Cà
cuống chết đến đít còn cay !
Ca
dao
Bên
nước ta có nhiều loại cà. Trừ cà kheo, cà mèn, cà rá, cà
ròn, cà sa, cà vạt,.... những cà bát, cà dái, cà dại, cà
dừa, cà độc dược, cà gai, cà hoang, cà hôi, cà lào, cà
na, cà ổi, cà pháo, cà quánh, cà quinh, cà tím, ngay cả cà
rốt, cà phê .... nhập khẩu thuộc loài thảo mộc, còn những
cà ghim, cà kếu, cà niễng, cà tong, .... thì lại thuộc loài
động vật. Trong số nầy, cà cuống, còn g†i sâu qu‰, là
một côn trùng được nói đến nhiều nhất. Trước ở miền
Bắc, nay phổ biến khắp nơi, dầu cà cuống hương mùi độc
đáo, có người cho cay đắng, nhưng giõ một vài giọt vào
bát phở, tô bún thì lại nâng cao mùi vị của món ăn. Ở
Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ thể làm thức
ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar qua Trung Hoa, Singapore, Indonesia
(14).
Người Tàu ăn cà cuống luộc thêm một chút muối ở Quảng
Châu hay xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore,
fwai fa
shim im là một món cà cuống rất được ưa thích
(3).
Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn
toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh và những bộ phận
xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh,
nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda
để ăn với cơm hay rau (14).
Ở
ngoài Bắc, cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi
hấp cách thủy trong một cái chõ hay nướng trên lò than để
ăn ; cũng có khi để nguyên con còn cả vỏ chitin đem thái
nhỏ rồi xào mỡ để ăn ngay hay ướp muối để tích trữ.
Người biết thưởng thức không sao quên được hương vị
cà cuống thịt. "Bỏ cánh đi rồi, anh nhần nhần sáu cái
chân nó, lấy cái đầu, xé ra nhấm nhót cái ức trước rồi
cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon khác hẳn các
món ăn ngon nào khác: nó nhận nhận, bùi bùi, beo béo mà lại
thanh thanh, một người tục có thể ăn cả trăm con mà không
biết ngán"
(6). Cà cuống sinh trưởng ở dưới nước,
tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch, sống bằng trứng cá
và các loài nhuyễn thể. Mùa cà cuống vào tháng 10 âm lịch,
sau vụ gặt lúa mùa ở các đồng ruộng, ao hồ. Tháng 7-8,
ban đêm cà cuống thường bay vào các nơi đèn sáng (6).
Trứng cà cuống lượm trên các thân cỏ dưới nước. Con
trẻ thường thích ăn trứng cà cuống sống hay nướng. Để
bắt cà cuống, người ta thường dùng những dụng cụ đánh
cá như lờ, đó, rưu, dậm. Ở Thái Lan và Việt Nam, cách dùng
đặc biệt cà cuống cay là chiết xuất tinh dầu của nó để
làm tăng hương vị món ăn, cuốn, thang, bánh chưng, nước
mắm (1). Thạch Lam, thời tiền chiến, đã thi vị
hóa món ăn: "Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm
ngát, lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như
một nghi ngờ"
(2).
Vũ
Bằng, một nhà văn quê ngoài Bắc vào sống trong Nam, luôn
nhớ đến cà cuống và cho nó là một gia vị quý hơn cả
bát trân. Ông kể trong cuốn Thương nhớ mười hai :
" Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước
ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ lùng,
ông ta gửi dâng vua Hán một mớ và gọi là quế đố
nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng
nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần
mỗi người một con. Bất ngờ, trong đám có một ông lắm
chuyện lại tâu rằng : Đó không phải là con sâu sống trong
cây quế, mà chỉ là một con sâu sống dưới nước, thủy
đồ ". Vua mới phán rằng : "Thử nãi Đà chi cuống dã
" nghĩa : đó là lời nói láo của Đà. Từ đó cà cuống thành
ra đà cuống. Nó còn có một tên nữa là long sắt nghĩa
là rận rồng " (6). Trước đó hơn một nửa thế
kỷ, sự tích nầy đã được cụ Nguyễn Công Tiễu, tốt
nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm nghiệp Đông
Dương, cán sự Sở Công nghiệp, kể lại trong Tạp chí
Kinh tế Đông Dương
(1)với lời phán của vua
Tàu có phần khác: "Nam Việt hà nhân quế đố, anh hùng vị
tất bất khi nhân " vẫn cùng hàm ý chế nhạo.
Cà
cuống là một loại côn trùng Belostomatidae sống dưới
nước thuộc họ Cryptocerate, bộ cánh khác Heteroptera,
lớp cánh nửa Hemiptera. Nó mang tên khoa học Belostoma
indica Vitalis hay Lethocerus indicus Lep. et Serv. Khi non
giống như con dán, mình dài 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có
nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng
là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có
6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên
có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng. Khi mỗ cà cuống,
ta thấy nó có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm
có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình
to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước
nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt
vào được. Nếu lấy tay rút mạnh hai ngòi nầy thì cả bộ
tiêu hóa của cà cuống có thể bị lôi ra ngoài. Ở dưới
ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà
cuống. Mỗi bọng dài 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa
một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con
đực mới có tuyến nầy phát triển.
Muốn
lấy dầu cà cuống, người ta áp bụng cà cuống xuống phía
dưới, để phía lưng lên, lấy một que tre đầu vót nhọn,
đem rạch ngang lưng nơi tiếp giáp với ngực, nghĩa là ở
vị trí đôi chân thứ ba, sau đó gấp bụng cà cuống xuống,
tức khắc hai cái bọng dầu cà cuống sẽ lòi lên phía trên.
Lấy đầu tre nhọn khều hai cái bọng này ra, dùng ngón tay
khẻ bỏ bọng vào bát hay chén. Khi được nhiều bọng, chích
bọng cho dầu thoát ra khỏi bọng. Vỏ bọng được loại bỏ
đi, nếu không, để lâu dầu cà cuống sẽ có mùi hôi. Tinh
dầu cà cuống là một chất lỏng trong như nước lọc. Để
ngoài không khí rất dễ bay hơi do đó dầu cà cuống cần
đựng trong lọ nhỏ, nút kín. Tùy theo con to, nhỏ mà tinh dầu
có nhiều hay ít. Trung bình một con cho 0,02 ml, 1.000 con đực
mới thu được chừng 20ml.
Dầu
cà cuống, nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt
giông giống như mùi quế. Ông Trịnh Văn Hợi, kỷ sư hóa
học ở Phòng Thí nghiệm Nông học ở Hà Nội, không có phương
tiên phân tích, đoán chất dầu có thể là amyl valerianat (1)
. Năm 1957, nhân được Ban Khoa học Kỹ thuật và Văn hóa Tòa
Đại sứ Pháp cấp học bổng, kỷ sư Nguyễn Đăng Tâm, nay
đã qua đời, qua Đức dự thảo luận án tiến sĩ tại phòng
thí nghiệm của giáo sư Adolf Butenandt tại Viện Sinh vật học
Max-Planck ở Tubingen-München. Vào hồi đó, giáo sư Butenandt
và các cộng sự viên đã khảo cứu nhiều về các chất hấp
dẫn tính phái pheromon, đặc biệt của bướm tằm hay bạch
cương tàm Bombyx mori L. Bắt đầu từ 2-hexenol, họ thấy
càng tăng gia dãy carbon và các dấu nối đôi như trong các
chất 2,4-hexadienol hay 2,4,6-octatrienol, sức hấp dẫn lại càng
lớn. Nhiều văn bằng sáng chế mang tên ông và các nhà cộng
sự đã đề nghị dùng, hoặc một mình, hoặc trộn lẫn với
các chất diệt trùng, những chất hấp dẫn tính phái như
tetradecadienol, pentadecadienol, hexadecadienol,.... (4). Đến
phiên anh Tâm lấy tinh dầu cà cuống làm nguyên liệu. Sử
dụng những phương pháp phân tích mới mẻ nhất hồi ấy,
anh phát hiện được thành phần chính của dầu là phân tử
E-2-hexenol acetat (E = entgegen hay trans là một trong hai thể của
dấu nối đôi giữa hai carbon 2 và 3, dạng kia là Z = zumammen
hay cis). Để hoàn thành luận án, anh còn đề nghị một phương
pháp nhân tạo tổng hợp phân tử ấy từ butyraldehyd và ethyl
malonat trong môi trường pyridin (5). Hexenol acetat chế
tạo ra, độ sôi 168-170°, chỉ số khúc xạ n25D
= 1,4160, cũng có dạng E như chất thiên nhiên (7).
Nhưng
chất anh Tâm tìm ra được không phải độc nhất trong dầu
cà cuống mà chỉ là thành phần lớn nhất. Bảy năm sau, ở
Hà Lan, nhờ máy sắc ký khí tinh xảo hơn, V. Devakul và H. Maarse
khám phá ra dầu cà cuống chứa đựng cả một chục chất
khi khảo sát sắc khí phổ. Ngoài hexenol acetat, họ xác định
được một thành phần khác, tương đối ít hơn, là 2-hexenol
butyrat cũng ở dạng E (8). Ngoài ra, môt số amin acid
như alanin, arginin, glutamic acid, methionin, phenylalanin, tryptophan,
tyrosin, valin,.... đã được tìm ra trong nhiều bộ phận của
cà cuống trưởng thành : bắp thịt lồng ngực, màng treo dạ
dày, máu và bạch huyết, buồng trứng (9). Người
ta cũng nhận thấy chất prolin liên quan đến sự cầm giữ
và bảo quản nước thì lại vắng mặt trong máu và bạch
huyết (10). Bên cạnh E-2-hexenol acetat, chất đồng
vị Z-3-hexenol acetat đã được phát hiện trong tế bào trái
một loại táo (14), trong thân một cây mùi tây Anthriscus
nitida (18), trong lá loại đậu nành Davis (15),
trong trái nho Vitis vinifera (17), trong dầu ô liu
(11),
hay trong số các chất dễ bốc hơi của cây đậu Vigna unguiculata
(16).
Những phân tử nầy cống hiến mùi hương
(12,19)
có tính chất hấp dẫn sâu bọ (15) và đã được
hòa trộn với nhiều chất khác làm thơm thuốc thoa da hay thuốc
đánh răng (20). Đáng để ý là song song với hexenol
acetat, hexenol butyrat , những chất hấp dẫn tính phái tương
tự như E-2-octenyl acetat, E-2-decenyl acetat, .... đã được phát
hiện trong những loại sâu như
Rhoecocoris sulciventris, Biprorulus
bibax (4). Cũng nên biết là Z-hexenol có mặt trong
cây cỏ nên thường được gọi là " rượu của lá " còn
E-hexenal hiến mùi lá nên mang tên " aldehyd của lá " (8).
Người
ta nghĩ đến mùa sinh nở, cà cuống đực tiết tinh dầu làm
cho cà cuống cái ngửi thấy ngoi theo và đôi cà cuống đực
cái tìm nơi yên ổn mà giao phối. Ngoài chức năng tính phái
nấy, dầu cà cuống còn có phận sự săn mồi, bảo vệ. Khi
kiếm mồi gặp cá lớn, cà cuống lao mình bám lấy, tìm chỗ
huyệt châm ngòi chích tinh dầu vào, tức thì con mồi bị tê
liệt, lăn kềnh ra, cà cuống cứ việc bám vào mà hút máu
; hoặc khi cà cuống bị con vật khác đuổi thì phun chất
tinh dầu nầy, làm cho kẻ địch ngửi thấy mùi phải rút
lui. Trên thực nghiệm, dùng với liều nhỏ thì tinh dầu cà
cuống có tác dụng kích thích thần kinh và hưng phấn bộ
phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao thì có thể gây ngộ
độc.
Hồi
còn công tác ở Viện Hóa Học các Chất Thiên Nhiên ở Gif-sur-Yvette
(Pháp), trong phòng thí nghiệm của cố giáo sư Bửu Hội, tiến
sĩ Nguyễn Đạt Xường, nay cũng đã mất, và cộng sự viên
có chương trình khảo cứu những chất tương tự. Non 50 hexanyl,
hexenyl, hexynyl, cyclohexanyl, cyclohexenyl ester (acetat, butyrat, propionat,
hexanoat, decanoat, valerianat, benzoat, ethoxalat, theonat, furoat, nocotinat,
....) đã được nhân tạo tổng hợp dựa lên phản ứng ester
hóa các phân tử rượu với một acid chlorid. Những kết quả
không đăng báo nầy không được khai thác về mặt ứng dụng
có lẽ các chất nhân tạo nầy thoạt xem không thấy có hương
vị thơm cay, ngon lành như dầu thiên nhiên. Thật ra, ngay cả
chất hexenol acetat nhân tạo mà người Thái Lan đã khai thác
trên thương trường, hoàn toàn ròng sạch, cũng không làm vừa
ý người dùng. Phải chăng dầu cà cuống thơm ngon vì nó có
hương vị của một hỗn hợp nhiều chất mà ngoài hexenol
acetat và hexenol butyrat, ta chưa xác định được cấu tạo
các thành phần khác, tuy số lượng không bao lăm nhưng góp
phần tích cực vào hương vị dầu. Đây cũng là một đề
tài khảo cứu hữu dụng cho các phòng sinh vật học.
Một
cảnh tượng quê hương mỗi lần gợi lên biết bao thương
nhớ ở người sống xa xứ : ".... những người đàn bà bán
cà cuống ấy sở dĩ không cần rao vì họ đã có khách quen
cả rồi : có hàng thì cứ tự nhiên đem vào bán, mà đã vào
thì các bà nội trợ cứ tự nhiên mua. Người bán và người
mua cùng ngồi nhễ bọng cà cuống cho vào một cái đĩa nhỏ,
đến khi xong cả thì mới trút vào trong một cái ve nhỏ bằng
ve dầu Vạn Ứng, đậy thật kín, lấy giấy bóng bao ngoài
cái nút rồi lấy giấy quấn chặt cho không bay hơi đi mất
"
(6)
.
Nghiên
cứu và Phát triển 4(34) 2001,
khoahoc.net
07.07.2005,
vietsciences
05.2007,
chimviet.free.fr
05.2007
Tham
khảo
1-Nguyễn
Công Tiễu,
Notes sur les insectes comestibles du Tonkin, Bulletin
économique de l’Indochine, 31ème année, Nouvelle série, VIII
198
(1928) 735-794
2-
Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, nxb Đời nay,
Hà Nội (1943) 42
3-
F.S. Bodenheimer,
Insect as human food, W. Junk Publishers, The
Hague (1951) 266, 272
4-
M. Jacobson, Insect sex attractants, Interscience Publishers NewYork-London-Sydney
(1965) 39, 46, 84, 103
5-
K. Mori, Synthetic chemistry of insect pheromones and juvenile hormones,
Akadémiai Kiadó, Budapest (1979) 39
6-
Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, nxb Văn học, Tp Hồ
Chí Minh (1989) 205-10
7-
A. Butenandt, Nguyen Dang Tam, Uber eines geschlechsspezifischen Duftstoff
Belostoma indicaVitalis (Lethocerus indicus Lep.), Hoppe-Seyler’s
Zeitschrift fur Physiologische Chemie (1)308 (1957) 277-83
8-
V. Devakul, H. Maarse,
A second compound in the odorous gland liquid
of the giant water bugLethocerus indicus (Lep. and Serv.), Analytical
Biochemistry (3) 7 (1964) 269-74
9-
A.P. Saxena, Free amino-acids in the tissues of Belostoma indica (Hemiptera
: Belostomidae),
Current Science (13) 40 (1971) 355-6
10-
J. Singh, Proline metabolism in heteroptera from different environment,
Biochem.
Exper.Biol.
(2)
14 (1978) 181-3
11-
M.C. D.Gracia, J.M. Olias, R.G. Gonzales-Quijano, Volatile components
in the aroma of virgin olive-oil. III. Reproductibility of the method
used for its isolation, concentration, and separation, Grasas y
Aceites (Sevilla, Spain) (5) 31 (1980) 317-21
12-
K. Laats, V.O. Chernylshev, H. Rang, S. Viitmaa, 5-Methyl-1-(3-methylphenyl)-4-hexen-1-ol
acetate as component of scent composition, U.S.S.R. SU 81 3248309
19810105 (1982)
13-
R.G. Berger, A. Kler, F. Drawert, C6-aldehyde formation from linolenic
acid in fruiy cells cultured in vitro, Plant Cell, Tissue and Organ
culture (2) 8 (1987) 147-51
14-
R. W. Pemberton,
The use of the Thai giant waterbug Lethocerus indicus
(Hemiptera : Belostomatidae) as human food in California, Pan-Pacific
Entomologist (1) 64
(1988) 81-2
15-
S.H. Liu, D.M. Norris, P. Lyne, Volatiles from the foliage of soybean,
Glycine max, and lima bean, Phaseolus lunatus : their behavioral effects
on the insects Trichoplusia ni and Epilachna varivestis, J. Agric.
Food Chem. (2)
37
(1989) 496-501
16-
W. Lwande, P.G. McDowell, H. Amiani, P. Amoke, Analysis of airborne
volatiles of cowpea,
Phytochem., (2) 28 (1989) 421-3
17-
C. De La Presa-Owens, R.M. Lamuela-Raventos, S. Buxaderas, C. De La Torre-Boronat,
Characterization
of Macabeo, Xarel, and Paredella white wines frol the Penedes region. II.,
Amer.
J. Enol. Vitic. (4) 46 (1995) 529-41
18-
B. Muckensturm, F. Diyani, J.P. Reduron, Grilactone and other terpenoids
from Anthriscus nitida, Biochem. Syst. Ecol. (7/8) 23
(1995) 875-6
19-
X. Wan, J. Tang, X. Ding, Q. He, Free and glucosidically bound volatile
flavor compounds in hawthorn, Shipin Yu Fajiao Gongye, (2) 24
(1998) 20-6
20-
H.D. Kim, Y.H. Kim, S.Y. Yoon, Perfume composition for reducing irritation
of skin whitening agent and improving flavor in toothpaste composition
which uses peroxide and sodium bicarbonate as whitening agent, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KRXXA7 KR 2002045226 (2002)
|