Con
còng có cái cẳng còn co co
Có
con cua cái có cái càng cong cong....
Lê
Quốc Thắng
(Con
còng con cua)
Cách
đây ít lâu, từ Hà Nội qua Huế vô Sài Gòn, đi đâu cũng
nghe nói đến chuyện trích chiết máu sam làm thuốc và nhiều
bạn nhờ tôi tìm kiếm vốn liếng đầu tư, thị trường
thế giới. Sau đó, ở Viện Biển Nha Trang, chị Lâm Ngọc
Trâm, sau luận án về máu sam, thành lập một nhóm nuôi sam
và nghiên cứu chiết xuất máu làm chế phẩm có hoạt tính
sinh học. Thấy cơ sở nghiêm túc, tôi đã giới thiệu nhóm
chị với hảng buôn thuốc Pháp Amilabo và hai ông Tổng Giám
đốc, Giám đốc kỹ thuật năm 1993 đã cùng tôi về Nha Trang
để thử xây dựng một cuộc hợp tác.
Sam
là con vật gì, hoạt tính máu thế nào mà nhiều phòng thí
nghiệm đua nhau khảo cứu, tìm kiếm phương cách trích chiết
để chế tạo thành thuốc như vậy?
Trừ
phi là người sống ở miền biển, hay có dịp thấy con sam
lẫn lộn với tôm cá mà dân chài thường đánh bắt được,
ít người biết con vật nầy, nếu không là trong chuyện cổ
tích. Có người vợ đợi chồng lâu không thấy về, bèn bỏ
nhà bỏ cửa đi tìm dọc theo bờ biển. Đến chân hòn núi
lớn, mệt quá bà ngủ thiếp đi. Thần Cây thấy bà là người
chung tình, tặng bà viên ngọc quý dặn ngậm vào miệng sẽ
giúp bà ra hải đảo gặp chồng nhưng luôn phải ngậm miệng
để viên ngọc khỏi rơi ra ngoài. Thật bà gặp lại chồng
và cõng chồng vượt biển cả đưa về nhà. Trên đường
mải vui vẻ hàn huyên, bà há miệng lớn, viên ngọc rơi mất.
Hai vợ chồng cũng rơi xuống biển chết đi và hóa thành đôi
sam. Vì vậy ngày nay người ta thường thấy sam cái đèo sam
đực dưới biển. Sam là một con vật sống dưới biển, vì
vậy còn được gọi cua biển, to cở bàn tay, có loại lớn
gấp đôi, gấp ba.
Có
những con trưng bày ở Viện Bảo tàng Vạn vật học Paris
lớn đến 30-40 cm đường kính. Hình thể cốt yếu của nó
là một cái thân trên có hai mai cử động độc lập với
nhau: phần đầu ngực (prosoma) hình móng ngựa, to gấp
đôi phần bụng (opisthosoma) hình thang. Giữa phần bụng
thọc ra một mũi nhọn gọi là gai đuôi (telson), dài
bằng bề rộng thân, mà lúc ban đầu nhiều người không biết
đó là cái sừng hay cái đuôi. Phía trên, ở phần đầu ngực
có đến bốn mắt: cặp lớn ở hai bên, cặp nhỏ nằm chính
giữa. Phía dưới, đằng trước, có sáu cặp phần phụ (appendice):
một cặp ngắn gồm có ba đốt gọi là kìm (chélicère),
từ đấy có tên ngành phụ Chelicerata, và năm cặp dài
vất vưởng; mỗi chân gồm có bảy đốt mà đốt cuối cùng
là một cái kềm để bắt và xé mồi. Cũng ở phía dưới,
đoạn giữa, có bảy cặp phần phụ: một cặp rất ngắn
không cử động được gọi làchelicerum, một cặp có
lỗ ở đằng cuối là cơ quan sinh dục và năm cặp chân mang
dùng làm cơ quan bơi lội, có cặp kèm thêm bộ phận hô hấp.
Người ta thường lẫm con so với con sam, nhất là vói bé sam
vì sam to con hơn, tuy so có tiết diện hình tròn hoặc hình
trúng, không có gai trong khi sam có tiết diện hình tam giác,
ở đỉnh có gai nhọn như lưỡi chua. Khác nhau nữa là so chứa
đựng trong thịt độc tố tetrodotoxin có triệu chứng gây
liệt cơ hô hấp và hạ huyết áp, nấu chín vẫn không bị
tiêu diệt, ăn vào có thể bị ngộ độc, tê môi, đau bụng,
nôn ói, hôn mê, chết được.
Một
con vật kỳ quái như vậy, những nhà vạn vật học đã phát
hiện được nhưng lúc đầu ở thể hoá thạch vì sam đã
sống từ đời thượng cổ, cách đây 500 triệu năm. Bây giờ
sam sống là một mẫu quí báu cho những nhà khảo cứu. Với
một lớp vỏ bằng chitin (tức là một chất trùng hợp những
đơn vị N-acetylglucosamin nối nhau qua một cầu oxy), sam lột
xác theo định kỳ trên dưới một năm (15-16 lần trong 13-14
năm, bắt đầu khi nở từ trứng ra cho đến lúc trưởng thành):
vỏ sam gảy theo đường chia hai phần thân và cơ thể lọt
thoát ra ngoài. Bên trong có đầy đủ các nội quan quanh một
cái bộ xương cũng bằng chitin. Thần kinh hệ cực kỳ giản
yếu điều khiển các hoạt động của cơ thể, từ giác quan
đến các phần phụ. Giác quan thấy rõ nhất là thị giác.
Ngoài bốn mắt đã thấy, còn được phát giác một cặp nhỏ
thứ ba nằm dưới bụng! Theo G. Johansson (1933) thì đây còn
là một cơ quan thính giác. Thật vậy, quanh đôi mắt ấy có
một lớp chitin dày có nhiều lỗ nhỏ mang những sợi tơ cảm
giác. Thính giác còn vận dụng qua nhiều lông cảm giác ở
dưới chân. Bộ phận tiêu hóa là một cơ quan chuyển biến
hóa học và sinh lý học vô cùng phức tạp. Còn hô hấp thì
điều hành qua một cơ quan hoàn hảo nhất so với các động
vật cùng nhóm. Máu sam mang chất hemocyanin (0,173% đồng và
17,3% đạm) nên nhuộm màu xanh chàm (2).
Một
con vật như sam sống lâu trên mặt đất ắt phải trải qua
nhiều biến thái. Đó là một vấn đề nan giäi cho các nhà
vạn vật học khi muốn phân loại các loài sam. Chỉ có một
chuyện đặt tên mà cũng phải mất hơn ba thế kỷ mới tạm
đồng ý với nhau. Người viết sách đầu tiên miêu tả sam
rõ ràng nhất là Charles de l'Ecluse hay Clusius (1605). Vì chỉ
có một mẫu khô lượm được ở đảo Moluques, ông đã lẫn
lộn cho đuôi là cái sừng. Sau đó, Jean de Laet khảo sát một
con sam vớt từ bờ biển Mỹ châu (1633). Ông cho biết là dân
bản xứ, bộ lạc Almouchiquosi, dùng đuôi sam làm tên bắn
và gọi sam là siguoc hay siguenoc. Bắt đầu từ
đây, rất nhiều người chú trọng đến sam, mỗi người miêu
tả mẫu vật mình có trong tay và đặt cho nó một tên khác
nhau: Cancer moluccanus (Oligerus Jacobaeus, 1696), Cancer perversus,
1705), ... Ông nầy cho biết người Mã Lai gọi sam là balanca
và lấy trứng nấu món ăn rất ngon. Ông kể chuyện đứng
trên bờ thấy sam bơi dạo từng cặp, con cái to mạnh đèo
con đực trên lưng (ai bảo làm người sướng hơn?). Để chống
cự, sam dương đuôi vì đầu có mũi nhọn. Engelbert Kaempler
(1777) khảo sát ở Nhật Bản cho biết người xứ Phù Tang
gọi sam là kabutogami hay ilkiu. Ở Âu châu, qua 1756
mới có J.C. Schaeffer miêu tả loài Apus cancriformis, khác
với loài Monocullus apus của Linnaeus. Ông nầy đợi in
lần thứ mười tập Systema naturae
(1758) mới bàn đến
loài Monocullus polyphemus. Còn Gronovius thì đặt tên sam
là Xiphosura (1756-1781).
Trước
bao nhiêu là loài sam với bấy nhiêu tên khác nhau, nhà vạn
vật học trứ danh O.F. Muller đề nghị một tên chung Limulus
cho
tất cả (1). Ngày nay, người ta xếp sam trong ngành
phụ Chelicerata của các động vật ngành Anthropoda
(tức
là ngành động vật có vỏ bằng chitin). Ngành phụ nầy gồm
có ba lớp chính: Merostomata, Arachnida (bò cạp nhện) và
Pyonogonida.
Lớp
chính Merostomata lại chia ra làmhai lớp phụ: Xiphosura
và
Eurypterida.
Trong lớp phụ Xiphosura có ba bộ: Limulida,
Synziphosura
và Aglaspida. Sam bắt được ở bờ biển
Việt Nam là các loài
Tachypleus tridentatus, Carcinoscapius rotundicauda
(tÙc là con so) ÇŠuthuộc bộ Limulida, họ phụ Tachypleinae.
Loài
sam sống cạnh Mã Lai hay trong vịnh Thái Lan là Tachypleus
hoeveni đều cùng thuộc họ phụ Tachypleinae. Bên họ
phụ kia, Xyphosurinae, chỉ có một loài Xiphosur polyphenus
sống cạnh Mỹ châu, ở Đại Tây Dương. Vì vậy, người
Mỹ cũng sớm khảo cứu về con vật lạ lùng nầy. Từ năm
1588, Thomas Hariot đã có nói đến sam. Nhưng phải đợi 300
năm sau (1885), W.H.Howell ở Viện Đại học Johns Hopkins mới
tìm ra một tính chất quan trọng của sam là sự đông máu.
Ba năm sau đó, Phòng Thí nghiệm Sinh học Đại dương (MBL:
Marine Biology Laboratory) được thành lập ở Woods Hole, hướng
mạnh về khảo cứu máu sam, đặc biệt của loài Limulus.
Ngay cả Phân khoa Tài nguyên Đại dương (Marine Resources Department)
của MBL cũng khắc hình con Limulus polyphemus
lên khuôn
dấu của mình. Sau đó, Leo Loeb tiếp tục khảo cứu về việc
tuần hoàn trong cơ thể sam, H.K. Hartline nghiên cứu về thị
giác cùng thần kinh thị giác của sam.
Nhiều
kết quả đã đạt được, nhưng khám phá quan trọng nhất
do Frederic Bang thực hiện là nguyên do sự đông máu của Limulus.
Một
mẫu chiết xuất từ máu sam có khả năng phản ứng với một
số lượng độc tố cực kỳ nhỏ kết hợp với những chứng
bệnh gốc vi trùng gây sốt, gây sốc, có thể dẫn đến chết.
Những độc tố vi trùng, đặc biệt gây sốt, gọi là nội
độc tố (pyrogen, endotoxin). Nói cho đúng, Bang chỉ tiếp tục
những kết quả của MBL từ 1950. Trước đó, ngay ở MBL, người
ta đã khám phá ra được nội độc tố vi trùng gây sốt và
trích chiết hoạt chất của nội độc tố là hypopolysaccharid
(LPS). Nội độc tố là một thành phần màng tế bào của
một số vi trùng thuộc loại Gram âm, nghĩa là khi đem rửa
trong rượu chúng mất sắc tím do iôt nhuộm (theo phương pháp
của bác sĩ người Đan Mạch Hans Christian Joachim Gram (1850-1938).
Phần lớn các vi trùng sống trong nước (mặn hay ngọt, kể
cả nước uống) đều thuộc về loại nầy. Khi vi trùng còn
sống, nó thải độc tố ra khỏi cơ thể; khi nó chết đi,
nội độc tố tụ đọng lại trong nước. Thành thử, khi cần
thiết, nước được chế biến, khử trùng để làm nước
uống hay dùng trong ngành dược liệu, vi trùng đã chết mà
nội độc tố vẫn còn đó. Điếu lạ là sam sống trong một
môi trường đầy vi trùng Gram âm và nội độc tố. Người
ta tìm đo trong một mililit nước có một triệu vi trùng và
trong một gam cát có đến một tỷ con! Rất có thể nhờ sống
chung đụng lâu năm, sam đã được miễn dịch. Cũng nên biết
thêm nội độc tố, đặc biệt hoạt chất LPS là vô cùng
ổn định, bền bỉ. Muốn loại nó ra khỏi nước, phải chưng
cất nhiều lần chứ lọc không đủ. Bình tích trữ nước
cũng cần phải được khử trùng trước.
Trước
đây, muốn biết thuốc có chứa đựng nội độc tố không,
người ta tiêm thuốc vào máu thỏ: thỏ lên cơn sốt, bị
sốc hay chết đi tùy theo số lượng nội độc tố trong thuốc.
Ngày nay, máu sam được dùng để thay thế thỏ vì gặp nội
độc tố thì nó đông lại, từ đấy phát hiên ra nội độc
tố. Máu sam còn tốt hơn thỏ vì thời gian phát hiện ngắn
hơn, khối lượng dùng ít mà kết quả lại chính xác, định
lượng được cả nội độc tố.Năm 1964, Frederic Bang và Jack
Levin cho xuất bản tập Vai trò của nội độc tố trong
sự đông máu Limulus ngoài tế bào. Hai tác giả chỉ cách
chế biến một dung dịch trong nước của tế bào máu sam.
Máu sam chiết rút ra trong điều kiện vô trùng (có thể lấy
được đến 30% tổng số máu của nó) rồi cho vào máy ly
tâm để tách rời phần lỏng (plasma); phần đặc còn lại
là một hỗn hợp phức tạp những protein và muối kim loại
đủ thứ gọi là amebocyt. Cho nó trộn vào nước lọc (lẽ
tất nhiên vô trùng): vì số ion trong tế bào lớn hơn số
ion trong nước, một áp lực mạnh được gây ra, bẻ gảy
amebocyt phương pháp nầy mang tên lysis. Vì vậy danh từ đặt
cho chế phẩm là Limulus Amebocyt Lysat (LAL) chỉ vừa nguồn gốc
vừa cách thức chế biến thuốc thử. LAL có thể hoạt hóa
thêm bằng cách cho tác dụng với các tế bào khác do các muối
natri, calci hay magnesi đem lại. Chế biến như vậy, LAL có thể
tích trữ ổn định trong thời gian hơn bốn năm. Một công
trình vừa được thực hiện ở Viện Nghiên cứu Biển Nha
Trang trên sam vớt ngoài biển, sam nuôi trong đầm và sam nuôi
phục hồi về hiệu suất trích chiết và hoạt tính LAL của
loài
Tachypleus tridentatus qua ảnh hưởng của giới tính,
khí hậu, điều kiện chiết xuất, phương pháp lysis, dung dịch
hoạt hóa, .... Kết quả rất đáng được khuyến khích.
LAL
có thể phát hiện những số lượng nội độc tố khoảng
một phần triệu gam. Cách thức ứng dụng rất đơn giản:
cho một lượng nhỏ LAL trộn với mẫu cần thử rồi ủ ấm
trong khoảng một tiếng đồng hồ ở 370C; sau thời
gian đó, nếu những cục máu hiện ra tức là mẫu có chứa
nội độc tố. Cục máu nầy rất ổn định, nấu lên 1800C
vẫn không tiêu tan. Một mâu thuẩn cần được nêu lên là
LAL, vì quá nhạy đối với vi trùng sinh bệnh, không phân biệt
được các loại, nên người ta ít dùng LAL để để cho phát
hiện và xác định vi trùng (4)! Dù sao, vì nó phát
hiện được nội độc tố, người ta dùng nó để kiểm tra
các dược phẩm, thực phẩm, vaccin, ....có thể trở thành
một thành phẩm chiến lược. Được Cơ quan Lương thực và
Thuốc men Hoa Kỳ (FDA: Food and Drug Administration) chuẩn y, LAL
đang được phổ biến rộng rãi và ngày càng được dùng
nhiều.
Từ
máu sam, bên cạnh LAL, còn có một loại sản phẩm khác, mang
hoạt tính tương tự nhưng ít được biết hơn: lectin. Lectin
máu sam là lectin đầu tiên được trích chiết từ động vật.
Chúng là những protein hay glycoprotein có khả năng liên kết
với các polysaccharid và ngưng kết với các tế bào động
vật. Máu sam chiết xuất từ
Limulus polyphemus hay Tachypleus
tridentatus (3,5) gọi là haemolymph, được cho đông
lạnh rồi bỏ vào máy ly tâm; phần lỏng tách ra, cho qua nhiều
cột sắc phân Sephadex thì được lectin. Muốn có lectin ròng
hơn, cần phải sử dụng ái lực sắc phân (affinity chromatography)
và sắc phân lỏng HPLC. Từ đấy, tỷ lệ các amin acid trong
lectin cũng được xác định minh bạch. Lúc trước, chúng được
gọi qua nhiều tên, đặc biệt agglutinin gợi ý rõ nhất nhưng
chỉ sát với một phần định nghĩa. Sau cùng, danh từ lectin,
từ động từ La Tinh legere (chọn lựa) được công nhận
vì chất nầy có khả năng thức biệt những mẫu máu người
(Boyle và Slaplaeigh, 1954). Chất lectin đầu tiên được chiết
rút từ hột thầu dầu
Rinus communis từ năm 1968 (Stellmark)!
Lúc ban đầu nó chỉ tìm ra được trong hột, củ, lá, rễ
thân cây. Dần dần người ta trích chiết nó từ nấm, vi sinh,
động vật bậc thấp (ốc, sên) và ngay từ cả động vật
có xương sống (gà, chuột, lươn). Vai trò của lectin trong
thảo mộc chưa được xác định rõ ràng nhưng người ta nghĩ
nó có nhiệm vụ chống vi trùng, sâu bọ song song với chức
vụ cộng tác tích trữ. Tuy nhiên, ứng dụng lectin ngày càng
nhiều, trong khắp các lãnh vực huyết học (thức biệt các
nhóm máu), miễn dịch học (làm mẫu kháng chất), sinh vật
học tế bào (khảo sát về cấu tạo của màng tế bào), khảo
cứu ung thư (thức biệt các tế bào ung thối và các tế bào
lành mạnh). Ở Khoa Sinh vật học các Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài máu sam, người
ta đã trích chiết lectin từ mít, chay, dâu, muồng, .... Gần
đây, trong nhiều phòng thí nghiệm ở Pháp, cộng tác với
khảo cứu viên từ Việt Nam qua, lectin hột mít của nhiều
loại Artocarpus đã được khảo sát đem dùng để ngăn
chận ngăn cản độc trùng VIH của bệnh SIDA tấn công vào
hồng huyết cầu con người (6).
Rõ
ràng máu sam ngày càng được dùng nhiều và số sam cần thiết
ngày càng tăng thêm. Thường sau khi ngủ đông, sam kéo nhau
từng cặp trở lại bờ biển để làm nhiệm vụ sinh sản:
sam cái đào lỗ đẻ trứng, sam đực từ trên lưng vợ cho
tiết và rải tinh trùng xuống trứng. Một con sam cái có thể
đẻ 80.000 trứng mỗi mùa, trong nhiều lỗ, mỗi lỗ chứa
đựng từ 3000 đến 4000 trứng. Trong thời gian nầy rất dễ
bắt sam. Đến đây phải đặt vấn đề môi sinh. Ở Hoa Kỳ,
dùng kim rút máu xong, người ta thả sam lại ra biển. Khảo
sát nuôi sam thì biết sam chế tạo lại máu khá lanh, từ 3
đến 7 ngày, nhưng amebocyt thì từ 3 đến 4 tháng. Đằng khác,
máu sam phục hồi không luôn cống hiến một lysat tốt. Sam
có ích cho ta nhưng nếu không có luật lệ bảo vệ thì số
sam sẽ ngày càng thuyên giảm, nhất là chưa thấy sam nuôi
cho sanh con. Thường sam bắt lại đang còn mang sẹo thì không
được chiết rút máu. Đừng nói đến chuyện bắt sam nghiền
nhỏ mai để làm phân bón như đã thấy nhiều nơi bên Mỹ.
Không phải tình cờ mà bên Nhật Bản, con kabutogami được
xem như là một di tích quốc gia. Ở nước ta, không những
sam đánh bắt được quanh năm mà kết quả nuôi sam khả quan
cũng xác định một tiềm năng rõ rệt cho tương lai trong công
cuộc sản xuất LAL Cần biết chăng LAL là sản phẩm đầu
tiên dùng trong y học từ biển cả mà ra. Nhưng việc đưa
LAL ra làm thương phẩm sẽ gặp nhiều khó khăn phải vượt
qua. Trong số nầy, trước nhất là điều kiện vô trùng khi
chiết rút và chế biến mà thiết bị một phòng thí nghiệm
loại nầy thật vô cùng tốn kém. Thứ nữa là tìm cho ra thị
trường thế giới, một thị trường đến nay hầu như là
độc quyền của Hoa Kỳ. Như vậy là tuy có tài nguyên, ta
cùng một lúc phải giải quyết cả "đầu vô" lẫn "đầu
ra".
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 2 1995,
khoahoc.net
01.2010
Tham
khảo
1-
J. van de Hoeven,
Recherches sur l'histoire naturelle et l'anatomie
des limules, Loyde (1893)
2-
P.P. Grasse, Traité de Biologie, IV (1949) 219
3-
J.J. Marchalonis, G.M. Edelman, Limulus polyphemus, J.Mol.Biol.
32
(1968) 453
4-
Thomas J. Novitsky,
The blood of the Horseshoe Crab, Oceanus
27
(1984) 13
5-
B.P. Thuan, A.D. Strosberg, J. Hoebeke, Tachypleus tridentatus,
Lectins-Biology,
Biochemistry, Chemical Biochemistry 6 (1988) 405
6-
E. Blasco, Lien Do Ngoc, P. Aucouturier, J.L. Preud'homme, A. Berra,
Mitogenic
activity of new lectins from seeds of wild Artocarpus species from Vietnam,
C.R. Acad. Sci. Paris 319 (1996) 405-9 |