb Thuận Hóa, 2000

-Thái Lộc, Những pháp bảo chùa Trúc Lâm Huế, Tuổi Trẻ, 20.05.2008

-Trịnh Nguyên Phước, 
. Đọc và Hiểu kinh Kim Cương Bát Nhã Ba la Mật Đa,Thư viện Hoa Sen 24.10.2010 
. Đọc và Hiểu kinh Kim Cương ... , Viện Phật Học Trúc Lâm :
http://vienphathoctruclam.free.fr/VPHTL_Viet/kinhdien/trinhnguyenphuoc/tnp_KinhKimCuong_a.htm

-Thăng Long, Bảo vật chùa Trúc Lâm, Khám phá Viêt Nam, 26.06.2014

-Nguyễn Toàn, Báu vật chùa Trúc Lâm, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, Giác Ngộ,

-Hồ Ðắc Duy, Chùa Trúc Lâm ở Huế, Chim Việt Cành Nam
(http://chimviet.free.fr/quehuong/hodacduy/hdds_ChuaTrucLamHue_a.htm)

(*) xin xem Võ Quang Yên, Tẩm thảm thêu lịch sử Bayeux (Chim Việt Cành Nam, sẽ đăng) tuy không so sánh vởi nhau được : kích thước, màu sắc, vật liệu, nội dung, phong cách.

Chim Việt Cành Nam 73 15.1.2019
 


[ trang trước ]  /    [ trang sau]