Cả
Dĩ Vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả
Tương Lai là chuỗi huyệt chưa thành.
Chế
Lan Viên
Cách
đây hơn mười năm, những nhà khảo cứu Viện Bảo tàng Quốc
gia Vạn vật học New York khai quật được một mỏ vô giá
mà không phải vàng, bạc, hay kim cương, đá quý: hơn một
trăm loại sâu bọ và cây cỏ ướp khô trong một lớp nhựa
đóng cứng từ 90-94 triệu năm nay! Khối hổ phách nầy nặng
khoảng 40 kg, chứa đựng những mẫu động vật và thực vật
chưa từng thấy hay rất hiếm có ngày nay. Theo nhà côn trùng
học David A. Grimaldi, người điều khiển cuộc khai quật, những
mẫu sinh vật nầy có mặt vào thời kỳ kỷ Creta (từ
-110 đến -65 triệu năm), đã chứng kiến những tác động
biến chuyển đời sống trên mặt đất, các hiện tượng
sinh nở và mất biến những khủng long dinosaure, các sự kiện
xuất hiện và phát triển những bông hoa cùng những sâu bọ,
ong, kiến, bướm, mối, ....chung sống với các loại cây kia
(3).Năm
2014, tờ Plos One chỉ đăng một mẫu hổ phách 15 triệu năm
lượm được ở Mexicô trình bày một con kiến Neivamymex cắm
trong hàm mợt con mối Nasutitermes chứng minh tương gác giữa
sâu bọ.
Khủng
long kinh hãi trên màn ảnh
Trong
số các sinh vật trong khối hổ phách New Jersey, đẹp nhất
tuy nhỏ xíu (1,5 cm) là một đóa hoa cây sồi bên cạnh một
tai nấm, một lông chim,…và đặc biệt một con muỗi thời
nguyên sơ ấy. Khảo cứu miệng con muỗi, các chuyên gia đi
đến kết quả: nó tiêu biểu một mẫu giao thời giữa các
sâu hút nhụy và các vật đốt da. Nếu con muỗi nầy chích
da hút máu một con khủng long, nó có thể chứa trong bụng
máu con dinosaure kinh khủng kia, với thành phần cốt yếu DNA
(Desoxyribo Nucleic Acid) của sinh vật. Giả thuyết nầy đã được
chứng minh: nhà sinh vật học Georges Poinar, ở Trường Đại
học Berkeley, thông báo đã chiết xuất được từ hổ phách
DNA một con bọ đầu dài hóa thạch sống cách đây 100 triệu
năm. Sau đó, nhà vi sinh vật học Raul Cano, ở Trường Đại
học Bách khoa California, khám phá ra được trong hổ phách cũng
một con bọ đầu dài, đầy đủ máu, còn xưa hơn (135 triệu
năm) và tuyên bố nay mai sẽ chiết xuất DNA. Dễ hư hỏng
ở một môi trường ẩm ướt, ổn định trong lòng hổ phách
khô cứng, hóa chất DNA ấy là một tài liệu vô cùng hiếm
quý để các nhà di truyền học phân tích, so sánh, hòng mong
hiểu biết thêm về cuộc tiến hoá của sinh vật.
Đi
xa hơn, nhờ các chuyên gia góp sức, nhà văn Michael Crichton
tưởng tượng và diễn tả thành truyện một giả thuyết
trong cuốn sách Jurassic Park, xuất bản năm 1992: ông kể
từ các DNA kia, các nhà bác học đã thành công làm sống lại
những con khủng long và nuôi dưỡng chúng trong một công viên.
Ông di chuyển kỷ Creta qua kỷ Jura (từ -150 đến
-110 triệu năm), xưa hơn nhưng chẳng quan trọng vì sách viễn
tưởng không phải là môt bản báo cáo khoa học mà chỉ là
một chuyện phiêu lưu, giả định. Sau cuộc thành công sản
sinh cách đây vài năm con cừu đầu tiên Dolly từ một tế
bào vú cho vào buồng trứng một con cừu thứ nhì rồi đặt
cho lớn lên trong tử cung một con cừu thứ ba, rất dễ suy
qua một thí nghiệm với DNA, tuy đến nay chưa một nhà sinh
vật học nào tuyên bố quả quyết thực hiện được. Dù
sao, cuốn sách có công đưa ra một bộ mặt mới về các con
khủng long dễ sợ kia: chúng không phải là những động vật
ăn lá, không biết chạy nhảy, chỉ di chuyển nặng nề mà
là những con thú ăn thịt, linh động không khác gì những
quái vật, thuồng luồng, trăn rắn, đã vào sinh ra tử với
những Siegfried, thánh Georges hay Thạch Sanh của ta.
Cuốn
sách của Crichton chắc ít được vang dội hơn nếu không có
Steven Spielberg, một nhà đạo diễn luôn có đầu óc trai trẻ,
đưa ra dựng thành phim ảnh. Một mặt cậy ngay Crichton viết
kịch bản, mặt kia Spielberg chạy tìm Jack Horner làm cố vấn.
Horner là một nhà sinh vật khảo cổ học ở Trường Đại
học Montana, đồng thời là nhà bảo quản ở Viện Bảo tàng
Les Rocheuses. Năm 1991, ông đã khai quật đuợc một bộ xương
còn nguyên vẹn con khủng long có tiếng Tyrannosaurus Rex,
con thú ăn thịt mãnh liệt nhất trên mặt đất và thuật
lại trong cuống Complete T. Rex do Simon và Schuster xuất
bản. Tuy bảo có khám phá ra máu trong cơ thể T. Rex,
ông không tin có thể sản sinh con vật nầy từ DNA của nó.
Ông tuyên bố nhiệm vụ cố vấn của ông chỉ là kiểm soát
cho những con khủng long chế tạo trong phim có vẻ như thật
(3).
Kết
quả vô cùng mỹ mãn: các con khủng long trên màn ảnh quả
đã giống như gần thật. Với một ngân quỷ 70 triệu USD
của hãng Amblin Entertainment and Universal Pictures, hàng Lucas Films
bỏ gần hai năm thực hiện những hiệu ứng đặc biệt để
vận dụng những con vật khổng lồ kia trên màn ảnh. Bốn
toán làm việc song song: nhóm Phil Tippet chăm lo đồ hình linh
động, nhóm Stan Winston tính mẫu hình lớn bằng thật, nhóm
Dennis Muren và phòng thí nghiệm Industrial Light and Magic làm hình
ảnh nhân tạo còn nhóm Michael Lantieri phối cảnh cùng những
hiệu ứng cơ học (3). Thành quả là khán giả rùng
mình, lo sợ trước những mẫu Velociraptor, Dilophosaurus, Tyrannosaurus,
....di chuyển lanh lẹ, gầm thét rầm trời. Chúng lại còn
có phần tế nhị và có óc xã hội nữa là khác! Jurassic
Park là một trong những cuốn phim ăn tiền nhất đến nay.
Tuy vậy, như bao nhiêu phim ảnh khác, có khách đông đi xem
thì người sản xuất phim lại muốn làm tiếp, nhưng lặp
lại những cái hay, cái đẹp dù hoàn hảo quá sức cũng mất
đi cái vui bất ngờ lần đầu, cái ngạc nhiên của chuyện
chưa bao giờ thấy.
Nhưa
thông hóa thạch thành hổ phách
Mọi
việc bắt đầu từ cuộc phát hiện một con muỗi trong nhựa
hổ phách! Từ thời đại đồ đá, con người đã tìm kiếm
những vật thể thiên nhiên có hình dạng, bản chất lạ lùng,
hấp dẫn. Họ thường bắt gặp những khoáng chất, khi quý,
khi không. Trong số các vật nầy, hổ phách chiếm một địa
vị đặc biệt vì không như đá quý, phải đào bới khó khăn
để tách chiết, mà từ đáy biển dạt vào bờ chỉ cúi xuống
lượm. Lúc ban đầu, ngoài nét thẩm mỹ quyến rũ, hổ phách
được các người tiền sử dùng trong trò quỷ thuật hay để
chữa bệnh. Thật vậy, nó mang những tính chất thần diệu
như khi cọ xát thì có khả năng bốc nóng (cho nên ngôn ngữ
Germain có tên bernstein là hòn đá nóng cháy), phát điện
(các tiếng La Tinh, Hy Lạp đặt chữ electron
mà ta dùng
để chỉ điện tử). Người Lithuani gọi nó gintaras có
nghĩa bảo vệ, từ đó hiểu rộng ra bùa ngải (1).
Sau nầy, La Tinh còn có tên succin hay succinum, từ
danh từ succus nghĩa là nhựa và acid chiết xuất từ
hổ phách mang tên succinic acid. Người Âu Mỹ lẫn lộn dùng
danh từ amber hay ambre, phiên âm chữ anbar mà
người Ả Rập dùng để chỉ định con long duyên hương phát
tiết những sản phẩm tiêu hóa có mùi thơm tương tự nên
ngày nay người ta phải phân biệt ambre gris (loại xám)
dành cho con vật và ambre jaune (loại vàng) là hổ phách.
Về mặt hóa học, danh từ thông dụng là succinit. Bên ta còn
có những tên huyết phách, minh phách, huyết hổ phách, hắc
hổ phách, hồng tùng chi (ĐTL).
Lượm
nó trên bờ biển, người ta thường cho hổ phách từ biển
mà ra nhưng khởi thủy trong rất lâu còn là chuyện huyền
bí. Thần thoại kể chuyện Phaeton, con Helios và Clymen, một
hôm được phép kéo chiến xa mặt trời, nhân vô ý kéo lại
quá gần trái đất gây ra hạn hán. Tức giân, Zeus lấy sét
đánh xe nhào xuống sông Eridan làm Phaeton chết đi. Mấy cô
em Phaeton thương buồn khôn xiết, được các thần hoá thành
cây. Những giọt nước mắt các cô biến ra những hột nhựa
lâu ngày hóa thạch thành hổ phách, đúng như tin tưởng của
người xưa, những khoáng chất lắm lúc là biến thân của
một phần thể chất các đấng tối cao. Có nước, có nhựa,
thần thoại đã dẫn bước đầu giải thích nguồn gốc hổ
phách. Nếu thật vậy thì rất dễ hiểu, thêm với những
tính chất bốc nóng, phát điện, hổ phách được dùng làm
bùa hộ mệnh và chữa bệnh. Bên cạnh những đồ nữ trang,
đeo cổ, nhất là cho con trẻ bị bệnh, những hình tượng,
bình, chén, những lớp bao che tiểu phẩm vẽ hay chạm nhờ
tính chất trong suốt của nó, hổ phách còn được dùng để
thực hiện những dụng cụ có ý nghĩa đạo giáo. Những mẫu
to xen lồng với hột vàng trong các vòng đeo cổ, những mẫu
nhỏ xâu thành tràng hạt, phát xuất từ xuởng những hiệp
sĩ dòng Teutonic ở Bruges bên Bỉ, một thời đã giữ độc
quyền hổ phách, lúc đầu chỉ bán ở vùng Công giáo, dần
dần tràn qua các nước Hồi giáo. Ở đây, đầu ống điếu
thuốc làm bằng hổ phách không chỉ có ý nghĩa đạo giáo
mà cũng còn vì tích chất cách nhiệt. Bên mặt y khoa, cuốn
sách Le Parrfait Joaillier của lương y Anselme Boece de Boodt,
trước thế kỷ XVIII, khuyên dùng hổ phách để chữa các
bệnh tim, não, sạn thận, thủy thũng
(1)
Đông
y coi hổ phách có vị ngọt (cam), tính bình, vào bốn kinh tâm,
can, phế và bàng quang, có tác dụng an thần, định kinh, lợi
tiểu tiện, tán ứ huyết. Dùng trong những trường hợp tâm
thần bất định, hồi hộp mất ngủ, ngủ mê hay mê sợ,
tiểu tiện ra huyết, mụn nhọt lâu lành. Trong sách cổ Đông
y cho rằng hổ phách hay làm hao mòn chân khí cho nên những
người hỏa suy thủy thịnh nên dùng, còn những người hỏa
thịnh thủy suy thì không nên (ĐTL). Gần đây thôi, cuối thế
kỷ 20, mới thấy có văn bằng sáng chế dùng hổ phách làm
thuốc thoa lên da để chữa thấp khớp kinh niên cũng như các
bệnh thuộc về xoang, bắp thịt, khớp nối hay các bệnh thần
kinh (27). Hổ phách cũng được trộn với borneol,
lauroylazepinon cùng nhiều chất khác để làm thuốc xức trị
chứng trĩ (28), với long não, nhựa thông, trám hương,
.... để chữa những chấn thương như nhức xương, táo bón
đồng thời làm thông máu, chận chảy máu, .... (25)
hay những chứng tai biến mạch não (23). Hỗn hợp
với nhiều cây thuốc như hột hồ đào Juglans regia,
rễ khương hoàng Curcumae,…hổ phách là một môn thuốc
hạ nhiệt, chống đau, giảm bớt hiệu ứng sạn thận (26).
Nói chung, nó là thành phần một số lớn thuốc Tàu chữa
bá bệnh: Anshen Yangxin, Niuhuang Ninggong, Xiaoer, Hulu,....Vải bô
nhuốm hổ phách vừa khử mùi, vừa có tác dụng chống thấp
khớp, phòng ngừa giãn phình tĩnh mạch (22). Nó còn
được dùng trong kỹ nghệ chế tạo sơn mài, vecni
(5,15).
Bên phần succinic acid thì ngoài tác dụng chống ngẫu biến,
được dùng trong đồ ăn thuốc bổ
(24), trong y khoa
và sản xuất chất nhuộm đỏ rhodamin, còn được dùng để
bảo vệ hột giống (6).
Thật
ra, khảo cứu khoa học về hổ phách đã bắt đầu từ thế
kỷ 18. Sau hai nhà vạn vật học Pháp Buffon và Linné, khoảng
1750, chứng minh hổ phách có một nguồn gốc thực vật, đến
lượt nhà bác học Nga Lomonosov tìm ra nó là một chất nhựa
phát xuất từ cây. Năm 1811, Wrede, một nhà bác học người
Phổ, đi thêm một bước trong kiến thức khi xác định nó
là một chất nhựa hóa thạch. Đây là một hiện tượng kỳ
diệu của tạo hóa. Nhựa nầy từ các cây thông phát tiết,
có thể để bảo vệ cây chống các trùng ăn gỗ khi vỏ cây
bị tổn thương. Nhựa chảy bao trùm vết thương và nếu khi
đang còn nóng chảy, gặp cây cỏ hay bông hoa rơi vào, cũng
như sâu bọ, chuồn chuồn, bươm bướm, hay các loại mạnh
hơn như ếch, nhái, thằn lằn, ....thì cũng thu kéo luôn. Người
ta đã phát hiện bên xứ Đôminicana một khối hổ phách tương
đối nhỏ (5,8 cm), xưa 25 triệu năm, chứa đựng hai con ếch:
một con còn nguyên vẹn, con kia chỉ còn bộ xương đầy giòi
ruồi cạnh một con rết ăn xác chết khối nhựa là mồ chôn
cả con ếch lẫn sâu bọ lợi dụng xác nó. Sau đấy cả cây
thông hay chỉ khối nhựa rơi vào đáy nước, lấp vào lớp
bùn. Nhiều triệu năm sau, nhựa cứng dần vì những hoá chất
cấu tạo nhựa trùng hợp thành phân tử to, dài, ổn định
tức là hổ phách. Thường người ta lượm nó thành từng
cục cứng rắn, mờ đục hay trong suốt, màu vàng đỏ, không
có khẩu vị, nhưng tỏa mùi thơm dễ chịu khi đốt nóng.
Thị
trường thế giới ngày càng tăng
Hổ
phách không phải là chất nhựa hóa thạch độc nhất. Tùy
cây phát tiết, nhựa mang tên khác nhau, hiện đuợc biết nhiều
nhất là copaline hay "nhựa Highgate" có mùi thơm đặc
biệt, bathvillite ở xứ Scotlanh, idrialite
tìm tra
trong các mỏ thần sa, tasmanite chứa đựng đến 5% lưu
hùynh. Hổ phách thường được gọi là nhựa vùng Baltic ở
Bắc Âu. Những cây thông phát tiết nhựa đã mọc ở đây
vào các kỷ Eocene (từ -65 đến -45 triệu năm) và Oligocene
(từ
-45 đến -25 triệu năm) (7) trước kia mang tên chung
là Pinus succinifer. Để tìm hiểu sâu rộng hơn nguồn
gốc, các nhà khảo cứu đã so sánh thành phần hổ phách và
thành phần nhựa bốn cây thông loại
Pinus: P. pinea, P. strobus,
P. pinaster, P. halepensis (18,25). Họ khảo sát không
những nhựa tươi vừa mới chiết mà còn nhựa "hóa già" nghĩa
là nhựa chịu tác dụng nhiệt và ánh sáng (1100 trong
30-60 ngày) trong điều kiện phản ứng trùng hợp qua một cơ
chế dạng gốc thiên nhiên. Kết quả là nhựa cây P. halepensis
có khả năng trở thành hổ phách nhất. Giả thuyết nầy
càng đáng được đáng tin hơn khi biết cây
P. halepensis
thích mọc ở đất có vôi mà ở kỷ Oligocene, vùng
Baltic lại đầy vôi. Bên phần một tác giả người Nga, dựa
theo thời tiết thì thấy khác, cho những cây thông mọc nhiều
nhất ở kỷ Oligocene là P. silvatica, P. baltica, P. cembrifolia
(6).
Thành
phần và cấu trúc hổ phách khá phức tạp với một chất
trùng hợp làm phần chính. Trước đây, succinic acid (6,8,10)
được chiết xuất từ hổ phách (3-8%), giữa 280 và 290°,
ngày nay người ta nhân tạo tổng hợp nó từ fumaric acid qua
tác dụng của Escherichia coli (21). Đem chưng,
hổ phách cống hiến formic acid. Một acid khác đóng vai trò
quan trọng là abietic acid (10) mà phản ứng trùng hợp
qua một xúc tác acid biến hóa thành polyabietic acid. Acid nầy
cũng được tìm thấy dưới dạng diabetic-, dehydro abietic-,
diabitinic-, diabietinolic acid. Nhiều tác giả tìm ra 20-30% amyrin
(8)
trong hổ phách cũng như trong Highgate copaline, guayaquillite
(7). Phần tan hòa trong các dung dịch hữu cơ chứa
đựng những polycyclic acid như isoprimaric-, dihydro isoprimaric-,
dehydro isoprimaric-, sandaracopimaric-, isodextropimaric acid cùng một
số mono-, di-, tri sesquiterpenoid. Một số lớn terpinoid nằm
trong phần bốc hơi của hổ phách, theo thứ tự nhiều ít :
borneol, terpinenol, cymen, fenchyl alcohol, camphen, carvomenthon, pinen,
isoborneol (11,14). Đáng chú ý là borneol, isoborneol,
fenchyl alcohol và những cymen, phát xuất từ pinen, luôn luôn
có mặt theo một tỷ lệ không thay đổi như thí nghiệm "hóa
già" đã chỉ, góp phần chứng minh nguyên gốc hổ phách Baltic,
khác với nhựa các vùng khác
(14). Sau cùng, 17 khoáng
chất, kim loại được xác định trong hổ phách, nhiều nhất
là Si, Al, Mg, Fe, Ti, Cu (6).
Mặc
dầu những tính chất dược lý, những ứng dụng trong kỹ
nghệ, công dụng chính của hổ phách vẫn là đồ nữ trang.
Người Ai Cập, Romain ngày xưa đã từng hâm mộ hổ phách.
Dần dần khách hàng tràn qua châu Âu, châu Á. Một con đường
thương mãi hổ phách được mở ra giữa Bắc Âu và Địa
Trung Hải, tương tự như đường tơ lụa, đường gia vị
giữa châu Âu và châu Á. Ở dạng thô, được mài dũa, trong
suốt hay chứa đựng sâu bọ hóa thạch, hổ phách ngày càng
được mến chuộng khắp nơi. Những mẫu nhặt lượm ở bờ
biển không đủ nữa để cung cấp thị trường. Nhiều nước
như Myanmar cũng sản xuất nhưng không bao lăm. May thay, ở làng
Iantarny thuộc tỉnh Kaliningrad bên Nga, người ta đã khám phá
ra được một mỏ phỏng chừng một trăm triệu tấn, tương
đương với 80% tổng sản lượng trên mặt đất. Nằm sâu
không đầy 50 m, chôn vùi trong một lớp đất sét, thợ mỏ
chỉ phun nước vào là lấy ra được hổ phách. Hằng năm,
mỏ chính thức tách chiết được 850 tấn. Bên cạnh đấy,
khắp đồng ruộng, ngổn ngan những lỗ sâu chừng 10 m là
những mỏ lậu, hằng năm cũng cung cấp thêm 400 tấn. Gấn
đây có tin ột mỏ hổ phách xưa 125 triệu năm, nghĩa là xưa
hơn mỏ Baltic chỉ 25-45 triệu năm, được phát hiện bên nước
Liban cống hiến nhiều sâu bọ và thảo mộc thời ấy.
Ngoài
một số gởi qua Lithuani, Hungari, hầu hết hổ phách Iantarny
được chở qua Ba Lan cách xa chỉ vài trăm cây số để phân
phối cho hai vạn tiệm kim hoàn, phần lớn ở vùng Gdansk, một
thời đã lừng danh với Lech Walesa và Solidarnosc, để biến
hóa thành đồ nữ trang. Thành thử nước này ngày nay chiếm
giữ 85% thị trường thế giới, mỗi năm với 240 tấn gia
công, xuất cảng 300 triệu USD hàng hổ phách. Đấy là Ba Lan
chưa khai thác hết mức các mỏ của chính nước mình (2).
Nghe nói thị trường hổ phách hàng năm tăng 20%, nhất là
sau khi sách và phim Jurassic Park được tung ra thế giới.
Một lời đồn đại đã góp phần vào sự tăng gia nầy:
một mẫu hổ phách đặt trong túi quấn có khả năng tăng
cường sức lực của đấng mày râu, khỏi phải mất công
tốn tiền chạy mua thuốc Viagra! Nhiều văn bằng sáng chế
đã trình bày các phương pháp tổng hợp hổ phách loại polyester
(12)
như Polylite TC141 (13), Polybern (9), các vật
liệu tương tự như bakelite, celluloid hay chế biến mùi thơm
hổ phách (4). Vẫn biết những hổ phách nhân tạo
dễ mài dũa, biến hóa hơn nhưng cũng như kim cương, ngọc
trai, chúng không làm sao thay thế được chất thiên nhiên.
Nhất là chúng không có khả năng tích trữ quá khứ như hổ
phách tự nhựa cây hoá thạch mà thành.
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 3(25) 1999,
vietsciences
06.2008
Tham
khảo
1-
Encyclopaedia
Universalis, 41
2-
Bernard Osser, La ruée vers l'ambre, L'Express 2477
24.12.1998, tr. 45
3-
François Cusset, Le jurassique de synthèse, Sciences et Avenir
10
(1993) 47-8 ; Eric Buffetaut, Jurassic Park: la part du vrai,
id. 88-9 ; Aline Kiner, L'ambre, mémoire du passé, id. 6 (1996)
98-9
4-
Firmenich and Co., (2,5,5,9-Tetramethyl-2-hydroxydecahydro-1-naphtyl)-2-propanol,
propen-1-ol-epoxide, Swiss 302.014, 302.015 (1954)
5-
Z.K. Vigderkhaus, M.M. Tarmas, Electrically insulating lacquer,
USSR.172.436
(1965)
6-
E.E. Rozhko, Amber and amber-bearing sediments, Uch. Zap. Lening.
Gos. Ped. Inst.267
(1964) 193-203
7-
J.W. Frondel, X-ray diffraction study of fossil elemis, Nature
(5108) 215 (1967) 1360-1
8-
J.W. Frondel, Amber facts and fancies, Econ. Bot. (4)
22
(1968) 371-82
9-
E. Brepohl, J. Jahnke, Newly developed gem stone, polybern, Goldschmiede
Ztg. (2) 66 (1968) 140-1
10-
R.C.A. Rothlaender, Formation of amber from Pinus resin, Archaeometry
(Pt1)
12 (1970) 35-52
11-
T. Urbanski, T. Glinka, E. Wesolowska, Chemistry of amber. Part IV.
On the chemical composition of Baltic amber, Bull. Acad. Pol. Sci.
Chim. (8) 24 (1976) 625-9
12-
M. Kawaguchi, Accessory having a crack pattern, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho 79.134.767 (1979) 2 tr.
13-
K. shigenobu, M. Tsujita, Generation of amber, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho 80.03. 4 73 (1980) 2 tr.
14-
V. Mosini, M.L. Forcellese, R. Nicoletti, Presence and origin of volatile
terpenes in succinite, Phytochem. 19 (1980) 679-80
15-
F.Z. Faintsimmer, A.S. Kovalev, N.I. Ryabikov, Oil-resin varnish,
USSR 798.150 (1981)
16-B.I.
Srebrodol'skii, Ukrainian amber, Dokl. Akad. Nauk. SSSR (1)
261
(1981) 177-9
17-
M. Mosini, R. Samperi, Correlations between Baltic amber and Pinus resin,
Phytochem. (4) 24 (1985) 859-60
18-
P. Huang, Manufacture of artificial amber, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1.034.562 (1990)
19-
B. Twardowska-Decker, Analgesis amber extract for treatmant of muscle,
joint, sinew, and/or nervous disorders, Ger. Offen. DE 3.901.575
(1990) 4 tr.
20-
Y. Lu, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1.081.616
(1994) 4 tr.
21-
X. Wang, C.S. Gong, G.T. Tsao, Succinic acid production from fumaric
acid employing recombinant E. coli, Books Abst.213th ACS Nat.Meet.San
Francisco April 13-17 (1977)
22-
A. Niekraszewicz, Textiles modified by amber, Przeglad Wlokienniczy
+ Technik Wlokienniczy (9) (1997) 10-3
23-
W.T. Liu, T. Shimoda, Y.M. Chao, Z.D. Liu, Z.C. Liu, Chinese patented
for treatment of cerebrovascular diseases, Jpn. Kokai Tokkyo Koho
JP
2003034646 (2003) 4tr.
24-
T. Shiraishi, M. Miyazawa, T. Nariharu, Organic acids as antimutagenicity
medicines and healt foods, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003104880
(2003) 5tr.
25-
W. Wang, External use pharmaceutical liquid spray for traumatic injury,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1082335 (2004)
26--
B. Ou, Z. Ye, A Chinese medicine for treating lithangiuria and its preparation
method, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1559598
(2005) 10 tr. |