
Tôi quê quán Nam Phổ
huyện Phú Vang nhưng sống lên ở làng mẹ Mỹ Cang huyện Phong
Điền, trên bờ sông hiền hòa Ô Lâu (1). Cùng với
sông Hương và sông Bồ, sông Ô Lâu nằm gọn trong địa phận
huyện Phong Điền và là một trong ba con sông tỉnh Thừa Thiên
Huế đổ ra cửa biển Thuận An. Bắt nguồn từ núi Truồi
hùng vĩ, vượt rừng hoang cây dại, uốn lượn giữa rặng
núi Trường Sơn hẻo lánh trước khi thuần phục xuôi về
vùng cát trắng các truông Phò Trạch, chảy song song với đường
xe lửa cùng đường Quốc lộ A1, sông chuyển hướng tây bắc,
hội tụ với sông Quảng Trị còn gọi sông Thác Ma hay sông
Độc. Trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thừa Thiên
Huế - Quảng Trị, sông quặt lại hướng tây-bắc đông-nam,
vượt qua đồng lúa Kế Môn, xuôi về Vân Trình, đổ vào
phá Tam Giang nối liền với cửa Thuận An, toàn sông dài khoảng
trên dưới 30 km. Ngoài những khúc uốn nhỏ, đổi hướng
bốn lần, sông Ô Lâu cống hiến nước uống, nước tưới
vườn, tưới ruộng, cát sạn, thủy sản, nước ngọt, nước
mặn, nước lợ cho nhiều làng, Mỹ Xuyên, Mỹ Cang, Phước
Tích, Phú Xuân, Ưu Điềm, Hội Kỳ, Câu Nhi, Đại Lược, Kế
Môn,...ngày nay hợp lại trong các xã Phong Lâu, Phong Sơn, Phong
Hải, Điền Hương, Điền Hải, Điền Hòa,... Không mạnh lắm
ở vùng núi, về đến hạ lưu đồng bằng dòng nước càng
trở nên yếu dẩn, lờ lững như dãi lụa, có thời gian vào
mùa nước lũ phủ lên đồng ruộng một lớp phù sa màu mỡ.
Tuy nhiên, như nhiều con sông khác, hiền hòa vào xuân hạ nhưng
qua thu đông, mưa lụt dữ dội, sông hết còn bình tĩnh, đặt
nhiều vấn đề. Khó khăn nhất là những hôm nước mặn từ
phá chảy ngược lên, dân làng ở miền biển phải cực lực
ra sức canh chừng, dựng bao cát làm đê ngăn ngừa chống nước.
Hiền
hòa xuân hạ nước trong
Thu đông ngập
lũ mênh mông xóm làng
(Thanh Ðạm, làng Vân Trình)
Sông
Ô Lâu ở Phước Tích
"Theo thuật phong
thủy, ...làng được xây dựng trên cồn đất cao, bằng phẳng,
có dòng sông chảy qua trước mặt là làng có vượng khí.
Nhưng dòng nước nông, nguồn gần thì phúc lộc ngắn, dòng
nước chảy quanh co, uốn khúc, chảy ngang qua và quay vòng trở
lại, bao bọc lấy làng, chảy du dương, êm đèm, bồi lắng
mặt hồ thì phúc lộc thọ cho làng càng lớn.". Trạng thái
uốn lượn dòng sông gây ra những địa hình đặc biệt. Làng
Phước Tích 12 bến nước nằm giữa hai "khúc uốn cong trong"
của sông nên có hình thái một bán đảo "bầu rượu túi
thơ"mà eo đất mở ra một bên làng Phú Xuân (giải tỏa làng
Phú Xuân ở tả ngạn sông Hương khi vua Gia Long đóng đô thành
Huế) dẫn về Ưu Điểm, một bên làng Mỹ Xuyên nối liển
với Mỹ Cang. Làng nầy, tức là thôn Mỹ của tôi, còn gọi
làng Hói vì có con hói ngăn cách với Phường Trung thuộc Mỹ
Xuyên dẫn lên Phò Trạch, nằm trên "khúc uốn cong ngoài" trước
khi sông chuyển mình quay qua trái vòng quanh Phước Tích nên
phải chịu đựng sức mạnh xói mòn của dòng sông, với thời
gian bờ sông bị lở dần.
Em theo
anh về thăm thôn Mỹ,
Làng Hói quê
giăng lưới thả câu,
Ðá Bến Ðình
rêu phong ẩm ướt,
Bụi la ngà giởn
sóng Ô Lâu.
(VQY, Về làm dâu Huế)
|
|
Khút
Bàu Ngược ở Kế Môn
|
Xuyên
đồi cát trắng ở Phò Trạch
|
Con đường mòn
dọc bờ sông gọi là Bậc Lở từ làng đi ra chợ ở
tụ điểm các làng Mỹ Xuyên, Mỷ Cang, Phú Xuân, Phước Tích
hồi tôi nhỏ nay không còn nữa. Trước khi đến chợ, đường
vòng quanh một cái hồ nhỏ phụ lục sông Ô Lâu : lính Pháp
thời đóng đồn ờ đình Mỹ Chánh hay qua đây ném lựu đạn
xuống hổ rồi lội vớt cá nổi lên mặt hồ ! Trái lại
bên kia sông, làng Hội Kỳ nằm trên "khúc uốn cong trong" của
dòng sông thì lại may mắn sau mỗi mùa nhận thêm đất bồi.
Hiện tượng bồi đắp còn thấy quy mô rộng hơn ở cửa
sông đổ ra phá Tam Giang. Người làng Hội Kỳ dùng mảnh đất
Trời cho nầy để chôn cất khi có đám tang như một nghĩa
địa nên đêm đêm bọn trẻ chúng tôi bên kia sông thường
hay run rẩy kéo nhau ra xem những ngọn lửa "ma trơi" chập chờn
huyền ào mà không hề biết là do các khí methan và phôtphin
thoát ra từ tử thi phân hủy, bốc chảy trong khí quyển thành
một ngọn ánh sáng phát lân quang. Ðồng thời chúng tôi cũng
mục kích được những ngọn lửa các lò nung gốm làng Phước
Tích lấp loáng sau các lũy tre xanh. Ở một vài làng khác,
gần đây, sự kiện sát lở bờ sông phát triển rộng lớn
vì khai thác bừa bãi cát sông, lại là một nguy cơ cho những
ngôi nhà cổ xây nép bờ. Về hạ lưu sông, còn có một hiện
tượng khác : vào mùa lũ lụt, dòng nước uốn ngược lại
thành một vòng chảy xoáy trôn ốc trông như một cái gút
hay khút dây, ở Kế Môn gọi là "Khút Bàu Ngược", rất
nguy hiểm cho ghe thuyền nghịch gió bị chìm úp. Cách đây
mấy chục năm, một chiếc nốt chở sạn về xây chùa
bị lật chìm ở đây và có người chêt. Tuy nhiên, mặc dầu
tai nạn hiểm nghèo, dân làng rất kính nễ và thương yêu
cái khút ấy, xem như một "hàm rồng" thiêng liêng bảo
vệ làng và nhất là đem lại may mắn. Người làng còn nhớ
sự nghiệp quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng cho đào kinh thông
giáp sông lớn chỗ Bàu Ngược để nước dễ lưu thông, ghe
thuyền qua lại thuận tiện. Ông cũng là người tìm ra kế
bắt các băng cướp đem lại an ninh cho vùng truông nhà Hồ
và trừ được sóng dữ ở phá Tam Giang
Thương
em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà
Hồ sợ phá Tam Giang.
Phá Tam Giang
ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ
nội tán cấm nghiêm.
Ca dao
Dân làng không quênchuyện
gia đình ông thợ kim hoàn Cao Đình Độ thời Quang Trung trên
đường vào Phú Xuân bị đắm thuyền ờ "Khút Bàu Ngược",
được dân làng cứu mạng và để đền ơn, ông truyển nghề...từ
đấy Kê Môn trở nên nổi tiếng về nghề kim hoàn.
|
|
Bến
Ðình ở Mỹ Cang
|
Ðò
ngang ở Mỹ Xuyên
|
hôm
đem con cháu về thăm làng Hói xưa sau mấy chục nãm tha hương
Người Việt lại
sống trên bờ sông Ô Lâu từ thuở vua Cham Pa Jaya Simhavarman
III tức Chế Mân năm 1306 dâng vua Trần Anh Tông hai châu Ô,
Rí (Lý) làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân và, để
giữ hòa khí giữa hai nước, tránh nạn binh đao. Ngay sau đó
hai châu Cham Pa được đặt tên châu Thuận, châu Hóa, loạt
người Việt di dân từ các vùng Thanh Nghệ tiếp nhau vào bổ
sung thành phần dân gian bản xứ. Trên đường Thiên Lý từ
giả Đại Việt, Công chúa Huyền Trân ra đi làm dâu Cham Pa
thành hoàng hậu Paramecvarti chắc đã đổ nhiểu nước mắt
trên con sông Ô Lâu trìu mến nầy.
Nước
non ngàn dặm ra đi...Mối tình chi!
Mượn màu son
phấn Ðền nợ Ô, Ly.
Xót thay vì,Ðương
độ xuân thì.
Số lao đao hay
là nợ duyên gì?
Ðiệu ca Nam bình
Cuộc di dân tuần
tự diễn tiến suốt thế kỷ XIV. Vào cuối thế kỷ, nhà
Trần đã thành lập ở vùng đât Hóa Châu 7 huyện Bồ Ðài
(sau đổi thành Phong Điền), Bồ Lãng, Lợi Bồng, Thế Vinh,
Trà Kê, Tư Dung, Sa Lệnh với trên 40 ấp, thôn, khu, trại.
Tổ tiên gia đình tôi cũng đến đây vào thời buổi nầy.
Tôi để ý trong gia phả dòng họ 13 thế hệ của chúng tôi
không thấy có tên vợ những vị khai canh đầu tiên : có lẽ
hai anh em độc thân vào đây khai khẩn và lập gia đình với
phụ nữ bản xứ không thuộc tộc Việt, có thể người Chăm
hay người các dân tộc Tà Ôi, Pa Hy, Pa Cô, Cà Tu sống ở
đây từ trước. Sau khi vua Chế Mân băng hà, công chúa Huyền
Trân trở về Đại Việt. Năm 1377 quân Cham Pa qua đánh phá,
vua Trần Duệ Tông bỏ mạng năm 1377. Vua Chế Bồng Nga Po Binasuor
chiếm đóng châu Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình đến Nghệ
An trong vòng 12 năm nhưng ngay sau đó bị tử trận năm 1389,
khép lại một trang hùng sử trong lịch sử Cham Pa. Hai năm
sau, vua Trần Thuận Tông cử Lê Quý Ly vào đây tuần thú,
xét duyệt quân ngũ, sửa chữa thành trì, vùng Hóa Châu, Thuận
châu, "phên dậu phía nam" Đại Việt, mới lại ổn định,
hết còn họa Chiêm.
 |
 |
|
Ảnh
Nguyễn Thế
|
Vài
kỷ vật gia đình còn lại trong vườn nhà xưa ở làng Hói
Từ ngoài bắc vào
đất Thần kinh, ai cũng phải đi ngang qua sông Ô Lâu như công
chúa Huyền Trân một thời. Sĩ tử xứ Ðàng Ngoài mỗi khi
vào kinh ứng thí phải theo dọc dòng sông, gởi gắm bên bờ
sông biết bao tâm tình, thổn thức trước người tình không
chung thủy. Hay cô lái đò đã thề nguyện với chàng thư sinh
mà về sau vẫn còn đơn chiếc đưa khách sang sông, luôn nóng
lòng chờ đợi, không biết chàng có nhớ chăng lời hẹn ước
năm xưa và rút cuộc trầm mình quyên sinh để lại nỗi niềm
tiếc thương cho khách qua đò.
Trăm năm
vì lỗi hẹn hò,
Cây đa Bến
Cộ con đò khác đưa,
Cây đa Bến
Cộ còn lưa,
Còn đò đã
thác năm xưa tê rồi !
Câu hát dân gian
Người tài vùng Hóa
châu không thiếu, phần lớn xuất thân từ làng Câu Lãm đổi
thành Câu Nhi. Đệ nhị giáp tiến sĩ Bùi Dục Tài (1477-1518),
thời Lê Hiển Tông, là vị tiến sĩ đột phá khai khoa đẩu
tiên của xứ Đàng Trong, thăng quan đến chức Tả thị lang
bộ Lại. Nhà ngoại giao Nguyễn Tăng Doãn (mất năm1879), đỗ
cử nhân đầu năm Tự Ðức, được phái cử ra nước ngoài
công cán ở Quảng Đông, Hương Cảng, hai lần sang Pháp, đi
sứ về được thăng Lại bộ Thượng thư sung cơ mật viện
đại thần. Về mặt võ quan phải nói đến Hoàng Bôi, tinh
thông võ nghệ, hết lòng hết sức giúp thành lập nhà Mạc,
lần lượt làm lực sĩ ở vệ Chiêu Vũ, phó trưởng đạo
Thuận Hóa, phong tước Viên Đàm giữ chức Đồng Tri Thiên
Sự, rồi chức Giới phiên hệ và Tước viên đàm hầu. Ông
tổ chức lực lượng chiếm giữ đầu nguồn sông Mỹ Chánh
chống đỡ nhiều năm quân Lê Trung Hưng, luôn trung thành với
nhà Mạc nhưng qua mùa hạ 1554, thất thế ông bị bắt và
bị hại, được dân làng tôn làm nhân thần, hằng năm chăm
sóc phần mộ và hương khói tế lễ. Một ông quan võ khác
gần gũi với tôi hơn là Hồ Oai, ông cố ngoại bốn đời
của tôi ở thôn Mỹ Cang, tách ra từ làng Mỹ Xuyên dưới
thời Nguyễn, người có công cứu vua Tự Đức trong cuộc
nổi loạn Chày Vôi. Là Quyền Chưởng Long Vệ, ông đã ngăn
chận nghĩa quân ở Duyệt thị đường, bị Ðoàn Trực chém
rơi một lỗ tai nhưng vẫn chạy tìm được quân cứu viện.
Vua Tự Đức rất cảm kích cử chỉ một trung thần, khen công
lớn, đã thăng ông chức Đô thống Tiền quân kiêm Doanh Long
Võ, ban tước Nghĩa Dũng Tử, chức Đại thần và tặng thẻ
bài ngà mang ba chữ Vũ Dũng Tướng, một viên ngọc đeo, một
nhẫn vàng có kham kim cương, 10 lạng vàng để làm lại một
lỗ tai vàng...(2).
Miểu
cây Thị, Miếu Ðôi ở Phước Tích
Châu Hóa nguyên
là đất Cham Pa, vì vậy còn rất nhiều di tích, di vật trên
bờ sông Ô Lâu. Huyện Phong Điền, một vùng quê còn giữ
nhiều dấu ấn, có thể ngày xưa là một trung tâm văn hóa
lớn của người Chăm. Tại xã Phong Hòa, bức phù điêu trước
ngôi chùa cổ Ưu Điềm (nay được đưa vào trong chùa), cao
rộng 3m, thể hiện lễ cưới Shiva-Parvati được đánh giá
là một kiệt tác nghệ thuật, một tác phẩm duy nhất trong
nền điêu khắc Cham Pa
(3) . Cũng ở chùa nẩy có
tượng phật đá nổi tục gọi "tượng Bà Lồi" cao 80cm, ngồi
kiết già trên tòa sen, một bộ linga lớn với ngẫu
tượng yoni bị vỡ. Ở làng Mỹ Xuyển kế cạnh, trong
đền Linh Quang có tượng thờ bà Tám tay bằng sa thạch, cao
1,2m cầm chiếc vòng, chuỗi hạt, búp sen, bầu rượu, được
đem về từ miếu Cồn Két. Ở thôn Vân Trạch Hòa (3), một
tổng thể phế tích kiến trúc lớn được khai quật năm 1999,
nay trưng bày trong viện Bảo tàng tỉnh Thừa Thiên ở Huế,
gồm có ba công trình kiến trúc, phục dựng được bình đồ
của công trình kiến trúc chính và hai bình đồ tháp phụ
phía bắc, cùng một số hiện vật : bệ linga-yoni, đá bệ
cửa, ...đặc biệt bốn hiện vật kim loại màu vàng, một
mảnh có hình hoa bảy cánh xòe cân xứng, niên đại khoảng
cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X. Gần đây, trong chương trình
hợp tác nghiên cứu với hai viện Đại học Nhật Bản Osaka
và Kanda, khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Huế công
bố phát hiện thành Hóa Châu không chỉ có hai vòng lũy thành
như một số thành cổ Cham Pa mà còn có những lũy thành ngắn
khác, đáng được so sánh với thành Chà Bàn ở Bình Định.
Ngoài ra, đoàn nghiên cứu còn phát hiện các hiện vật gốm
sứ, sành, gốm thô, đồ gạch, ngói, đồ đá và đồ thủy
tinh của nhà Trần, Trung Quốc, Cham Pa từ thế kỷ IX đến
thế kỷ XV. Theo nhận định của Giáo sư Nishimura Masanari Ðại
học Osaka, nếu không có thành Hóa Châu thì không có lịch
sử của Huế vì Hóa Châu chính là nơi tiếp xúc văn hóa Cham
Pa với văn hóa Ðại Việt. Hiện các nhà nghiên cứu đã lập
hồ sơ đề nghị công nhận di tích thành cổ này.
Nhà
vườn ở Phước Tích
Hầu hết các làng
quê bên dòng Ô Lâu của Phong Điền đều có dấu ấn của
văn hoá Cham Pa. Ngoài những hiện vật tìm ra trong khi đào
đất làm vườn, gần đây một số hiện vật được phát
hiện dưới lòng sông nhân khai thác cát sạn, phần lớn là
những cổ vật ché, chum, hũ, thạp, thống, bình vôi...Theo
các nhà nghiên cứu, những đồ gốm nẩy có chất liệu tốt,
hoa văn tinh xảo thì không phải là sản phẩm của các lò
Phước Tích mà là những hiện vật cổ Cham Pa. Ngoài niềm
tự hào về trầm tích văn hóa của vùng hai châu Thuận Hóa,
những di tích Cham Pa là một nguồn sử liệu vô giá, cần
phải có biện pháp sưu tập, bảo quản, lưu giữ, phát huy.
Riêng người dân Phước Tích cũng hảnh diện không kém về
đặc sản đồ gốm của làng không những nổi tiếng khắp
miền Trung mà còn được trưng dụng trong hoàng cung triều
Nguyễn. Trong dân gian, các loại đồ đựng bằng đất nung
như lu, ang, ấm, tộ, vại, trách, chậu, chum, ghè, hũ, trình,
om, niêu, thạp, thống, bình vôi, bùng binh, cối tiêu, ... là
những vật dụng không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt
của người dân. Dân làng cũng kiêu hảnh với những "om ngự"là
chiếc oa ngự dụng dùng trong buổi ngự thiện của nhà vua.
Om Phước
Tích ngon cơm hoàng đế,
Sen Hà Trì quý
thể Phú Xuân.
Gái Vĩnh Cố
dệt gấm thêu hoa,
Người Dũng
Cảm nung đất làm gốm.
Câu hát dân gian
Thành lập trên đất
xứ Cồn Dương còn gọi Cồn Giảng cách đây hơn 700 năm,
Dũng Cảm hay Dõng Quyết là tên cũ làng Phước Tích (thời
Nguyễn) sau khi được gọi Phước Giang (thời Lê-Nguyễn),
Hoàng Giang (thời Tây Sơn). Ý nghĩa tên làng được giải thích
trong vế đối ở đình làng
Dân dục
chỉ trí phong điển lý nhật tinh
Thần hưởng
giáng chi phục tích súc tuế tăng...
Dịch: Đời sống
ấm no ruộng đất ngày càng rộng lớn
Phước lành ban
xuống tích chứa trải dồi dào...
Chất liệu đất sét,
khai thác ở vùng Diên Khánh tại Quảng Trị bên kia sông, được
sắp thành hai loại: "kẻ tốt" được dùng để chế tạo
những đồ vật có thành mỏng, hình khối lớn, "kẻ màu"
những đồ vật ít có yêu cầu về mặt ngoại hình. Qua các
công đoạn làm đất, chuốt, làm nguội... thực hiện với
các dụng cụ trang, lù, thêu, nề đất, bàn chuốt, bàn xên,
gót chân, vòng vá nhắm, dợ sát, tre dồn... sản phẩm được
nung trong những dạng lò sấp (600°) hay lò ngửa (1200-1400°).
Gốm có độ cứng, tính chịu nhiệt cao và đặc biệt là
ít thẩm thấu nên không cần tráng men hay sơn màu, gốm vẫn
có một màu sắc đặc trưng rất đẹp mà người dân nơi
đây thường gọi gốm màu da lươn. Trong làng có lúc có đến
13 lò sấp 20 lò ngửa chẳng bao giờ tắt khói cho đến thời
chiến tranh. Trước đó, nhờ ở gần sông Ô Lâu lại sát
với đường Thiên Lý, gốm sản xuất đã được phổ biến
khắp vùng. Nay nghề gốm đang được khôi phục lại thành
hai dòng phát triển song song : gốm truyền thống và gốm mỹ
thuật. Dân làng tin tưởng thủy tồ nghề gốm là một ông
tên Mộộc, bạn của ông thỉ tổ khai sinh làng Hoàng Minh
Hùng, tục danh ông Nồi, quê gốc làng Cảm Quyết ngoài Nghệ
An, giữa thế kỷ XV. Ông là một võ quan đã tham gia chiến
dịch bình Chiêm, được phong chức Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm
Y, quản trị phó tướng, tước Hoàng Minh hầu, sắc phong Bổn
thổ khai canh, nên họ còn mang tên "Kẻ Mộộc" và sản phẩm
"đồ mộộc". Ngoài ra, người Phước Tích còn gọi cái nồi
là nghẹ (từ đó lọ nghẹ là lọ nồi), những
đồ gốm như om, trách, nồi, choán,.. là đột hay đôộc
nên người làng mang tên "Kẻ Đột" và làng "Đột Đột".
Đói lòng
lên động ăn sim,
Xuống ghe gánh
nước độộc chìm gióng trôi.
Ca dao
Nội
thất nhà rường
Đến Phước Tích,
khách không chỉ phải đi xem các lò gạch, ngắm nghía những
đồ gốm mà còn nên đi dạo một vòng thú vị vì làng còn
là một tổng thể làng quê truyền thống thế kỷ XV, tham
quan đình làng, những ngôi miếu xưa (miếu Văn Thánh, miếu
cây Thị, miếu Cô hồn, miếu Quảng Tế, miếu Bổn thợ,
miếu thờ di vật Cham Pa,...), lăng mộ ngài khai canh, thủy
tổ các dòng họ từ thuở lập làng, những khu nhà vườn
sâm suê rập bóng cây xanh cổ thụ bao quanh những ngôi nhà
rường cổ kính xây dựng vào thế kỷ XIX. Nhà rường
là "nhà có giàn" theo tiếng Mường, có thể lấy gốc từ
chữ lương Hán-Việt có nghĩa "rường nhà". Được xem
là một di sản kiên trúc quý báu, làng còn lưu giữ 30 nhà
rường cổ, gần là như còn nguyên vẹn, kết cấu theo kiểu
nhà 3 gian 2 chái hay 1 gian 2 chái gọi nhà vuông thiết
kế lối chữ Đinh. Về tổ chức nội thất sinh hoạt, nhà
trên là nhà chính với gian giữa là gian thờ; gian đông nơi
ở của ông chủ, gian tây nơi ở của bà chủ. Nhà dưới
gồm có nhiều gian nhỏ, phân chia làm nơi tiếp khách, phòng
ở của những tiểu gia đình, phòng ăn, nhà bếp...Trên một
diện tích trung bình 600-800 m2, kích thước 8-9 x 14-15 m, nội
thất trang trí bao gồm một loạt đồ gia dụng, ghế trường
kỷ khảm sà cừ, hoành phi thếp vàng, liễn đối chữ Hán,
nhìn lên trên có cột kèo, xuyên trến,... chạm trổ tinh vi
qua tay tài hoa của các thợ mộc Mỹ Xuyên.
Thân em
như trến mít chạm rồng,
Thân anh như
kèo chua chạm phụng, đẹp vô cùng anh ơi.
Hò Huế
Ngoài hệ hoa văn cây
lá hoa trái, những hình chạm khắc thường mượn trong bát
bửu tam giáo: cây đàn, cây bút, phất trần, cái bầu (Nho),
chữ vạn, hoa sen, chiếc lọng, cái tán (Phật), cái quạt,
ống tiêu, thanh gươm, cái gậy (Lão),... những di tích một
thời vàng son, chứng minh trình độ văn hóa, tâm hồn lãng
mạn của những chủ nhân. Cái nhà rường nhỏ của Cụ Mạ
tôi ở làng Hói cũng may may mắn được thụ hưởng loại
trang trí nầy. Thật vây, không có đồng ruộng, Phước Tich
là một làng chữ nghĩa, khoa bảng, giỏi hàng đầu xứ cố
đô, tú tài, cử nhân, tiến sĩ, thời trước không ít, ngày
nay cũng có nhiều, nhiểu đến nỗi :
Tú tài
lấy triêng mà gạt
Cử nhân lấy
trạc mà khiêng
Ngạn ngữ
triêng là đòn gánh,
trạc là dụng cụ khiêng đất ! Theo ông Hoàng Tấn Minh, Trưởng
làng thì : "Hiếu học là truyền thống của làng bao đời
nay. Dân làng ai cũng đề cao việc học. Không chỉ xưa mà
nay vẫn thế. Cả làng có 117 hộ với 327 khẩu, không nhà
nào để con em học dở dang. Ða số đều học đến nơi đến
chốn và có công ăn việc làm ổn định". Trong làng có khoảng
100 người độ tuổi 70-103, 40 người từ 80 tuổi trở lên,
Phước Tích còn là một làng trường thọ.
Kết
cấu kiến trúc nhà rường
Ðược công nhận
"Di tích kiến trúc nghệ thuật cổ Phước Tích" cấp
quốc gia, làng Phước Tich là một trong những làng cồ đẹp
nhất Việt Nam cùng với các làng Đường Lâm (Hà Nội), Long
Tuyền (Cần Thơ), Túy Loan, Phong Nam (Đà Nẵng),...Trên mộ
cụ họa sĩ Lê Văn Miến ở Ấp Trường trên bờ sông Ô Lâu
có câu đối
Phước
Tích phong long thiên tướng cát
Trường An song
uất địa chung linh
nghĩa là
Làng Phước
Tích đẹp tươi, trời giúp người tốt
Xóm Trường An
sầm uất, đất đúc khí thiêng.
Làng cổ Phước Tích
là một tài sản vô giá về văn hóa. Các nhà nghiên cứu văn
hóa, kiến trúc, dân tộc học... đã tìm thấy ở đây những
dẫn chứng biểu lộ lịch sử văn hóa, kiến trúc Huế, văn
hóa Việt Nam. Tôi tin là các nhà cầm quyền đang ra sức tìm
mọi cách để bảo tồn những nét kiến trúc phục vụ sự
nghiệp phát triển quê hương, đồng thời nâng cao đồ gốm
Phước Tích thành thương hiệu nổi tiếng trên thị trường.
Thành
Xô mừng xuân Bính Thân
Hôm về thăm
nơi mình hằng sống,
Đứng ngậm
ngùi hồn thả theo sông,
Tôi lặng nhìn
Ô Lâu bất khuất
Âm thầm cuộn
lãnh đạm xuôi dòng
VQY (Nhớ thôn
Mỹ)
|
 |
Cùng tác giả
1-Võ Quang Yến,
Một
thời tuổi trẻ trên bờ Ô Lâu, Tạp chí Sông Hương, chủ
đề" Tôi đi học " trong ký ức học trò xưa, 12.2011 ; Diễn
Đàn Forum (diendan.org) 12.12.2011
2- Võ Quang Yến,
Lỗ
tai vàng làng Mỹ Cang, Nhớ Huế 23, Huế Làng Xưa
2004 ; trong Gửi thương về Huế, Tập IV, Chim Việt Cành Nam
(chimviet.free.fr) 50 10.03.2013.
3- Võ Quang Yến,
Hai
di tích Chăm ở Thừa Thiên Huế, Nghiên cứu Huế
6 2008
; trong Gửi thương về Huế, Tập V, Chim Việt Cành Nam (chimviet.free.fr)
51
10.05.2013
Đọc thêm
- Bài nầy sử dụng
tài liệu và trích dẫn hình ảnh trong cuốn sách của Hội
kiến trúc sư Việt Nam – Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa
Thiên Huế, Làng di sản Phước Tích, Huế. tháng 12.2004.
Xin cảm ơn anh Đỗ Hữu Hà đã có lời đề tặng và anh Nguyễn
Thế đã tận tụy hướng dẫn tôi tham quan huyện Phong Điền
cùng các di tích Cham Pa. Tôi cũng xin thắp nén hương kính dâng
hương hồn nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (tác giả bài Chuyện
cái lu sành trong Nhớ Huế, Huế Xuân, 2007), người
đứng trong hình nhìn tôi nằm chụp ảnh, đã vui vẻ chia sẻ
cảm hứng với chúng tôi trên con đường hành hương.
- Lê Phi Tân, Đi
tìm dấu tích Cham Pa bên dòng Ô Lâu, thethaovanhoa.vn 05.03.2009
- Đoàn Hằng, Hồn
quê trong gốm Phước Tich, GiaLaiOnline 4.10.2001
- BT, Bảo tồn
làng cổ Phước Tíchdisanxanh.vn 01.2015
- Tuyết Khoa, Làng
cổ Phước Tích - Sống bằng chữ nghĩa, thanhnien.com vn
14.04.2015
- Thùy Trang, Làng
gốm cổ Phước Tích, ashui.com. 14.04.2015
- Hoa Anh Đào, Cuộc
xung đột Việt Chiêm trong tiến trình lịch sứ dân tộc,
nghiencuulichsu.com 30.09.2015
Chim Việt Cành Nam
62
15.02.2016
|