Bay
qua, bay đi chim yến nhỏ
Từng
tuổi thơ từng dấu chân
Trên
cánh đồng em nghiêng nón,
Lúa
dậy thì hương trẻ vào hoàng hôn.
Lê
Thị Mây
Trong
các thức ăn hiếm và quý của Viễn Đông từ hàng trăm năm
nay, yến sào đứng hàng đầu bản bát trân: yến sào (tổ
chim yến), hải sâm (sâm biển), bào ngư (nhím biển), hàu xì
(sò huyết), lộc cân (gân hươu), cửu khổng (hàu chín lỗ),
tê bì (da tê giác), hùng chưởng (tay gấu). Sách Thần nông
bản thảo kinh kê nó trong số ba đặc sản nổi tiếng:
trầm hương, tê giác, yến sào. Vì sống ở hang động các
đảo ngoài biển nên chim yến còn được gọi hải yến, chim
biển hay chim én biển. Nó cũng còn mang tên Việt yến (chim
yến đất Việt), Nam yến (chim yến miền Nam), Hồ yến (chim
yến xứ Hồ). Sách Đại Nam nhất thống chí dẫn Bản
thảo cương mục
đưa tên ất điểu (vì đường bay của
chim), huyền điểu (vì màu sắc của lông), chí điểu,
ý nhi, du ba, thiên nữ oa (3). Ngoài ra có những tên
ít được dùng: yến oa, yến thái, quan yến, kim ty yến, gợi
ý nhất là du hà ưu điểu (chim bay trên sóng nước) (ĐTL).
Nười Anh có những tên enso, swiftlet, có khi swallow
(chim én) và người Pháp salangane, một danh từ thông
dụng ở Manille
(1). Chưa thấy chim nào có nhiều tên
như thế. Ở Hang Trống hòn Ngoại thuộc tỉnh Khánh Hòa có
bài thơ khắc trên vách đá :
....
Dịch tâm sào dựng tử
Mỹ
phú kiện nhân sinh.
nghĩa
là rút ruột nuôi con làm tổ, vừa làm cho con người khỏe
mạnh vừa làm đep non sông (18). Không phải tình cờ
mà vua Minh Mạng cho chạm hình chim yến, tổ yến và hai chữ
yến oa vào Tuyên đỉnh trong Đại nội Huế, tượng trưng
cho một sản phẩm của đất nước, một tấm gương cho dân
gian.
Khắp
miền Đông Nam Á, chim yến sống rải rác trong hang ở những
hải đảo từ Trung Hoa qua Việt Nam xuống Nam Dương, Phi Luật
Tân. Ở nước ta, ngoài vài đảo ở Thanh Hóa (Hòn Mê), Quảng
Bình (Hòn La, Vùng Chùa), chim sống nhiều nhất suốt bờ biển
từ Quảng Nam (Cù lao Chàm), Quảng Ngãi (mũi Sa Huỳnh), Bình
Định (hòn Ông Căn, bán đảo Phước Mai, Cù lao Ré), Khánh
Hòa (những hòn Đôi, Hố, Đun, Tre, Mun, Ngọc, Nội, Ngoại,
Nhàn, Chà Là) qua Cù lao Thu (ngoài khơi Thuận Hải), hòn Bông
Lau, hòn Côn Sơn, đến Kiên Giang (các hòn Nhạn, Rái, Thổ
Chu, Nam Du, An Thái). Những hang có tiếng nhất là Hang Khô (Thương
đảo), Hang Cả (Thiên đảo), Hang Tây (Tây đảo), Hang Vò vỏ
(Ca đảo)
(1). Ở những nơi chim yến có nhiều thì
người ta lấy tên chim đặt cho chỗ đó như núi Mũi Yến
là núi bán đảo Phước Mai, Yến Dư là mũi của Nhĩ Dư tức
hòn Tai trong dãy Cù lao Chàm,...
và
gần Hội An có một làng mang tên Yến Xã hay Làng Én. Hòn
Tre thật ra là một quần đảo gồm có 11 hòn, nơi cống hiến
mỗi năm hơn hai tấn yến sào, nghĩa là hơn 80% tổng sản
lượng toàn quốc. Công ty Yến sào Khánh Hòa quản lý vùng
khai thác nầy hy vọng những năm tới số chim yến sẽ tăng
gấp ba, gấp bốn thì sản lượng yến sào sẽ tăng lên chừng
ấy.
Chỉ
có khoảng 30 loài chim yến nhưng cuộc phân loài và đặt tên
không giản dị (21). Giản lược có thể chia họ
chim yến Apodidae thành hai chi Chaeturinae và Apodinae.
Chi Apodinae
gồm có hai giống Apodini,
còn gọi
Collocalia (hay Collocalini) và Aerodramus
(hay
Aerodramini).
Ở nước ta, những chim khảo sát ở miền Quảng Bình, Đà
Nẵng, Qui Nhơn, Khánh Hòa, Côn Đảo được phân biệt thành
hai loại : chim yến núi C. brevirostris innominata Hume và
chim yến hàng C. fuciphaga germani
Oust.
(13), cơ
thể tương đối nhỏ hơn nhóm kia. Nếu chim yến núi đã đuợc
thống nhất về mặt danh pháp, chim yến hàng còn có nhiều
tên gọi khác nhau : C. francica, C. germani, C. inexpectata, C.
fuciphaga. Chim yến núi C. brevirostris innominata mà tổ
gồm có nước bọt và lông cơ thể, không ăn được, thật
ra gồm có C. brevirostris innominata và
C. brevirostris inopina
tùy
theo giò có lông hay không có lông. Còn chim yến hàng
C. fuciphaga
germani, tổ hoàn toàn bằng nước bọt, ăn được, thì
được phân loài ra yến biến dị màu lông (thân, lưng, đỉnh
đầu) và yến biến dị tổ (tổ có pha rác và phân, tổ yến
máu) (13).
Cấu
tạo tổ yến
Chim
yến làm tổ trên các hóc đá hang động rộng lớn, có ít
nhiều ánh sáng, có loại tìm chỗ yên tĩnh, có loại thích
vách trơn, gió lộng, cheo leo giữa nơi có tiếng sóng vỗ rầm
rập ngày đêm như thách thức khó khăn để thi thố tài năng
của mình. Nhỏ con (8-12g), cánh dài, chim yến bay hằng ngày
nhiều chục, có khi nhiều trăm, cây số để kiếm ăn. Người
ta thường tin nó có khả năng bay xa đến 500 cây số. Nó đớp
côn trùng bay trong khí quyển, thường ít ăn sâu bọ đậu
trên cành cây, dưới đất. Chân mảnh nhưng nhờ có vuốt
sắc, nó dễ bấu vào thành đá để làm tổ. Tổ làm sát
nhau trong hang, vào mùa sinh nở, mỗi tổ một cặp, không khi
nào chim lầm tổ. Nếu tổ bị người lấy mất, nó bỏ công
làm lại một lần thứ hai, có khi một lần thứ ba nhưng hiếm
có, dù sao tổ làm lại không tốt bằng tổ thứ nhất. Bên
phần chim vận dụng nhiều mánh lới để xây tổ, người
đi "hái yến" cũng cần phải lanh lợi, tháo vát, kiên nhẫn,
dũng cảm. Lắm kẻ không thận trọng hay rủi ro gặp tai nạn
đã rơi chết. Hàng trăm nấm mồ người "tử ư nghệ" ở
các đảo Hòn Tre luôn còn đấy để chứng minh những nguy
hiểm của nghề gỡ tổ chim yến. Nghe kể ở Chiêm địa trước
kia, tức là các đảo từ Quảng Nam đến Khánh Hòa, có ông
nuôi khỉ đi gỡ tỗ cho mình (1). Thường người
chuyên nghiệp dùng nhiều thang tre nối nhau, hoặc từ dưới
dựng lên, hoặc từ trên thả xuống. Mỗi cử động tuy nhỏ
nhưng bất thường có thể nguy cho tính mệnh người trèo và
nhiều khi phá hỏng cả một loạt tổ. Đó là chưa nói dến
những chim chóc khác lại phá tổ.
Thời
kỳ gỡ tổ cũng rất quan trọng. Thường có hai mùa thu hoạch.
Đợt thứ nhất mươi ngày sau khi chim đẻ, khoảng tháng tư,
lấy cả tổ lẫn trứng. Chim phải làm lại tổ. Đợt thứ
nhì, khoảng một, hai tháng sau, lần nầy chim mệt, tổ nhỏ
hơn, khoảng một nửa hay hai phần ba tổ trước và chất lượng
cũng kém hơn. Thường chỉ lấy tổ và đợi cho chim con bay
đi để bảo tồn giống chim. Nếu ham lấy trứng thì chim có
thể tiệt nòi. Lúc trước thỉnh thoảng thấy có đợt thứ
ba, khoảng tháng bảy, nhưng lần nầy tổ vô cùng mảnh khảnh,
đầy lông, có khi nhuốm máu vì chim qua cố gắng, kiệt lực
vì vậy nay không còn mấy thực hiện. Tổ thu lượm về, dù
ở đợt nào, cũng không hoàn toàn sạch để có thể dùng
ngay. Trong tổ, ngoài chim chết, còn có rác, lông, phẩn, mảnh
trứng cần phải thải ra, lần đầu tại chỗ, sau đó tại
nhà, với những dụng cụ như kim, móc tre hay bằng kim loại,
vận dụng cẩn thận để khỏi mất mát dù chút ít chất
hàng quí báu vì mỗi tổ yến chỉ cân nặng 7-15g. Sau cùng
ở nhà bếp, tổ yến thường được xử lý trong nước và
đầu bếp phải rất khéo tay mới lấy ra được những mảnh
lông bé tý con tồn tại.
Một
câu hỏi mà từ lâu nhiều người tò mò muốn biết là với
vật liệu gì chim yến đã làm tổ. Sách vở Trung Quốc từ
nhiều thế kỷ trước đã có đặt vấn đề. Sách Tùng
tân bảo chim yến ở các biển Chương Tuyền, Duyên Hải
bắt cá để làm tổ. Sách Mân tiểu ký rõ ràng hơn,
xác định chim tô thịt cá lên hóc đá. Sách Nam Châu thì
cho chim ăn cá rồi mửa ra những sợi dây làm tổ dự phòng
ngày đông tháng rét. Bên nước ta, sách Tra phố tập vấn
cũng nói đến chim dùng cá làm tổ, còn sách Lãnh Nam
tạp ký
lặp lại quan điểm phổ biến bên Nhật Bản kể
chim ăn rêu meo, rong biển và chính những chất không tiêu đã
được ựa ra. Sách Việt lục cũng có ý kiến tương
tự: thức ăn của chim yến là rêu móc ở các hóc đá. Chi
tiết lạ lùng nhất nhưng cũng dẫn đường đến một kiến
thức mới được trích từ cuốn Tuyền Nam tạp chí
xuất bản thời Vạn Lịch nhà Minh: chim ăn ốc sò mà các
loại nầy mang trên lưng vỏ những gân cứng có đặc điểm
bổ dưỡng, tăng lực, chống lao. Những gân nầy lại khó
tiêu và chim mửa ra trộn lẫn với nước bọt để làm tổ.
Sách Quảng Đông tôn ngữ
nói chim yến mổ ăn loại
thạch phầnở bờ biển rồi mửa ra làm tổ (3).
Những
nhận định nầy được các du khách đem từ Viễn Đông về
châu Âu và được các nhà vạn vật học để ý. Người nói
đến đầu tiên là một bác sĩ người Hòa Lan, Jacques Bontius,
sống ở Batavia vào giữa thế kỷ XVII. Theo ông, chim yến đã
lấy chất dẻo từ bọt biển, có thể là mỡ cá nhà táng
hay trứng cá mà làm tổ. Trứng cá cũng là quan điểm của
ông Pierre Poivre, một người Pháp miền Lyon. Bác sĩ Georges-Everard
Rumpf tức Rumphius, một nhà thực vật học người Đức, thì
cho chim đã ăn một loại cây mềm, dẻo, vừa trắng, vừa
đỏ ở bờ biển và tổ được cấu tạo với chất ngoại
tiết. Đấy cũng là ý kiến sau nầy của Thomas Stamford Raffles,
nguyên Thống đốc Mã Lai và cũng là một nhà vạn vật học
người Anh. Theo Engelbert Kaempfer, một bác sĩ vừa là một nhà
vạn vật học khác người Đức, thì tổ yến gồm có những
tàn tích của một con mực phủ đã được chim chế biến.
Vào
những thế kỷ XVII, XVIII, các nhà truyền giáo đi lại ngang
dọc châu Á cũng lượm lặt nhiều nhận xét trong dân gian.
Cha Cristofoto Borri, người Ý, tả chim yến tương tự như con
chim nhạn arondelle (có lẽ vì vậy sau nầy có tên hirondelle
cho chim én và chim yến) và cho tổ yến là một chất lấy
từ bọt biển trộn với thủy dịch ở dạ dày. Theo cố Alexandre
de Rhodes, người có công nhiều cho chữ quốc ngữ ta, thì chim
yến đã hút nhựa cây trầm hương hòa với bọt biển để
làm tổ. Cuối thế kỷ XVIII, cha Richard, người Pháp, cũng
lặp lại ấy trong cuốn
Histoire civile et politique du Tonquin:
ông giải thích bọt biển và nhựa trầm hương trộn lẫn
với nhau, khô cứng thì biến ra một chất trong suốt, trắng
khi còn tươi, trở thành vàng xanh khi khô hơn. Ông đồng ý
với các giáo sĩ dòng Tên, những người đã xem xét cặn kẽ
tổ chim, là nhựa trầm hương đã chuyển qua tổ yến những
tính chất cùng khẩu vị ngon lành, mùi vị êm dịu.
Qua
thế kỷ XIX, lý giải thức ăn của chim có phần thay đổi
trong kiến thức các học giả. R.P. Lesson lặp lại nhận xét
của Wurmb đã khảo sát ở Java, nhất trí là chim ăn sâu bọ,
côn trùng, nhưng khi cần làm tổ thì lượm lặt vật liệu
trên mặt biển rồi vận dụng nội tạn thanh lọc, trộn nhào
với với nước nhầy thành một chất dẻo. Home là người
đầu tiên giải phẩu cơ thể chim yến nhưng rủi ro đi đến
kết luận sai là những tuyến bao tử đã cho phát tiết chất
dẻo. Bernstein nhận thấy những tuyến dưới lưỡi phát triển
phồng to lanh chóng và phát hiện chúng có khả năng phát tiết
một thứ nước nhầy để khô giống hệt vật liệu tổ chim.
Ông tả cách làm tổ của chim rất tường tận. Các tuyến
cho dồn vào phần trước mỏ chim chất nhầy vừa nhớt vừa
chảy thành dây. Khi muốn xây tổ, chim lấy đầu lưỡi cho
rải vào hốc đá đã chọn một lớp nước bọt, lặp đi
lặp lại mươi, hai mươi lần, vẽ thành một hình móng ngựa.
Chất nhầy khô rất mau. Trong lúc vận dụng quanh tổ, thế
nào cũng có một vài sợi lông dính vào. Các tuyến phồng
lớn gây ít nhiều kích thích và chim vừa ép vừa cọ để
dốc hết chất nhầy ra ngoài. Nếu có thương tổn, vài giọt
máu trộn vào nước bọt nhuộm đỏ tổ chim (1).
Thành
phần tổ yến
Tuy
nước bọt là nguyên liệu chính của tổ chim, thức ăn của
chim cũng rất quan trọng trong chất lượng của tổ. Rong tảo
như Alga coralloides, Fucus edulis, Gelidium
đã được Rumph
rồi Dorvault nhắc đến. Tuy vậy, nhận xét không có vật liệu
thực vật trong tổ đã được nhiều nhà khảo cứu xác nhận.
Mudler phân tích ra được 90% vật liệu động vật. Tollens,
nhân khảo sát những carbohydrat, phát hiện một chất đường
kết tinh được, lên men được, rất giống glucose mà Green
đã thành công chiết xuất. Payen cho chất nầy là cubilose (từ
cubile có nghĩa là tổ), một chất albuminoid trung hòa phát tiết
trong thời gian tình ái, phân phối không đồng đều trong các
tổ. Người ta chỉ thấy nó có nhiều hơn trong các tổ trắng
và chắc chắn nó không phải mượn từ rong tảo vì có tính
chất hoàn toàn khác với gelose là chất dẻo thực vật. Ngày
nay, khảo sát tuờng tận tổ chim yến, các nhà vạn vật học
nhận ra một hệ thống chằng chịt những dây sợi tương
tự như một chất dẻo đóng cứng sắp đặt thành từng lớp
mỏng đồng tâm có thể tách rời khi để ngâm lâu. Những
sợi dây nầy chính là nước bọt của chim đóng cứng. Màu
sắc của nó trăng trắng, nhưng thường thì ít nhiều nhuộm
màu vàng lạt thêm chút màu sắt rỉ.
Loại
"chim yến tổ trắng" Aerodramus. fuciphagus germani sống
ven miền biển Việt Nam làm tổ từ cuối đông đến suốt
mùa xuân, đẻ trứng giữa tháng 3 và tháng 5 trong một thời
gian 10-15 ngày và ấp trứng trên dưới 25 ngày, trung bình 2
trứng một tổ (15). Khi tổ và trứng bị lấy mất
thì nó lại làm lại tổ một lần thứ nhì. Lần nầy người
ta để chim nở ra trước khi lấy tổ. Một bản báo cáo công
bố khảo cứu được thực hiện ở vùng Khánh Hòa trên một
nửa triệu chim cho biết nặng 7-10g, dài 9-10cm, con cái to hơn
con đực, chim thường bay kiếm thức ăn cách hang tổ chừng
200 km, ở cao độ 800 m, trừ mùa nuôi chim con thì không xa quá
80 km, có khi ở cao độ 50 m và ngay ở bầu trời trên hang
tổ. Để khảo sát thức ăn của chim, có hai phương cách:
một đằng là mổ bụng chim, đằng kia tìm kiếm trong tổ
những đồ chim đã mang về cho con trong cái bọc dưới lưỡi.
Chim chỉ bắt ăn côn trùng khi đang bay, có khi sát bụi để
bắt nhện chẳng hạn trong mạng, nhiều nhất là những sâu
bọ cánh màng
Hymenoptere (trừ thời gian mối bay có nhiều),
ít hơn là sâu bọ hai cánh
Diptere, cùng một số sâu
bọ lặt vặt khác như sâu bọ cánh giống Homoptere hay
sâu bọ cánh đều Isoptere. Số sâu bọ nầy có phần
lớn trong thức ăn đem về cho con, 2 lần mỗi ngày, tỷ lệ
khác nhau tùy mùa, số lượng (0,3-1g) tùy tuổi chim con. Nhận
xét nầy cho thấy chim yến biết chọn lựa côn trùng bắt
ăn. Mặt khác, một con trong tổ thì ăn nhiều hơn hai con (3-4
lần mỗi ngày) từ đấy lớn lên mau hơn và cũng ít chết
hơn. Khảo sát một số ít "chim yến tổ đen" A. maximus
cũng ở Khánh Hòa cho thấy nó ăn sâu bọ cánh màng nhiều
hơn, thêm nữa vì lớn con hơn, nó bắt những mồi lớn hơn
như ong hoang, kiến bay. Có loại chim én Hirundo rustica
thì chỉ săn mồi dưới cao độ 30 m, gần mặt nước ao, hồ,
đồng ruộng .... (22).
Mặc
dầu là một món ăn bổ dưỡng quý báu biết đã lâu ngày,
cuộc khảo cứu sâu xa thành phần tổ yến chỉ được thực
hiện những năm gần đây. Phần hữu cơ gốm có 45% protein
và 24% carbohydrat kể cả các chất đường (11). Dùng
nước chiết xuất, ly tâm rồi cho đông khô thì được 10
amin acid và, sau khi cho tác dụng với HCl, hexoamin cùng
đường: những glycoprotein có tính chất ức chế cuộc chế
tạo cuộc kết dính máu do myxovirus gây ra và cũng là một
chất nền cho enzym mang tên neuromidase (2,4). Đem glycoprotein
nầy cho cảm ứng vào Anthrobacter sialophilum
nuôi trồng
thì sản xuất được neuromidase (7). Dùng phưong pháp
điện chuyển thanh lọc glycoprotein, một công trình khảo cứu
khác cặn kẽ hơn phát hiện được 17 amin acid, theo thứ tự
nhiều ít: (30,4 - 0,4 microM/100g) serin, prolin, glutamic acid, threonin,
aspartic acid, valine, glycin, leucin, arginin, alanin, phenylalanin, isoleucin,
lysin, tyrosin, histidin, ½ cystein, methionin (4,6). Phần
glucidic gồm có galactose, mannose, glucosamin, galactosamin và sialic
acid. Acid nầy hoàn toàn được phóng thích khi xử lý với
neuromidasecủa Clostridium perfringens hay Diplococcus pneumoniae
(6).
Đem thanh lọc phần nước chiết tổ chim C. fuciphaga ở
Mã lai qua Sephadex thì xác định được một trọng lượng
phân tử khoảng 100.000 - 500.000, gồm có 18,5% saccharid và 45%
protein. Xử lý với H2SO4, saccharid táchra
(%) fucose, mannose (8,9) và galactose (63,7). Xử lý với HCl, một
số amin acid đã được xác định, nhiều nhất là (%) : aspartic
acid (11,7), serin (10,7), valin (10,2) và threonin (10,1)(8).
Trước đây, tác giả nầy dùng NaI cắt đường đã đạt
được 24% agarose và 76% agaropectin (5).
Trong
khoảng 20 năm gần đây, nhiều nhà khảo cứu muốn biết cặn
kẽ hơn các oligosaccharid, đặc biệt những liên kết O và
N-glycosidic của glycoprotein nước bọt chim yến, một nguồn
vật liệu giàu carbohydrat
(12). Dùng phương pháp sắc
phân đông băng, họ tìm ra những cấu chất của phần carbohydrat
(ít nhất cũng 35% trọng lượng) trong chất dẻo sialomucin là
L-fucose, N-acetylneuraminic acid, galactose, mannose, N-aceyl galactosamin
và N-acetyl glucosamin theo tỷ lệ 1:17:29:3:17:13. Những liên kết
O và N-glycosidic giống hệt với các cấu tạo ở glycophorin
của bò, mucin cuốn phổi và mucin dạ dày của người hay của
chó, ngựa, cừu, globulin miễn dịch của người hay k-casein
của sữa non (9,14). Nhận thấy yến sào thường được
dùng vào các thang thuốc chống khối u dạ dày, nôn mửa ra
máu, suy nhược hay bồi dưỡng cho con trẻ gầy gò ốm yếu,
nhiều nhà khảo cứu chú trọng về nhân tố sinh trưởng biểu
bì EGF (Epidermal Growth Factor). Là một peptid có trọng lượng
phân tử khoảng 6.000-8.000, EGF kích thích việc tăng sinh các
mô, tế bào biểu bì và biểu mô, kích thích thymidin và những
amin acid sáp nhập những nguyên bào sợi tơ con người gây
sinh cuộc phân chia tế bào. EGF đã đuợc tìm ra trong nhiều
mô động vật như chó, mèo, khỉ, bò, cừu, chồn, thỏ, heo,
chuột gà, ếch, nhái, ở đây các tác giả chứng minh có EGF
ở chim chóc, từ đấy lần đầu tiên tin là có thể dự kiến
hợp lý việc dùng tổ chim yến làm thuốc chữa bệnh (11).
Glycoprotein yến sào còn có khả năng tăng cường cuộc kích
thích phân bào ở bạch cầu máu ngoại vi với concanavalin A
hay phytohemaglotinin A. Như vậy, yến sào có thể tác động
lên nhiều yếu tố sinh lý học để trở thành một môn thuốc
hiệu nghiệm (10). Tuy vậy, cũng nên biết trong yến
sào còn có một chất ức chế serin protease có thể gây phân
vệ nơi con trẻ đưa đến dị ứng
(20).
Công
dụng yến sào
Yến
sào được dùng trong nhiều thang thuốc. Theo tục truyền, tính
chất quý của nó là kích dục, vì vậy một số đông người
Trung Quốc dùng nó trong mục đích nầy. Ở bên nước ấy,
những người hút thuốc phiện ăn nó buổi sáng để lấy
lại sức. Họ tin là yến sào củng cố lưu thông, nuôi dưỡng
huyết tương, làm ẩm bộ máy hô hấp cũng như da thịt, tiếp
tế năng lực đời sống, bồi dưỡng sức khỏe, giúp ích
chuyển hóa, hấp thu thức ăn của cơ thể. Tụ kết khí âm
dương trong vũ trụ mà thành, được gọi là tâm dịch, huyền
tương, ngọc dịch, nó có tác dụng điều hòa khí huyết,
bồi bổ lục phủ ngũ tạng, tăng dinh dưỡng toàn diện cơ
thể, làm cho trí não minh mẫn, thân thể cường tráng, mặt
sáng, tai thông, .... thật là một vị thuốc cải lão hoàn
đồng, hồi xuân cường lực (18). Thật vậy, trong
Bản thảo cương mục thập di (1765) đã có ghi tính chất
của yến sào là vị ngọt, tính bình, vào hai kinh phế và
vị. Tác dụng của nó là nuôi phế âm, tiêu đờm, hết ho,
nên thường dùng chữa hư hao, ho lao, hen suyển, thổ huyết,
sốt từng cơn (ĐTL). Sách Đạt nguyên giải thích tổ
yến là hải phẩn từ khí trong và gió mát mà ra: như vậy
nó tăng cường kim tương ứng với phế và thủy liên hệ
với thận. Những sách Hứa cẩn trai, Tùng tân, Việt lục
đều có nêu lên những đức tính ấy của tổ yến. Những
sách Hương tổ bút, Hoàn du bút ký nhấn mạnh
về những tổ chim đỏ, yến huyết sào, vì có máu của
chim, rất hiếm. Ngày nay còn lại nhiều thang thuốc bổ duỡng
như Truyền thi lao trái hoàn: yến huyết sào (5 lượng),
tử hà xa (tức là nhau người, 2 cái), ngưu hoàng (sỏi mật
bò, 1 lượng) và cáp giới (thằn lằn bay, 2 con) nghiền thành
bột rồi trộn với mật ong, nhồi thành viên lớn cỡ hạt
sen, ăn mỗi tối 20 viên trong luông 10 ngày (1). Người
ta còn bảo yến sào có tính chất chống già, gia hạn đời
sống. Những nhà hàng Hồng Kông quảng cáo nó có khả năng
chữa bệnh lao phổi, ung thư, SIDA và giúp bệnh nhân đã được
chữa bằng bức xạ mau phục hồi (16).
Bên
nước ta, yến sào thường được dùng dưới dạng thuốc
sắc, 6-12g mỗi ngày: cho vào túi vải, thêm nước đun sôi,
để lắng mà uống (ĐTL). Nhưng chim yến không chỉ có thành
phần cấu tạo tổ là quý. Bên cạnh còn có những tạp chất
cũng được dùng làm thuốc. Yến nhục thảo là mốc
meo mọc trong tổ bị ẩm ướt. Lương y Tàng Khí trong sách
Trung Việt dược
kê nó có khả năng ngừa đái ban đêm.
Lương y Lý Thời Trân dùng nó trong thang thuốc Thiên kim
phương để chữa chứng đái đường. Yến phẩn,
tức là cức chim, có tính chất giải độc. Người ta nghiền
nó với hành thành viên to bằng hột bắp, uống mỗi ngày
3 viên, gây ra bài tiết nước tiểu đưa luôn chất độc ra
ngoài. Sào yến nội tử là chim yến chết trong tổ,
có đặc tính chữa ho lao, phổi kiệt. Xác chim sạch lông được
đốt với tổ rồi nghiền thành viên để dùng (1).
Tuy
được dùng làm thuốc, độc đáo của tổ yến vẫn là món
ăn. Điều cần thiết trước tiên là phải thanh lọc tổ.
Như trên đã thấy, dùng kim, móc đãi rác, phẩn lông chưa
đủ; ở nhà bếp thường phải ngâm nó trong một thể tích
nước lớn gấp mười thể tích tổ, khoảng một, hai tiếng
đồng hồ cho đến khi sợi yến tơi ra. Thời gian nầy phụ
thuộc độ keo dính của sợi, từ đấy chỉ định luôn chất
lượng của tổ. Sau đấy phải nhào trộn sợi yến với dầu
phụng để tách những lông tơ cuối cùng, rồi dùng nước
rửa nhiều lần dầu ấy. Nếu cần, phải lặp lại nhiều
lần cách rửa nầy. Khi đã sạch hết lông, yến sào mới
được đem đi nấu ăn. Có nhiều cách ăn yến sào, phần lớn
món nào cũng nấu chưng cách thủy. Người ta thường nấu
cháo yến với thịt gà hay thịt bò. Có thể nấu bồ câu
non với yến sào gọi là bì câu tân yến sào: bồ câu
phải hầm chín rồi mới cho thêm tiêu, muối, gia vị và yến
sào, mỗi con chim một tô. Ai thích ăn ngọt thì nấu chè yến:
cứ 750 ml nước bỏ vào hai tổ yến, nếu có nên dùng đường
phèn. Cũng có thể nấu chè yến với hột sen: cứ một tổ
dùng khoảng 30 hột sen, đường cân bằng nửa hột sen, nước
thể tích bằng 7-8 lần hột sen.
Một
chất thuốc độc đáo, một món ăn ngon bổ như vậy, tất
nhiên yến sào là một món hàng quý báu, đắc tiền. Từ xưa,
trong sách vở Trung Quốc, người ta đã xếp yến sào tùy theo
màu của tổ: đen, trắng và đỏ. Cả ba đều ăn được nhưng
tổ trắng quý hơn tổ đen, tổ đỏ còn quý hơn thì dành
để làm thuốc. Cả một thời, yến sào Hội An đã nổi tiếng
không những ở nước ta mà còn qua cả Trung Quốc là nơi tiêu
thụ nhiều. Nó được xếp làm ba hạng: quan yến sào,
hay quan tự yến sào tức là tổ yến quan, màu trắng
ngà, dày, lớn, hạng nhất;
thiên tự yến sào tức là
tổ yến trời, màu xanh da trời, ít dày hơn, hạng nhì; địa
tự yến sào tức là tổ yến đất, màu vàng hay đen, mỏng
và nhỏ hơn, hạng ba. Thường người ta cho tổ gỡ lúc chim
còn ở, quý hơn tổ trống vì các tổ nầy đã nhuốm màu
vàng lại thêm chứa đựng đủ thứ tạp chất như rác, lông,
phẩn,.... Ngoài ra còn có các loại bài tự yến sào hay
yến
bài là tổ chưa làm xong, mao yến là tổ vừa mới
làm xong và yến huyết sào là tổ có tẩm máu vì, như
đã thấy, được chim làm vào lúc vô cùng mệt mỏi, phải
nổ lực đến quỵ sức. Loại tổ sau nầy hiếm nên được
cho là có giá trị, nhất là người ta tin chúng có những đức
tính y học như chữa bệnh lao phổi và những chứng suy sút
tinh thần
(1).
Trên
thế giới ngày nay, nhiều nước tiêu thụ và nhập cảng yến
sào; năm 1991: (kg), Canada (395), Đài Loan (2.095), Nhật Bản (2.811)
và chiếm kỷ lục là Hồng Kông (124.093). Nơi vừa nhập cảng
vừa xuất cảng, Hồng Kông là ngã ba thị trường. Trong khoảng
30 năm, số nhập cảng đã tăng 30 lần và năm 1988 đạt mức
tối cao 161.000 kg. Tính số tổ thì Hồng Kông nhập cảng 19,9
triệu cái năm 1989, sụt xuống 18,7 triệu năm 1990 và chỉ
còn 17,5 triệu năm 1991. Những con số nầy xem gần như là
số hàng lưu động toàn thế giới, ngoại trừ số tiêu thụ
nội địa. Giá tiền mua thay đổi tùy xứ, lẽ tất nhiên
phụ thuộc chất lượng tố yến, chẳng hạn như giá yến
của các nước tại Hồng Kông năm 1991: (USD/kg) Mã Lai (216,77),
Tân Gia Ba (224,14), Thái Lan (472,39), Nam Dương (573,88), Miến
Điện (A1.010,18) và đắt nhất là Việt Nam (1.333 ,04) vì
yến nước ta được xem thuộc loại "trắng", hảo hạng. Giá
yến ngày càng tăng vì ở nhiều nước sản xuất, chim dần
dần bị tiệt nòi: tăng gấp 20 lần từ 1975 đến 1991 và
trong những năm gần đây ước lượng tăng gấp 10 lần chỉ
số lạm phát (16). Vào đầu thế kỷ 21, giá mỗi
kilô đã đạt đến 5000 USD.
Vài
con số, tuy tương đối cũ, cũng nói lên phần nào thị trường
quan trọng của yến sào và đánh một tiếng chuông báo động
cho nòi giống chim yến. Liệu rồi những "trại nuôi chim yến
bán thuần dưỡng" đặc biệt ở Pak Phanang bên Thái Lan, có
bù đắp được gì không ? Và Quy ước Thương mãi về những
loài Động vật và Thực vật Hoang dã (Convention on International
Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora CITES) sẽ bảo vệ
được phần nào chim yến ? Nhu cầu tăng nhiều, tổ chim
ít lại, giá cả mặc sức leo thang. Chính những nhà buôn bán
yến sào cũng muốn có một cuộc hợp tác quốc tế để bảo
đảm một mức độ thương mãi vừa phải hòng tồn tại lâu
dài một nguồn lợi thiên nhiên quý báu. Đằng khác, những
người sinh sống nhờ yến sào, những người vui thú thưởng
thức hương vị tô cháo, chén chè tổ yến, có nghĩ đến
chăng khi người "hái yến" lại gỡ tổ, cướp bóc tàn phá
hang yến là gây khổ đau cho những sinh vật sống chung thủy
hiếm có với nhau trong tình nghĩa vợ chồng giữa thiên nhiên,
suốt đời tận tụy làm tổ nuôi con, không hề lại gây phiền
hà, phá phách, tuyên chiến với con người? ".... Nếu một
trong hai vợ chồng chết trước thì con chim còn lại không
bao giờ đi tìm một bạn tình khác, nó cứ sống vậy cho đến
khi lìa bỏ cõi đời hoặc lao đầu vào vách đá chết cùng
nhau. Trong bầy đàn yến không bao giờ bay vượt lên đầu
những con khác và yến chỉ có duy nhất một quê hương. Dù
có đưa yến đi bất cứ đâu xa ngàn trùng cuối cùng nó cũng
quay về nơi cũ. Đấy mới là điều làm chúng ta cảm phục
và trân trọng" (17). Cuốn phim tài liệu "Yến và
người" của nhà đạo diễn Văn Lê đã đề cao những đức
tính của chim yến cần phải được phổ biến, xem như là
góp phần vào việc giáo dục con người.
Yến
làm tổ mà không đặng ở,
Ong
làm mật mà chẳng đặng ăn!
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 3(21) 1998,
vietsciences
07.2007
Tham
khảo
1-
A. Sallet, Les nids d'hirondelles, Bull. Amis Vieux Hué (1)
17
(1930) 1-79
2-
C. Howe, L.T. Lee, H.M. Rose, Collocalia mucoid: a substrate for myxovirus
neuraminidase,
, Arc. Biochem. Biophys. 95 (1961) 512-20
3-
Đại Nam nhất thống chí Thừa Thiên Phủ, dịch giả
Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài
Gòn, tập hạ (12) (1962) 83
4-
R.H. Kathan, D.I. Weeks, Structure studies of Collocalia mucoid. I.
Carbohydrate and amino acid composition, Arc. Biochem. Biophys.
134
(1969)
572-6
5-
M. Oda, Biochemical studies on mucilages. I. Separation and chemical
characteristics of enso, Nagasaki Igakkai Zasshi (4) 48 (1973)
233-40
6-
N. Houdret, M. Lhermitte, P. Degand, P. Roussel, Purification et étude
chimique d'une glycoproteine de Collocalia, Bioch.57
(1975)
603-8
7-
M. Flashner, S.W. Tanenbaum, Neuraminidase, Ger. Offen. US.
2,651,200 (1978) 26 tr.
8-
M. Oda, Saccharides and amino acids of the mucoid in an edible bird's
nest, Nippon Shokuhin Kogyo Gakkaishi (4) 30 (1983) 221-7
9-
F.G. Hanish, G. Uhlenbruck, Structural studies on O-and N-glycosidicaly
linked carbohydrate chains on Collocalia mucin, Hoppe-Seyler's Z.
Physio. Chem. 365
(1984) 119-28
10-
M.H. NG, K.H. Chan, Y.C. Kong, Potentiation of mitogenic response by
extracts of the swiftlet's (Collocalia) nest, Biochem. Int.
(3) 13 (1966) 521-31
11-
Y.C. Kong, W.M. Keung, T.T. Yip, K.M. Ko, S.W. Tsao, M.H. Ng, Evidence
that epidermal growth factor is present in swiftlet's (Collocalia) nest,
Comp.
Biochem. Physiol. (2) 87B (1987) 221-6
12-
J.M. Wieruszeski, J.C. Michalski, J. Montreuil, G. Strecker, Structure
of the monosialyl oligosaccharides derived from salivary gland mucin glycopreteins
of the Chinese swiftlet (genus Collocalia), J. Biol. Chem.(14)
262
(1987) 6650-7
13-
Nguyễn Quang Phách, Về giống Collocalia (Apodidae) ở Việt
Nam, Tạp chí Sinh học (10) (1991) 33-6
14-
G. Strecker,
J.M. Wieruszeski, O. Cuvillier, J.C. Michalski, J.
Montreuil, 1H and 13C-NMR assignements for sialyated
oligosaccharide-alditols related to mucins. Study of thirteen components
from hen ovomicin and swallow nest mucin, Biochem.74
(1992)
39-52
15-
Nguyen Quang Phach,
The breeding biology of the edible-nest swiftlet
Collocalia fuciphaga germani Oustalet 1878 in Viêtnam, L'oiseau
et R.F.O. (2) 62
(1992) 149-61
16-
S.M. Lau, D.S. Melville, International trade in swiftlet nests with
special reference to Hong Kong, Traffic International, A traffic
network report (1994) 35 tr.
17-
Thanh Huyền,
Yến và người, Điện ảnh Kịch trường
49
(1997) 13
18-
Vũ Hữu Sự,
Yến sào - Nghề và nghiệp trong Chuyện
đời thường mà không thường, nxb Công an nhân dân,
Hà Nội (1998) 210-7
19-
M. Oda, S. Ohta, T. Suga, T. Aoki, Study on food components: the structure
of N-linked asialo carbohydrate from the edible bird's nest built by Collocalia
fuciphaga, J. Agric. Food Chem. (8) 46
(1998) 3047-53
20-
K. Ou, T.K. Seow, R.C.M.Y. Liang, B.W. Bee, D.L.M. Goh, K.Y. Chua, M.C.M.
Chung, Identification of a serine protesase inhibitor homologue in bird's
nest by an integrated proteomics approch, Electrophoresis (16)
22 (2001) 3589-95
21-
Nguyen Quang Phach, Vo Quang Yen, J.F. Voisin, The white-nest swiftlet
and the black-nest swiftlet, Ed. Boubée,
Paris (2002) 297 tr.
22-
J.F. Voisin, Vo Quang Yen, Nguyen Quang Phach, L'alimentation de la
salangane à nid blanc Aerodramus fuciphagus germani au Viêt Nam,
28ème Colloque francophone d'ornithologie, Namur 28-30
nov. 2003. |