Hạt
gạo làng ta - Có vị phù sa - Của sông Kinh Thầy -
Có
hương sen thơm - Trong hồ nước đầy -
Có
lời mẹ hát - Ngọt bùi đáng cay....
Trần
Đăng Khoa
Ngày
xưa, thật ra chỉ cách đây khoảng ba mươi năm, một ngưới
Pháp vùng Alsace, Jean-Marie Galliath, chuyên viên hóa học, nhân
một chuyến công tác nhân đạo ở nước Bolivia, theo dấu
một tu sĩ, ông kiếm cách tìm hiểu đời sống của người
dân bản xứ. Xúc động trước tình cảnh nghèo nàn của họ,
ông quyết định làm một cái gì để giúp ích. Cùng với
anh bạn Dodier Perréol, ông lập ra công ty Jataryi, theo
ngôn ngữ Quechua (tiếng Inca xưa) có nghĩa " Đứng dậy " giúp
người dân khai thác cây diêm mạch quinoa coi như là cơm gạo
của họ. Ông muốn xây dựng một ngành "thương mãi công bằng"
(commerce équitable) trong khuôn khổ chuơng trình Tổ chức Quốc
tế WFTO, nhắm mục đích điều hòa nền thương mãi thế giới,
bảo vệ thị trường những nước nghèo hòng đáp ứng những
nhu cầu cốt yếu của họ. Sản xuất diêm mạch của công
ty Jataryi đang trên đường phát triền: từ 40 tấn năm
1977 lên 600 tấn năm 2000. Tuy nhiên những con số nầy còn rất
khiêm tốn….Và khai thác diêm mạch đang và sẽ gây thành
vấn đề ....
Ở
nước Bolivia cũng như trong các dân tộc sống ở quanh núi
Andes Nam Mỹ, diêm mạch đuợc xem quý hơn cả cơm gạo của
ta. Tuy nhiên diêm mạch Chenopodium quinoa không phải như
thường tưởng là một ngũ cốc như lúa, bắp, mà là một
cây thuộc họ Kinh giới Chenopodiaceae gồm có một loạt
các cây kinh giới (nhọn, chổi, trắng, lai, nhiều hột) cùng
những cây diêm giác Anthrocnemum indicum, phi diệp biển
Suaeda maritima, cải đường Beta vulgaris, êpina Spinacia
oleracea,… Thường dân quê ở miền núi ăn diêm mạch
nhiều hơn dân thành thị không những vì rẻ tiền mà còn
vì trời lạnh hơn và họ nấu thành cháo ăn cho ấm bụng.
Tôi nhớ những năm 45-46 ở miền Trung quê tôi, vì quá đói,
nhà tôi nhờ mấy người anh làm công chức có được chút
gạo, mẹ tôi đem nấu cháo mấy ngày Tết phát cho dân nghèo!
Lúc trước, diêm mạch được cho là món ăn của dân nghèo,
của người bản xứ Indien, nói như quân chiếm đóng Tây Ban
Nha, tương tự khoai, bắp của ta. Điều kiện sinh sống cúa
những người nầy thật là lầm thang vì công việc nặng nhọc,
ở cao độ, trèo đèo lặng suối xa xôi từ nhà ở đến nương
ruộng, .... Muốn bán chút ít diêm mạch cũng chẳng biết bán
cho ai. Ông Teodocio Huaylliani, ngày nay làm giám đốc một xí
nghiệp 80 nhân công với một số mậu dịch hằng năm 4 triệu
euro, còn nhớ hồi đó, lúc chỉ có diêm mạch để ăn, mang
lên phố năn nỉ mà chẳng ai chịu mua. Nhiều ngưòi nản lòng
di cư đi tìm nơi trồng cây cola, may ra dễ sống hơn nhưng
nay chính quyền kiểm soát chặt chẽ nên phải trở lại trồng
diêm mạch không thỉ đi ăn xin! Tuy nhiên từ nhiều năm
nay, bắt đầu từ những nước lân cận ở Nam Mỹ như Chile,
Argentin, dần dần các nước ở trên thế giới ở Bắc Mỹ,
Âu châu, ngay cả Trung Quốc xa xăm cũng chú ý đến món ăn
quí báu nầy.
Tổ
chức Quốc tế Liên Hiệp Quốc về lương thực và canh nông
FAO kê diêm mạch vào danh sách những thức ăn đầy hứa hẹn
nhất trên thế giới như là một nguồn giải pháp trước
những vấn đề trầm trọng về nuôi dưỡng nhân loại. Nhiều
khám phá khảo cổ học cho biết diêm mạch có mặt trên mặt
đất cách đây 5000 năm nhưng chỉ được dùng làm thức ăn
khoảng 3000 năm. Tiếng Tây Ban Nha có nhiều tên gọi quanh danh
từ quinoa : quinua, quinqua, kinoa, kvinuo, jiwra hay triguillo,
trigoinca, arrocillo, swell hay lúa xứ Peru. Thời đế quốc
Inca, diêm mạch được xem như là một thức ăn thiêng liêng,
"siêu thực phẩm", một môn thuốc thần diệu. Người Inca
gọi diêm mạch là chisiya mama, theo ngôn ngữ Quechua có
nghĩa "mẹ của các loài hột". Ngày nay cây được trồng trong
nhiều nước Bôlivia, Peru, Chile, Colombi, Argentin, Equatơ. Người
ta sắp nó hoặc theo kích thước hột (lớn, vừa, nhỏ), hoặc
theo màu hột (trắng, cà phê, vàng, xám, hồng, đỏ, đen).
Trồng giữa hai cao độ 3000 và 4000m, nơi bắp không còn mọc
được, trên các cánh đồng bậc thang, tưới nước khó khăn,
diêm mạch là một cây gặt hái mỗi năm giữa 150 và 240 ngày.
Mặc dầu thời tiết, nó chịu đựng dễ dàng điều kiện
môi sinh, đặc biệt đông giá. Nó chứa trong bao ngoài hột
chất saponin, một chất diệt trùng có khả năng xua đuổi
chim chóc sâu bọ, độc và có vị đắng nên cần phải chà
xát rửa nước để loại đi mới ăn được tuy, thử trên
động vật, nó có tính chất kháng viêm, chống dị ứng, phòng
ngừa ung thư. Đáng biết là phụ nữ bản xứ dùng nước
rửa để gội đầu!
Tuy
được cho là thức ăn cốt yếu từ thời cổ đại, ngày
nay diêm mạch phải qua các cuộc đo lường phân tích mới
đánh giá được rõ ràng giá trị thực sự, khả năng dinh
dưỡng cao cả của nó so với những ngũ cốc lúa, lúa mì,
bắp, đại mạch. Lợi ích dinh dưởng của cây là độc nhất
vô nhị: 13-14% protein nghĩa là nhiều hơn bất cứ ngũ cốc
nào, nhiều glucid, ít lipid mà phần lớn là axit mỡ chưa bảo
hòa. Linolenic axit (mệnh danh oméga-3) chiếm 8% tổng số chất
mỡ của hột! Diêm mạch chứa đủ các amin acid cốt yếu
(g)/10kg: (16) tryptophan, (18) methionin, (40) threonin, (41) tyrosin,
68 (isoleucin), (76) valin, (79) phenylalanin, (79) lysin, (104) leucin,
không kém gì đậu nành. Lysin, một trong những amin acid hiếm
trong những thức ăn thực vật, chỉ có trong bắp và lúa mì,
hiện diện trong diêm mạch với một hàm lượng gấp đôi
các ngũ cốc. Diêm mạch cống hiến nhiều sinh tố: (mmg)/100g :
(6,24) ascorbic acid tức vitamin C, (1,2) niacin tức vitamin PP, (0,51)
thiamin tức vitamin B1, (0,39) riboflavin tức vitamin B2, (0,12-0,36
tùy loại) retinol tức vitamin A, một số lớn tocopherol tức
vitamin E. Các tính chất nầy là một ưu điểm cho những người
ăn trường chay. Diêm mạch chứa đựng nhiều thớ không tan
hòa cần yếu cho sự vận chuyển tiêu hóa, duy trì một chức
ruột thích đáng, đóng góp giảm hạ ung thư ruột già. Đằng
kia những thớ tan hòa giúp chữa những chứng tim mạch, tiểu
đường loại 2 nhờ điều hòa tỷ lệ cholesterol, glucose và
insulin trong máu. Ngoài ra, trong diêm mạch còn có nhiều kim
loai như sắt, đồng, kẽm, mangan, khoáng chất, đặc biệt
calci Ca, kali K, photpho P. Đáng chú ý là diêm mạch không chứa
gluten, nên bột diêm mạch không dậy, một tin mừng cho những
ai dị ứng với chất nầy.
Diêm
mạch là một thức ăn dùng đủ cách, nấu mặn hay nấu ngọt.
Là một thức ăn mang đăc tính, nó có thể dung hợp với các
thức ăn khác cũng có vẻ riêng như cà phê, sô cô la, phó
mát. Quê gốc Nam Mỹ, nó có thể hỗn hợp với các rau trái
cùng vùng như bắp, khoai, đậu đỏ, cà chua. Khi nấu chín
hột có phần dòn nên tốt nhất là cho vào thực đơn cùng
với những thức ăn mềm như cá hấp, khoai nghiền hay lê tàu,
nước xôt Béchamel (nước xốt trắng làm với kem). Như các
ngũ cốc, diêm mạch phối hợp đúng điệu với các hột có
dầu như mè (vừng), hồ đào, hột phỉ, nhân hạnh, hột đào
lộn hột. Ở Bolivia, hột được thêm vào cháo, nướng nghiền
ra bột, thêm nước thành "sửa", nấu thành "kem", thổi phồng
rồi lấp một lớp xirô bắp, lên men thành rượu bia hay chicha,
thức uống của người Inca. Sản xuất bên các nước Bolivia,
Peru, lắm khi bột bột diêm mạch được đem thay thế bột
mì. Có hương vị hạt dẻ, lẫn một chút mùi lúa mạch và
mùi bắp non, có mùi thơm hột phỉ hay hồ đào, nó được
cho chêm vào bánh mì, bánh ngọt, bích quy để tăng hương vị.
Đem trộn với bắp, khoai, bột mì, yến mạch, diêm mạch là
một thức ăn vừa ngon vừa bổ, đặc biệt cho con trẻ thiếu
dinh dưỡng. Lá cây tuy chứa chút ít nitrat và oxalat cũng có
thể ăn tươi hay nấu ăn như rau. Lá diêm mạch còn được
dùng để nuôi súc vật như cừu, lừa, lama (lạc đà không
bướu). Hột và rễ cây là thức ăn rất tốt cho heo gà.
Ngày
nay, hai nước sản xuất diêm mạch còn được gọi "hột vàng
núi Andes" nhiều nhất là Peru và Bolivia. Song những con số
đưa ra không giống nhau. Theo Tổ chức Quốc tế FAO, từ 2004
đến 2010, Peru sản xuất 41079 tấn (58% tổng số), Bolivia 29.500
tấn (41%), Equatơ 641 tấn (1%) trong khi Hiệp đoàn quốc gia
các nghiệp chủ ANAPQUI đưa ra những con số lớn hơn. Tuy nhiên
sản xuất của Bolivia có thể còn lớn hơn nữa vì từ 2005
đến 2012, diện tích trồng diêm mạch đã tăng gấp đôi,
đạt đến khoảng 70.000 hecta, xuất cảng tăng 20 lần. Vì
thiếu con số xuất cảng diêm mạch của Peru, hiện nay Bolivia
là nước được biết xuất cảng nhiều nhất, mỗi năm trên
60 triệu đôla, chiếm 70% thị trường, trước Equatơ. Một
phần nửa được gởi qua Hoa Kỳ, khoảng một phần ba qua
Au châu, 6% qua Canađa, tổng cộng 94% số lượng xuất cảng
diêm mạch Bolivia. Giá diêm mạch từ 3 euro mỗi tạ (50kg) cách
đây 30 năm bây giờ tăng lên 70 euro. Người dân bắt đầu
kêu la vì bao nhiêu sản xuất dành cho xuất khẩu, giá lại
quá cao, họ không còn mua được. Tôi nhớ một hồi ở nước
ta, người dân cũng kêu la vì chỉ mua được đầu cá, thân
cá dành để xuất khầu. Bắt đầu từ 2009, nước Pháp trồng
diêm mạch ở các vùng từ Anjou đến Poitou: giữa 2009 và 2010,
diện tích trồng tăng từ 100 lên 200 hecta. Bây giờ, Hoa Kỳ,
Brasil, Canađa cũng bắt đầu trồng diêm mạch.
Nhu
cầu diêm mạch ngày càng tăng, mới thấy như là một mối
lợi bất ngờ cho nông dân các nước vùng núi Andes. Nhưng
nhu cầu càng tăng cường thì phải sản xuất cũng phái nối
gót tăng gia. Rút cuộc diêm mạch trở thành độc canh, chiếm
chỗ những cây lương thực ở hoang mạc hay đồng bằng và
ngay cả ở đồi núi. Nhiều hậu quả mọi mặt. Về môi trường :
hưu canh giảm hạ, đất đai xấu thêm. Về xã hội: đảo
ngược di dân. Những người nghèo bỏ đồi núi đi tìm việc
làm ở thành thị bây giờ trở về lại quê sinh sống, nếu
không mua được thì muốn chiếm lại đất đai cho là của
mình lúc trước (tuy không có giấy tờ) mặc dầu đã có người
khác ra công khai thác. Và từ đây sinh ra tranh chấp! Cuộc
xung đột quyền sở hữu đất trồng giữa hai vùng Quillacas
và Coroma đã làm tám người bị thương và ông tỉnh trưởng
Potosi phải yêu cầu quân đội can thiệp Theo báo La Razon, không
phải tám người bị thương mà hằng chục người vì ném
đá và nổ mìn. Trong một diện tích 250 km2 đã có tranh chấp
vì nhiều mỏ uran giữa hai tỉnh Potosi và Oruro, rồi đây còn
thêm xung đột vì diêm mạch trong thời kỳ gặt hái. Một
hiểm họa nữa là vì giá diêm mạch tăng, muốn gặt hái mau
và nhiều, các điền chủ thực hiện thâm canh, quên bỏ kỹ
thuật truyền thống giảm hạ thời gian để cho đất nghỉ!
Người dân miền núi nước ta rất am hiểu lợi ích của cuộc
luân chuyển thời gian trồng trọt nầy.Thảm hại nay thấy
rõ không những ở nước ta mà còn ở những quốc gia lớn
như Hoa Kỳ hay Mông Cổ, để chỉ kể những nơi dễ thấy.
Một
thảm họa khác nữa là tương lai những con lama (lạc đà không
bướu) ở đồi núi mà phân bón cũng là một sản phẩm
thiên nhiên, rẽ tiền, còn tốt hơn những hoá chất nhân tạo
mà không làm hư hại đất đai. Con lama sống trên một vùng
thu hẹp cao nguyên 4000m dãy núi Andes có tiếng là một nơi
khô cằn, thiếu nước, gió mạnh, khi khô hạn, khi đông giá,
lại thêm ánh nắng mặt trời gay gắt vì ở cao độ. Như
diêm mạch, nó có một sức chịu đựng khí hậu cực độ,
và nếu diêm mạch được cho là "hột vàng núi Andes" nó được
xem là "nhà băng có chân". Một đằng càng ngày nó càng bị
diêm mạch chiếm đoạt không gian sống, đằng kia vì suy nghĩ
kém diêm mạch đem lại hoa lợi nhiều hơn, dân núi dần dần
đem bán nó lấy tiền mua phân hóa học. Rõ ràng hệ thống
mất thăng bằng vì chính lama cống biến phân bón diêm mạch
rất tốt ! Trên bờ biển muối Uyuni, ngắm làng Jiria cống
hiến một phong cảnh ngoạn mục với dưới chân đồi đỏ
rực hoa bông, xanh rờn xương rồng, những cây diêm mạch vàng
lục lay theo chiều gió trông như một bức tranh trường phái
ấn tượng, ông Faustina Moralès, 60 tuổi, than phiền làng của
ông nay giống như một làng ma! Thật vậy, trong số 50 gia đình
sống ở đây ba mươi năm trước, bây giờ chỉ còn vỏn vẹn
5. Làng đang suy tàn mà không ai chịu bỏ tiền ra trùng tu :
ai cũng chỉ muốn mua hay chiếm cho bằng được nhiều đồng
diêm mạch, ngay cả những người trước đây đã từng bỏ
làng ra đi ....
Sự
tích bắt đầu với ông Jean-Marie Galliath, xin kết thúc với
ông. Ông không có óc làm giàu, trái lại muốn làm cho và làm
với người dân Bolivia. Ông nuôi mộng lớn mua máy bơm nước,
máy kéo, máy gieo,..lập phòng thông tin, xây nhà thương, nhà
trường, nhà con trẻ,.... Nhưng ông gấp phải những chướng
ngại tuy nhỏ nhưng rầy rà. Ví dụ: có sắc lệnh bánh mì
phải chứa đựng 5% bột diêm mạch vì có bệnh thiếu dinh
dưỡng trong dân chúng, nhất là ở trẻ con, thấy rõ ở hàm
răng đen. Diêm mạch rất cần thiết và lại sản xuất ở
ngay Bolivia. Vậy mà 14 năm sau ở Bolivia vẫn không có diêm
mạch trong bánh mì vì bột diêm mạch quá đắt ! Ông không
thể thương lượng với người dân. Lúc đầu, ông nghĩ là
vì ngôn ngữ bất đồng, kiến thức tiếng Tây Ban Nha của
ông còn kém. Sau nhờ thông ngôn, ông mới phát giác ra hai tâm
tính, hai văn hóa khác nhau trên cao nguyên núi Andes. Nếu người
Quechua (Inca xưa) nghĩ "khi cộng đồng phát triển, ta cùng phát
triển", người Aymara (quê gốc cạnh hồ Titicaca, trung tâm
miền Andes) lý luận "tôi lo trước cho gia đình tôi, sau mới
đến cộng đồng". Cách lập luận nầy không xa lạ ở nước
ta. Hậu quả là có nhiều người Bôlivia đang làm giàu trong
khi vô số dân đen vẫn còn nghèo. Đáng tiếc là Bolivia cũng
như vài nước lân cận có được một cây diêm mạch quí
báu, một "hột vàng núi Andes" như họ thường nói mà không
ngững đầu lên được. Liên Hiệp Quốc tuyên bố năm 2013
là "Năm quốc tế diêm mạch" để tỏ lòng cảm phục dân
chúng vùng Andes biết giữ gìn một thức ăn trồng từ hằng
ngàn năm nay, cơ sở thực phẩm những nền văn minh xưa cổ
như văn hóa Inca. Liệu lời biết ơn nầy tác dụng ra sao lên
đời sống người dân vùng núi Andes?
Nghiên
cứu và Phát triển 1(108)2014,
khoahoc.net
03.2014
Tham
khảo
-
Quinoa, Adtech 05.2006
-
Tout ce qu’il faut savoir sur le quinoa, Magasins du monde 05.2007
-
Clara Delpas,
La graine - storming du quinoa, Libération 23.06.2009
-
Reza Nourmamode,
La fièvre du quinosa, Le point (lepoint.fr)
07.04.2010
-
Quinoa, Ekopedia 30.10.2011
-
La guerre du quinosa a commencé, Green et vert (greenetvert) 31.05.2012
-
Le quinoa, l’or contreversé des Andes, Le Monde 18.06.2012
-
Quinoa, Incanatural 23.11.2012
-
Quinoa, Wikipedia, 11.04.2013
-
C’est quoi le quinoa, Marmiton (marmiton.org) 1999-2013 |