Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui
Ca dao xứ Huế
Thời
Thuộc địa, một công chức người Pháp ở Huế, ông Edmond
Gras, chịu khó đi tìm xem cầu ngói Thanh Toàn (cầu mái ngói)
cách xa thành phố khoảng 10km. Ông đi ngựa cùng với một
viên chức địa phương, mất một buổi chiểu mà tìm không
ra. Tuy nhiên ông nhí nhảnh thuật lại trong tờ Đô thành Hiếu
cổ BAVH (1917) cuộc hành trình thú vị. Trời hè nóng nhưng
mát nhờ con đường đầy bóng uốn khúc trên bờ mương, lên
xuống mỗi khi qua chiếc cầu tre lắc lư dưới chân ngựa.
Hai bên đường, làng xóm kín đáo núp mình sau các dãy hàng
rào cao dày, những ngôi chùa hiu quạnh yên tĩnh dưới bóng
cây tối sẩm. Thỉnh thoảng một lỗ trống trong bụi tre xanh
để lộ ra một sân nhà quét dọn sạch sẽ quanh đống rơm
xây đắp tươm tất, đàn gà con ríu rít bíu chân mẹ, chú
heo đen kêu en éc trong rọ mây. Trong một kiệt nhỏ, mùi hương
thơm hoa sứ ngào ngạt như để át mùi phân trâu, phân bò.
Một cậu bé trần truồng bất thình lình thấy chúng tôi,
lấy roi đập đẩy đàn trâu sang môt bên như để dọn đường
rồi nhảy xuống mương...Nhưng chiếc cầu thì vẫn không tìm
ra vì như tuồng người dẫn đường cũng chưa khi nào lại
viếng cầu ! Trời tối dần, cả hai lấy đò trở về. Trên
nền trời đen thẩm, những đám cháy nhắc ông Edmond Gras nhớ
đến những ngọn lửa Saint-Jacques ở quê Provence xa xăm
của ông. Thì ra người nào đi xa cũng luôn ấp ủ trong lòng
hình bóng quê hương của mình. Ông đã trờ lại Thanh Toàn
với cha Leopold Cadière, tổng biên tập tờ BAVH, lần nầy đi
xe kéo và thấy được cầu. Thì ra cầu có thật : cột gỗ
dài cao trên mặt nước, lợp mái ngói tráng men, hình cong trông
từ xa như một con rồng uống lưng. Trên cầu, những người
rảnh rang dạo lượn chân không, học sinh đua thử thăng bằng
trên các rầm kèo,...Ông không quên vẽ một bức tranh minh
họa bài báo trong tương lai.

Cũng trong cùng tờ báo BAVH còn có hai bài viết
về chiếc cầu Thanh Toàn của ông Công sứ Richard Orband, quan
chức hành chính dân sự (cùng năm 1917) và của ông Hippolyte
Lebreton Hiệu trương trường Quốc học, mười sáu năm sau
(1933). Cả hai tác giả nầy đều cỏ miêu tả tỉ mỉ con
đường từ Huế về cầu, kiến trúc cây cầu đồng thời
lượt thuật lịch sử một kiệt tác hiếm có. Ở miền Trung,
hai chiếc cẩu có lối kiến trúc đặc biệt và giá trị nghệ
thuật cao nhất Việt Nam là cầu Nhật Bản tức Chùa Cầu
ở Hội An (lúc bấy giờ gọi Faifo) và cầu Thanh Toàn cạnh
Huế. Cầu ngói Thanh Toàn có cầu kết thượng gia hạ kiều
(trên nhà dưới cầu), là một tác phẩm kiến trúc nhỏ nhắn
dài 16,85m (43 thước mộc), rộng 4,63m (14 thước mộc), gồm
có bảy gian, gian giữa dùng để thờ cúng. Hệ thống trụ
đỡ sắp thành ba hàng, có chung một khối mộng để chống
lún. Mỗi hàng có trụ bằng đá, sáu cột. Hai đầu là hai
mố cầu, trang bị bảy hệ thống thống thoát nước. Hệ
thống trụ đỡ nối liền các đầu mối cầu. Các thanh bê
tông chay dọc từ hai đầu vào giữa dốc dần lên đến gần
gian giữa thì nằm ngang. Tư thế nầy khiến cả mặt cầu
lẫn mái cầu trông như gãy khúc, nâng cổng giữa lên cao tạo
một hình dáng duyên dáng, khỏe mạnh, đồng thời giúp ghe
thuyền qua lại dễ dàng. Trên cầu, các hệ thống trụ cầu
có dầm gỗ bắc ngang thành cơ sở dựng cột làm khung nhà.
Mỗi vi có bốn hàng cột, giữa hai cột là lòng cầu làm lối
đi lại. Từ hai bên cột cái trở ra là cột hiên nâng
lên cao làm chỗ hóng mát. Bên ngoài có lan can chấn song để
ngồi khỏi ngã. Mọi phần đều thông thoáng, chỉ có phần
sườn cầu làm bàn thờ thì bịt kín. Các hệ thống xà thượng,
xà hạ đều sắp xếp theo lối xà kép, xà trên nằm trên
đầu cột, xà dưới di chuyển qua mộng cột. Các bộ phận
kiến trúc đều bằng gỗ, nhưng không chạm khắc hay trang
trí mà chỉ gồm hai loại tiết diện tròn và vuông. Các nghệ
nhân đã chạm khắc hình con vật với chủ đề tứ linh ở
bộ mái cây cầu : long lân quy phụng. Về trang trí, trước
đó chỉ có con giao long, sau này nhường chỗ cho con rồng ở
hai đầu và đôi phượng chầu mặt trời ở giữa.


Sử sách ghi làng cũ mang tên Thanh Toàn từ hồi
12 vị tộc trưởng khai canh thế kỷ XVI. Những vị nầy phần
lớn là người Việt quê gốc Thanh Hỏa theo chúa Nguyễn Hoàng
vào Thuận Hóa (có tài liệu cho là chậm hơn), nhưng cũng có
người Chăm đã sống tại chỗ từ trước. Cũng có thể hai
dân tộc sống chung đụng với nhau, ngay cả trong cùng một
tộc. Qua thời Thiệu Trị (1841-1847) chữ Hoàng là tên húy
( ?) nên làng đổi tên thành Thanh Thủy. Làng đông người
nên chia ra hai : Thanh Thủy Chánh và Thanh Thủy Thượng, tên
giữ nguyên vẹn cho đến nay. Cầu ngói Thanh Toàn nằm ở làng
Thanh Thủy Chánh thuộc xã Thủy Thanh, hượng Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Lịch sử cầu dính liền với tiểu
sử bà Trần Thị Đạo. Bà người làng Thanh Thủy, cháu sáu
đời một trong 12 vị khai canh làng. là vợ của Khâm sai,
Chủ sự Hoàng cung, Tổng chỉ huy bộ binh và thủy binh, Tổng
đốc của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền, Tứ
Xuyên Hầu Phan Trọng Phiên, Nhất trụ triều đình. Vào
thời nhà Trịnh đánh chiếm Phú Xuân, Bà theo chồng ra bắc,
nhưng được một thời gian bà trở về bản quán sinh sống.
Bà không ngần ngại vượt qua bao mệt nhọc để theo đuổi
cuộc hành trình cùng với đoàn của vua. Bà đã dũng cảm
làm trọn ba nhiệm vụ của phái nữ. Bà còn để lại cho
làng bà nhiều ân huệ mà người ta cần lưu niệm .Làng
Thanh Thủy có một con mương chảy qua, thường hằng ngày dân
địa phương phải dùng thuyền, không thì mất thì giờ đợi
đò ngang, rất vất vả khi trời đông giá, rét mướt. Mang
một bụng dạ thương người, tấm lòng đức độ, thấu hiểu
nỗi khó nhọc của người dân quê, bà bỏ tiền túi thuê
làm chiếc cầu có mái lợp phòng khi trời mưa gió, cũng là
nơi dừng chân của khách bộ hành tìm bóng mát những ngày
nắng nóng. Bà không dè cầu lại là nơi ngắm trăng, hóng
gió. Tuy cầu được cấu trúc như một ngôi nhà bình thường
nhưng lại là một ngôi nhà ấm áp khi đông về và mát mẻ
khi nắng lên. Cầu cũng là nơi dạt dào tình thương nên trai
thanh gái lịch trong vùng lại ca hát, giao duyên, hẹn hò, tình
tứ. Ở hai lối vào cầu có hai hàng câu đối chữ Hán được
khắc lên trên cầu, nhưng thời gian làm hao mòn nên khó tìm
ra câu nguyên vẹn: Kiệt cấu thiên thu truyền thắng tích,
ngỏa
kiều thắng cảnh cựu quy mô. Tạm dịch : Kiệt tác kiến
trúc này là một di tích lưu truyền mãi nghìn năm sau, cầu
ngói là một thắng cảnh làm theo quy mô cũ. Còn có câu: Tế
xuyên mâu bửu phiệt, thanh thủy thắng hồng lâu. Tạm
dịch : Qua sông là bè quý, nghỉ mát ấy gác son.


Căn cứ vào tờ Sắc của vua Lê Hiển Tông niên
hiệu Cảnh Hưng thứ 7 thì cầu được xây vào năm 1776. Theo
sử sách năm 1925 ghi lại thì vua Khải
Định đã ban tặng cho bà Trần Thị Đạo tước vị
"Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù". Vua còn hạ lệnh cho dân làng
lập bàn thờ trên cầu để thờ bà và mong bà phù hộ độ
trì cho dân làng. Bên phần dân làng cũng không nề hà và lại
sinh hoạt quanh cầu. Phía chân cầu là một vùng đất rộng,
người ta đến đây để vui chơi và họp chợ. Giữa vùng
đất còn có một cái đình không biết xây từ bao giờ, giao
lưu buôn bán cũng không ai rõ từ hồi nào. Người xưa kể
lại chợ trước đây không lớn như bây giờ, buôn bán chỉ
có những mặt hàng rất nhỏ như mớ rau, mớ cá, trái cau,
lá trầu... Riêng tôi còn thấy trẻ chăn trâu, người đánh
cá, hai bà già ngồi cạnh cầu bán cau trầu, thuốc lá trước
khi có hội hè đình đám. Trong rất lâu, người dân đánh
cá, bắt cua đưa đến đây trao đổi với nhau qua thời gian
tạo nên cái chợ làng. Dần dần đời sống phát triển, các
mặt hàng xuất hiện ngày càng đa dạng hơn, hình thức buôn
bán cũng trở nên to lớn hơn. Nhưng chợ luôn tự nhiên giới
hạn và luôn còn mang nét quê Việt Nam. Chính vì mang đậm
nét bản thể thôn dã cho nên nơi đây được chọn làm hội
chợ quê, vào những ngày lễ hội trong thời kỳ festival Huế.
Cần phải nhận định, như việc mở mang cần thiết phố
xá ngoại ô thành phố, cái bản sắc làng quê căn bản cuộc
phát triển liệu rồi có bị hao mòn tiêu biến không. Ngoài
lễ hội chợ quê hai năm một lần thì vào ngày mồng ba tết
nguyên đán hàng năm, nơi đây còn tổ chức cuộc đánh bài
chòi. Đây là một trò chơi dân gian xưa mang đậm bản sắc
và văn hóa người Việt Nam. Ngoài ra còn có một đám lễ
nữa cũng được tổ chức linh đình không kém vào ngày rằm
tháng tám, theo người dân địa phương thì là ngày giỗ của
bà Trần Thị Đạo. Họ rước bà từ đình ra cầu cúng lễ,
rồi lại rước bà trở lại đình. Sau lễ,
các trò chơi cho nhân dân trong làng như ca hát, hò giả gạo,
đua thuyền trên mương và kéo co được tồ
chức, gây thư giản cho dân quê suốt năm cặm cụi công việc.đồng
án.


Hình ảnh thanh bình quanh
cầu trước thời rộn rịp Festival
Một nhà thơ địa phương đã cảm hứng làm
bài thơ ca ngợi công đức của bà Trần Thị Đạo và khắc
lên cầu.
Trần Thị phu nhân xã chúng ta
Tiếng tăm vang dội khắp gần xa
Cúng đâng ruộng đất dân cày cấy
Xây đắp cầu kiều khách lại qua
Khăn yếm khoe khoan ngời khí tiết
Phấn son tô điểm rạng sơn hà
Sắc phong ân tứ ngời công đức
Hương khói nghìn thu kỉ niệm bà.
Tranh E. Gras
Thành Xô xuân
2017
|
|
(*) ảnh chụp năm 1989, sao
lại từ ảnh giấy và lấy trên internet
Đọc thêm
- Bùi Đẹp, Cầu ngói
Thanh Toàn, newvietart.com 24.02.2011
- Trần Tiến Ðạt, Nét đẹp kiến trúc giữ
miền quê Thanh Thủy, hoangphap.info 07.03.2011
- Thanh Tâm (Hà Tĩnh),Về
thăm Cầu ngói Thanh Toàn, tuoitre.vn 15.04.2012
- Châu Giang, Ðộc đáo cầu ngói Thanh Toàn,
15.05.2012
- Web du lịch Huế, Ðộc đáo cầu ngói Thanh
Toàn, webdulichhue.com 21.04.2013
- Vũ Hảo (Thể thao Tp Hồ ChíMinh), Cầu ngói
Thanh Toàn, hue.vn.vn 21.04.2013
- Trần Viết Ðiền, Bà Trần Thị Đạo có
công lớn xây cầu ngói Thanh Toàn, là phu nhân của Tứ Xuyên
Hầu Phan Trọng Phiên, tapchisonghuong.com 19.10.2015
- Võ Quê, Ai về cầu ngói Thanh Toàn,
Tác
phẩm văn voque.org
Chim Việt Cành Nam 68 01.10.2017