Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng
phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Nam Trân

Vào cuối thế kỷ XIX- đầu XX, Nguyễn Phúc
Bửu Lân (1879-1954), con vua Dục Ðức và bà Từ Minh Hoàng hậu
Phan Thị Điểu, nhờ khôn khéo của thông ngôn Diệp Văn Cương
cạnh khâm sứ Rheinart được đưa lên ngôi vua lấy hiệu Thành
Thái, Hoàng đế thứ 10 triều Nguyễn (1889-1907) lúc 10 tuổi.
Ông là một nhà vua được đánh giá là người cầu tiến,
yêu nước và vì chống Pháp, từng bị chính phủ bảo hộ
quản thúc ở Vũng Tàu, rồi đày sang đảo La Réunion 31 năm
(1916-1947) đồng thời với con là vua Duy Tân. Ngày còn tại
vị, Ngài rất bình dân, gần gũi dân chúng, không ngần ngại
cải dạng rởi hoàng cung ra ngoài thành dạo chơi trong dân
gian, vui vẻ chuyện trò với thường dân. Để qua sông Hương,
Ngài phải lấy đò vì cầu Thành Thái tức cầu Trường Tiền
khá xa Kim Long và đi đò có cái thú đặc biệt của nó, nhất
là cho một ông vua ngày ngày như bị cầm giữ trong cung cấm.
Thế là Ngài bước lên đò chùng chình suýt té nhưng đôi
má ửng hồng như cánh sen, dáng bộ tha thướt yêu kiều, quý
phái của cô lái đò tuổi đôi mươi không ngớt quyến rũ
cặp mắt liến thoắng của chàng trai. Tuy quen cách đối xứ
với các công nương trong nội, lòng xao xuyến, Ngài không khỏi
thẹn thùng trước điệu bộ của cô gái quê mộc mạc và
đánh bạo thổ lộ tâm tư của mình qua một câu hỏi bâng
quơ như trò chơi, không chờ đơi một câu trả lời nào :
Nì
o tê, có ưng lấy vua không, (Cô kia, có muốn lấy vua không
?) tôi sẽ làm mối cho o ! Sau giây phút ngỡ ngàng trước
câu hỏi thình lình, thảng thắn, nói chơi của người lạ
mặt qua đường, cô gái ngại ngùng mặt càng đỏ thêm, rồi
lễ phép cúi đầu lẩm bẩm để cho qua chuyện, không có chút
nghiêm nghị : Đừng nói bậy, vua
đem
chém đầu. Thấy cô gái thật thà, đáng yêu, Ngài khuyến
khích cứ bằng lòng đi để xem ra sao, cô gái đánh bạo trả
lời : Dạ ưng ! (đồng ý) rồi phá lên cười, để
lộ một hàm răng đen lánh khêu gợi. Lập tức chàng trai ra
dành lấy mái chèo : Rứa thì để Trẩm chèo đưa quý phi
về cung ! Thế là vua đưa cô về bến Nghinh Lương ở Phu
Văn Lâu, vào Đại nội, đi dạo vườn Thượng uyển ...như
trong một giấc mơ. Không biết chuyện thực hư ra sao nhưng
những cô gái Huế lãng mạn thường thích kể lại như một
giấc mơ thần tiên.
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ, trẫm liều trẫm
đi...
 
Ðể sinh sản những cô gái vui tính và dễ thương
như vậy, đất Kim Long ắt phải có địa hình tốt đẹp mà
chúa Nguyễn Phúc Chu tức chúa Thượng cảm thấy và, sau Ái
Tử (1558-1570), Trà Bát (1570-1600), Dinh Cát (1600-1626), Phước
Yên (1626-1636) là những nơi các vị tiền bối đã đóng đô,
năm 1636 cho dời kinh đô đến đó. Kim Long trở thành thủ
phủ đầu tiên của các chúa Nguyễn, tọa lac trên tả ngạn
sông Hương, đối chiếu với đồi Long Thọ bên kia hữu ngạn.
Thế đồi nầy được cho là đặc thù phong thủy khóa
giữ thượng lưu sông Hương và được các nhà địa
lý gọi là kiểu đồi thiên quan địa trục, nghĩa là
trổ cửa lên trời và là trục xoay của các vùng đất (Ðại
Nam nhất thống chí). Ðứng từ kinh thành Huế nhìn theo
ngược dòng sông lên nguồn dưới chân trời, khách ngắm đồi
núi tiếp nhau từng dãy, màu sắc thay đổi tùy nắng mưa,
khi xanh đậm, khi xanh lạt trông như bức tranh sơn thủy bốn
mùa. Hai bên sông, hai ngọn đồi mạnh dan vững chân án ngữ:
một
bên là ngọn đồi Thiên Mụ (Hà Khê) với tháp Phước Duyên,
bảy tầng ngất ngưỡng như chọc thủng trời xanh để đưa
xuống những nguồn phúc lộc, và bên kia hữu ngạn là mô
đất Long Thọ, trường sinh bất tử. Mô đất này cũng có
những đặc tính nhiệm màu kỳ lạ mà sau này các thầy địa
lý của triều đình Việt Nam cũng công nhận. Vì nó án ngữ
nguồn chảy của sông Hương, tưởng như nó đang gối đầu
lên dòng nước và nghiêng nghiêng đối diện với đồi Thiên
Mụ tạo thành một thế phong thủy gọi là cánh cửa thông
thiên và trục xe địa phủ (Ðỗ Trinh Huệ dịch). Núi
và sông ôm lấy nhau để tạo nên cảnh trí thơ mộng như
cụ Tả Ao giải thích trong sách địa lý gia truyền : có núi
mà không có nước là cô sơn, ngược lại có nước
mà không có núi sẽ thành cô thủy (Hữu sơn vô thủy,
vị chi cô sơn, Hữu thủy vô sơn, vị chi cô thủy).Tốt
nhất vừa có núi vừa có sông nước liền nhau để núi nghênh
thủy (sơn cố thủy) và thủy in bóng núi (thủy cố
sơn) mới thật là đất tốt (dung kết chi địa dã).
 
Vua Thành Thái với anh em
và hai thứ phi Giai Triệu, Chi Lạc
Vậy Kim Long có đủ yếu tố sơn thủy
như cụ Tả Ao nêu. Mà thủy ở đây đủ thế tĩnh
và tụ nên sinh ra người trong vùng thanh lịch, giàu có
(thủy
tĩnh nhân tú, thủy tụ nhân phú) khác với chỗ nước
xoáy xô bồ ào ạt, hoặc nước chảy rì rào như tiếng khóc
tỉ tê suốt ngày sẽ sinh ra kẻ bần tiện, đói nghèo
(thủy
trọc nhân mê, thủy khứ nhân bần). Thật vậy, đây là
đất Kim Long từ khi trở thành thủ phủ. Sau này, khi dời
về Phú Xuân (cũng nằm bên tả ngạn sông Hương), Kim Long
chỉ còn để lại các tên đất gợi nhớ thời lập phủ
như: Thượng Dinh, Trung Dinh, Hạ Dinh, Cồn Kho, Mô Súng, vườn
Nghênh Hôn ... và các hậu duệ ông hoàng bà chúa làm nhà thờ,
lập vườn hoa trái thành một vùng ngoại ô xinh đẹp. Tại
đây, vua Thành Thái đã đến góp một trang tình sử. Kim
Luông dãy dọc tòa ngang. Em chèo một chiếc thuyền nan về
Sình. Đôi lứa mình lỡ hẹn ba sinh. Có mần răng đi nữa
cũng hãy trọn tình với nhau. Dãy dọc tòa ngang nhắc nhở
thời Kim Long thủ phủ của các chúa Nguyễn. Nhưng thủ phủ
không chỉ là nơi giao lưu văn hóa mà còn là trung tâm hành
chính, quân sự đất Nam Hà. Nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes,
tác giả cuốn tự điển Việt-Bồ-La, mô tả quang cảnh Kim
Long như một thành phố lớn, đông đúc dân cư, nhà
cửa, phố xá, chợ búa, bến nước và buổi lễ đón tiếp
những người Tây Ban Nha, những nữ tu và bản thân ông vào
một buổi chiều tháng 2.1645 bên bờ sông Hương. Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan mời Alexandre de Rhodes và những người trong
đoàn bữa tiệc theo cung cách cung đình với rất nhiều món
ăn sang trọng. Yến tiệc được bày ra với các vũ nữ Kim
Long vây quanh biểu diễn các điệu múa điêu luyện khiến
những người Tây Ban Nha có mặt phải trầm trồ khen ngợi.
Ðến khi trời sập tối, chúa ra lệnh thắp đuốc sáng rực
khắp dinh. Sau đó, chúa đã cho diễu binh trên bộ với khoảng
6000 binh lính và dân chúng tham gia đi rợp cả Kim Long, cùng
lúc dưới nước 20 chiến thuyền tập trận trông rất ngoạn
mục.

Cô lái đò Kim Long vào nội cung, làm quí phi của
Vua Thành Thái. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, đây chỉ
là giai thoại do dân gian tạo ra chứ kỳ thực, vua Thành Thái
mê muội một kiều nữ đất Kim Long con gái út của Vĩnh Quốc
Công Nguyễn Hữu Ðộ. Bà tên Nguyễn Hữu Thị Nga, sau này
được nhà vua đưa vào cung, phong làm huyền phi, sinh hạ được
hai người con... Còn có một bà phi nữa được nói đến nhiều
là bà Dương Thị Ngọt được xếp vào bậc cửu giai tài
nhân tưc là bậc cuối cùng trong số 9 bậc. Bà Dương Thị
Ngọt là con gái ông Dương Quang Xứng, một vị quan trải qua
nhiều đời vua triều Nguyễn. Cùng với con đường thăng tiến
của ông Xứng, đến chức Bố chính tỉnh Khánh Hoà, bà Ngọt
từ một cô thôn nữ quê mùa bỗng trở thành một bà trong
cung cấm là chuyện dễ hiểu nhưng bà có một số phận hết
sức bi đát, sinh ra bên dòng sông mối tình sử Ô Lâu.
Theo lời kể cua một người cháu, vua Thành Thái không để
tóc dài như các vua khác mà đã cắt tóc ngắn. Một hôm, sau
khi đã cắt tóc xong, vua dạo một lượt qua các bà phi, hỏi
xem có đẹp không. Bà nào cũng khen đầu vua đẹp. Chỉ riêng
bà Ngọt đã không khen lại còn buột miệng bảo: Trông
giống như kẻ cướp ấy. Mất thể diện, vua nổi giận,
liền buộc tội xử trảm bà Ngọt. Dù vậy vua vẫn lo cho
lễ mai táng bà chu đáo, theo đúng nghi thức xứng với một
bà
vua. Đám tang bà Ngọt được
đưa từ Huế về Quảng Trị bằng đò theo đường
sông Ô Lâu, về cập bến chợ Hôm, huyện Phong Điền, Thừa
Thiên Huế. Từ chợ Hôm, người ta gánh bộ quan tài
bà Ngọt đi trên chiếu hoa rải cho đến tận thôn Hội Kỳ,
bên kia sông Ô Lâu là thôn Mỹ Cang làng ngoại của mạ tôi.
Chi phí mai táng, xây dựng lăng tẩm, nhà vua chịu hết. Vua
còn cấp cho 4 người từ phu coi lăng, mỗi người được cấp
3 sào ruộng miễn thuế và ngoài ra còn được miễn các thứ
sưu dịch. Bia mộ trong lăng của bà đặt tại thôn Hội Kỳ,
Hải Chánh đã ghi rõ tên thụy của bà là Thục Thuận.

Sau cùng vua Thành Thái còn có hai bà thứ phi sống
với ông suốt thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion, cũng
như những năm cuối đời ở Sài Gòn. Đó là bà Giai Triệu
và bà Chi Lạc. Bà Giai Triệu là mẹ của Hoàng nam Vĩnh Chương.
Theo huyết thống thì ông phải gọi hai bà là cô. Hai bà có
tên thật Công Tằng Tôn Nữ Nhàn và Công Tằng Tôn Nữ Mừng,
chắt nội của tiên đế Minh Mạng. Trong hoàng tộc, vị thế
của hai bà sánh ngang với bên nam giới có chữ lót Ưng. Theo
một số ghi chép, để hợp pháp hóa cuộc hôn nhân cô cháu
này, hai bà phải đổi sang họ Hồ rồi cuối cùng là họ
Nguyễn Công. Bia mộ của hai bà hiện nay ở An Lăng cũng được
khắc với họ Nguyễn Công. Hai bà đã chung sống và tận
tụy với Thành Thái suốt thời gian bị lưu đày ở đảo
Réunion nên được cựu hoàng yêu mến. Trong thời gian ở đảo
Réunion, bà Giai Triệu sinh thêm Vĩnh Giêu. Còn bà Chí Lạc
sinh cho cựu hoàng 5 con trai: Vĩnh Lưu, Vĩnh Quỳnh, Vĩnh Khôi,
Vĩnh Giu, Vĩnh Cầu. Chuyện kết hôn trong nội tộc làm ta liên
tưởng đến chế độ hôn nhân bảo thủ, phản động thời
Trần do lo sợ ngoại thích, nhưng ở triều Nguyễn, tình huống
hi hữu này đã xảy ra dưới thời ThànhThái...Dù hậu cung
không hùng hậu như thời Minh Mạng, nhưng chuyện các bà vợ
của vua Thành Thái cũng phát sinh thật nhiều giai thoại! Đó
có thể là những cái kết bi ai của chốn hậu cung cay độc,
cũng có thể là câu chuyện dân gian nhẹ nhàng và có hậu,
đi vào lòng người bước qua thăng trầm lịch sử...
 
Thành Thái là một nhà vua ham học, cả chữ Nho
lẫn chữ Pháp, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, lái xe hơi,...nói
chung sống trong bầu văn minh phương Tây. Không ưa xu nịnh,
ông bị thực dân Pháp nghi ngại như khi cậy họa sĩ Lê Văn
Miến vẽ hình mẫu các khẩu súng. Lúc rảnh rổi Ngài thích
dạo chơi, về sau muốn tận mắt chứng kiên cuộc sống của
nhân dân, đồng thời xem mặt những giai nhân có tiếng trong
vùng. có khi cải trang thành thư sinh hay nhà sư khất thực.
Theo truyền thuyết, Ngài chiêu nạp được 4 đội binh nữ,
mỗi đội 50 cô. Sau khi luyện tập quân sự thành thục, 50
nữ binh ấy được giao trả về gia đình, đợi khi cần thì
nhập ngũ chống Pháp, sau đó tuyển thêm 50 nữ binh mới. Người
ta cũng còn kể chuyện vua có cách tuyển binh rất đặc biệt.
Ông thường đích thân mang ngự lâm quân ra khỏi hoàng thành,
đến những nơi có phụ nữ đẹp đưa họ về cung, sau một
thời gian lại thả về nhà. Những cô gái đó được nhà
vua tổ chức thành đội quân tóc dài. Nhà vua tự bỏ tiền
ra lo chi phí, ăn ở cho đội nữ binh, cho ăn mặc áo quần
theo kiểu riêng và hàng ngày chăm lo luyện tập võ nghệ. Việc
tuyển mộ và huấn luyện được tổ chức bí mật. Ðể cho
chắc chắn, Ngài cho lính cận vệ thân tín đến tiếp xúc
họ và gia đình. Nếu được chấp thuận, vua cho dàn cảnh
bắt cóc, chỉ định hẹn ngày giờ và địa điểm gặp gỡ,
rồi lính cận vệ, hoặc chính nhà vua đem xe song mã đến
đón đưa vào cung cấm. Cũng để bảo mật, các cô gái gọi
là bị bắt cóc thường được đưa vào cung bằng cửa Hữu
của Thành nội, gần làng Kim Long. Con đường chạy dọc theo
bên ngoài Hoàng thành dẫn đến cửa Hữu rất vắng vẻ vào
ban đêm, hai bên đường lại không có nhà cửa của dân chúng.
Vua còn ngụy trang cho tổ chức ở Đại nội các chợ bán
vải do các nữ binh ấy dệt trong cung. Một mặt, nhà vua dễ
dàng lừa thực dân, mặt khác để cho nữ binh có công việc,
trang trải chi phí.

Những hành động khả nghi của nhà vua không qua
mắt Thượng thư bộ Lại Trương Như Cương thường xuyên
mật tấu lên Tòa khâm sứ. Lấy cớ Ngài không chịu phê chuẩn
những đề nghị thăng quan một số tay sai, khâm sứ thấy
phải hạ bệ nhà vua, bảo Thành Thái mắc bệnh điên, buộc
phải thoái vi, tước quyền phê chuẩn, giao lại cho Hội đồng
Thượng Thư: hai chính phủ đã quyết định như vậy để
bảo vệ lợi ích của quốc gia, cũng như chính bản thân nhà
vua! Biết trước sẽ thua cuộc, ngày 02.09.1907 Ngài thản
nhiên phê chuẩn vào chiếu thoái vị rồi từ bỏ ngai vàng
ra đi. Từ đây, Ngài khuây khỏa nổi buồn ở chốn Kim Long,
từ ngày hết còn thủ phủ vùng trở nên đất hứa cho việc
an cư sinh tư thất của các hoàng tử, công chúa, công thần,
khanh tướng. Kim Long một vùng đất quyền quý nổi danh với
những vườn phủ đệ và sinh thành nhiều giai nhân, vẫn
còn bảo lưu hàng chục vườn phủ đệ có kiến trúc
nghệ thuật độc đáo như: Phủ Ðức Quốc Công, Cẩm
Xuyên quận vương, Diên phúc trưởng công chúa, Khoái Châu
quận công... và nhiều nhà vườn của các gia đình danh
gia vọng tộc như An Hiên, Thường Lạc Viên, Xuân Viên Tiểu
Cung, Tĩnh Dật Cơ, Phú Mộng Viên... Những
ngôi nhà vườn ở Kim Long thể hiện sự kết hợp giữa kiến
trúc (ngôi nhà) và cảnh quan (khu vườn) một cách dụng ý
tạo thành một không gian sống theo tính cách Huế với những
yếu tố tuân theo quy luật phong thủy, bao gồm cổng
ngõ, hàng rào, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà chính,
nhà phụ và vườn. Có thể nói kiến trúc nhà vườn Kim
Long giống như một Kinh thành Huế thu nhỏ, với bình phong
thay núi Ngự, bể nước thế dòng sông Hương, hòn non bộ,
hang động, thác nước, các loại cây cảnh, hoa và cây ăn
quả... mang nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc.
 
Từ những giá trị độc đáo về mặt kiến trúc
nghệ thuật, lịch sử văn hóa của hệ thống nhà vườn Kim
Long, chính quyền địa phương đã và đang thiết kế những
mô hình khai thác sản phẩm du lịch nhà vườn một cách có
hiệu quả, đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái cộng
đồng, hứa hẹn sẽ là những điểm đến lý tưởng với
du khách trong nước và quốc tế. Ngoài việc chuẩn bị chỗ
ăn, ngủ chu đáo, du khách sẽ ở chung và sinh hoạt chung với
người dân địa phương như thành viên trong gia đình, thông
qua những hoạt động cộng đồng đó để trải nghiệm các
giá trị sống và văn hóa làng cổ Kim Long. Vườn hợp thể
với kiến trúc, che bớt những đường nét khô cứng, hạn
chế của công trình, tạo nên sự hòa hợp với cảnh quan
thiên nhiên. Nét đặc trưng của nhà vườn Kim Long là tính
pha tạp, đa chủng loại một cách có tính toán với các hệ
cây trồng phù hợp với điều kiện khí hậu xứ Huế với
những loài rau có thể sử dụng chế biến các món canh giàu
chất dinh dưỡng trong các bữa cơm gia đình; những cây hoa
phục vụ cho các buỗi lễ cúng kỵ diễn ra thường kỳ tại
nhà vườn; hoa lấy hương; cây dược liệu để trị bệnh
hay làm gia vị; cây cảnh tạo thế, cây ăn trái... Ngoài ra,
gia chủ cũng kết hợp trồng các loại cây lấy gỗ nguyên
liệu xung quanh vườn để tạo bóng mát quanh nhà. Ngày nay,
cho dù diện mạo nhà vườn Kim Long đã có những thay đổi
trong quá trình đô thị hóa, vẫn còn đó những ngôi nhà vườn
danh tiếng hàm chứa biết bao điều kỳ bí cần phải khám
phá, để du khách được cảm nhận một cách trọn vẹn thần
thái, lối sống của người Huế. Nhà vườn ở Kim Long thành
hình do tài năng, trí tuệ và công sức của những người
thợ tài hoa và sử dụng những vật liệu địa phương quý
hiếm, nó không chỉ là thành tựu của sự chọn lọc những
giải pháp tối ưu trong xử lý kỹ thuật mà còn là một tác
phẩm nghệ thuật về kiến trúc đã được đúc kết và hoàn
thiện qua nhiều thế hệ.
Thành Xô
tiết Thanh minh 2019
|
 |
Phần lớn ảnh chụp ở tư thất An Hiên của
bà Lan Hữu
Ðọc thêm
-Những người đàn bà lạ của Vua Thành Thái
– Ngôi sao.Việt Nam ngoisao.vn 24.01.2012
-Chuyện tuyển cung phi khó tin của vua Thành Thái,
Dân Việt danviet.vn 03.03.2014
-Những phi tần có cuộc đời kỳ lạ của vua
Thành Thái Báo Mới, baomoi.com 22.04.2012-
-Giai thoại về hậu cung vua Thành Thái, Lịch
sử Việt Nam lichsunuocvietnam.com 24.05.2016
- Những giai thoại kỳ lạ về các phi tần của
vua Thành Thái,. phunu.vn 26.10.2017
-Minh-Tiên Ngô-Khoa, Chuyện tình vua Thành Thai
với cô lái đò, pham-thang.weebly.com 27.02.2017
-Thứ phi trọng nghĩa trọng tình của vua Thành
Thái - Phụ Nữ VN baomoi.com 20.04.2017
- Ðội quân tóc dài bí ẩn của vua Thành
Thái news.zing.vn 09.12.2017
Chim Việt Cành Nam 74 15.04.2019
|