"Đưa
ra, nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên,
chim
tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc,
lòng
nhũ hương, niŠm một dược".
Hàn
Mặc Tử
(Ra
đời - Chơi giữa mùa trăng)
Ngày
chúa Jesus ra đời, nhiều thầy pháp có tiếng thông thạo về
giáo lý cũng như những phép thuật bói toán nhờ một thiên
thể chỉ đường hướng dẫn tới Bethléem. Những đạo sĩ
nầy, tiếng La Tinh gọi magus, tiếng Hy Lạp magos,
là những nhà bác học uyên thâm về thiên văn, khoa học huyền
bí, và cũng là nhà những giáo sĩ đạo Zarathustra ở vùng
Medi, Ba Tư tức Iran bây giờ. Lúc ban đầu không ai rõ họ
bao nhiêu người, chỉ biết họ từ phương
Đông lại. Truyền
thống dân gian xếp họ giữa hai con số 2 và 12. Bức tranh
ở nghĩa địa Saint-Pierre và Marcellin ở Roma chỉ vẽ 2 người.
Sau đó, những hình trang trí ghép mảnh ở Sainte-Marie-Majeure,
Roma, cũng như ở Saint-Apollinare Nuovo, Ravenne, trình bày 3 vị
mặc áo quần giáo sĩ Mithra, đội mũ Phrygie. Chỉ đến thề
kỷ XII mới thấy phân biệt 3 người mang biểu hiệu nhà vua
với 3 tên khác nhau: Gaspard thường được hình dung là một
chàng trẻ không râu, Balthazar một ông vua
đứng tuổi và Melchio
một cụ già sói tóc, râu xồm. Truyền thống còn gán ba vua
pháp (rois mages) nầy đại diện cho 3 châu Âu, Phi, Á, dòng
dõi con cháu Noé. Truyền thuyết về họ được các nhà sử
học xem như là một cách diễn xuất Kinh thánh trong mục đích
khẳng định tính toàn năng quyền lực cứu thế của đấng
Jesus. Tình tiết lịch sử của 3 ông được thể hiện ở
nhiều tranh tượng trong các nhà thờ công giáo. Ở Paris, khách
có thể ngắm búc chạm Sự bá cáo của ngôi sao thần diệu
quanh điện nhà thờ Đức Bà, hay bức kính ghép màu Sự
tôn thờ các vua pháp trong nhà thờ Chartres
(1,2).
Theo
phong tục thời trước, khi đến trình diện một quốc vương
hay một vị thần, 3 quý khách nầy mang lại 3 món quà : nhựa
hương tiêu biểu quyền lực tôn giáo, một dược (hay
mộc dược) quyền lực tiên tri, thoi vàng quyền
lực thế tục. Đối với đấng Jesus, ba món quà nầy còn
tượng trưng những lời cầu nguyện, sự hành xác cơ thể
và tình yêu cao cả (1,2). Ngoài lịch sử của 3 vua
pháp chưa được phân giải rõ ràng, câu hỏi được đặt
ra là tại sao lại thoi vàng, một kim loại, thể hiện món
quà thứ ba chứ không phải một sản phẩm thực vật như
hai món quà kia (4)? Có thể qua truyền khẩu và dịch
thuật, một sai lầm đã xảy ra. Để biện minh cho giả thuyết
nầy, môn ngôn ngữ học cho biết từ dhb nghĩa là vàng,
trong tiếng nói Sémite phương Tây cả nam lẫn bắc, có thể
chỉ định một hương liệu màu sẫm, trái với bạc. Ở miền
Nam Arabie cũng như trong tiếng nói dân tộc Araméen, từ nầy
biểu đạt vừa vàng, vừa chất thơm. Còn trong ngôn ngữ Syrie,
tức Aram của Kinh thánh, một cây hương liệu có quan hệ với
từ dhb. Theo các tác giả nầy (4), đứng về
mặt văn ngữ học, từ zâhâbh có thể hiểu là một
hương liệu như nhựa hương, một dược, những vật liệu
được tôn thờ, chứ không phải vàng, tiêu biểu cho quyền
thế vật chất, nhất thời. Nếu thật vậy thì cả 3 món
quà đều là hương liệu.
Cũng
như ở Á Đông, các dân tộc Ai Cập, Hébreu (Do Thái xưa) đốt
nhiều chất hương sặc mùi lưu huỳnh trong các cuộc cúng
lễ để xua đuổi ma quỷ. Các chất hương nầy là những
nhựa hương (encens, incense) có nguồn gốc từ các loài
thảo mộc mọc hai bên bờ Hồng Hải hay ở xứ Somalie, chẳng
hạn những cây thuộc họ Trám Burseraceae như Boswellia
carterii Birdw. Nhựa hương của cây nầy thường được
gọi là olibanium, frankincense hay incense "Aden". Về
mặt y dược, nó có tính chất kháng vi sinh vật, chống viêm.
Hoá chất được khảo cứu và ứng dụng nhiều nhất là boswellic
acid. Nó có khả năng ức chế tác dụng protease virus viêm gan
(10), ngăn chận sự sinh sôi tế bào bạch cầu HL-60
(11). Cùng với một dược, nhựa hương là thành phần
những thuốc bôi dẻo (9,12), phòng ngừa và chữa
bệnh tim vành (6), chữa cúm gia cầm (8),
tái sinh da cháy bỏng (7), trộn với da heo và chitosamin
làm da nhận tạo có tính chất chống viêm (5). Những
hóa chất như verbenon, verbenol chiết xuất từ olibanum
được dùng trong công nghệ hương liệu.
Quà
biếu thứ nhì, một dược (myrrh, myrrha, myrrhe) là nhựa
cây Commiphora abyssinica Engl. Hay C. molmol Engl. đều
thuộc học Trám Burseraceae. Những cây nầy cũng mọc
ở vùng Hồng Hải, Somalie cùng Arabie, Abyssinie (tức Ethiopie
ngày nay). Một duợc được dùng làm nước hoa từ hoa từ
đời thượng cổ, thuốc tắm, thuốc đắp rịt. Có tính chất
chống co thắt, kích thích, bên phương Tây nó được dùng
với quế, nghệ, quả nhục đậu khấu trong cồn ngọt Garus
làm dễ tiêu, trong thuốc rược Fioravanti làm dịu chứng thấp
khớp, cơn sỏi thận, trong cao dán cỏ xổ (emplâtre mercuriel)
hay trong thuốc viên lưỡi chó có thuốc phiện (pilules de cynoglosse
opiacées) (1). Bên Ai Cập, nhựa được chế biến
thành thuốc Myrazid chữa bệnh giun ruột (24),
sán dây (23), sán máng (21), sán lá gan (38,42).
Một dược được đề nghị dùng làm thuốc trị ung thư (14),
u hạt (13), làm thuốc hạ sốt (13), chống
chứng huyết khối
(16), giảm hạ đường
huyết (17),
bảo vệ niêm mạc dạ dày (15). Như trên đã thấy,
nó được trộn với nhựa hương làm thuốc bôi dẻo, chữa
bệnh tim vành, bệnh cúm gia cầm, tái sinh da cháy và làm da
nhân tạp. Trong mỹ phẩm, nhựa được dùng làm thuốc bảo
vệ da (18). Trong Đông y, một dược được dùng đề
chế một số cao dán nhọt có tính chất hoại huyết, giảm
đau,
tiêu thủng, có khi dùng làm thuốc điều kinh (ĐTL). Nhựa có
tính chất độc hại lên các ấu trùng Culex pipiens, Aedes
caspius nên được dùng chống muỗi (19). Nó cũng
có tác dụng đối kháng lên ấu trùng Spodoptera littiralis
Boisd. nên có thể dùng một mình hay hỗn hợp với các
chất trừ sâu khác làm thuốc bảo vệ cây bông.
Cùng
loại với một dược là nhũ hương (tức
mastic, có khi
gọi olibanum như nhựa hương) là nhựa cây Pistacia
lentiscus (hay lenticus) L., thuộc họ Đào lộn hột
Anarcadiaceae. Vì chất nhựa cây nầy chảy xuống
đông
thành hình giọt như đầu vú lại có mùi thơm do đó có tên
nhũ = vú, hương = mùi thơm (ĐTL). Là một chất
phản oxi, nó có tính chất chống nấm (29), kháng
những vi sinh Helicobacter pylori (30, Staphylococcus
aureus, Lactobacillus plantarum, Pseudomonas fragi, Samonella enteritidis
(28),
Bacillus subtilis, Streptococcus faecalis, Escherichia coli, Proteus
vulgaris, Pseudomonas pyocyanea (47). Nhựa chứa
đựng procyanidin có tác dụng giảm huyết áp (27).
Trộn với polyethylen glycol, nhũ hương được dùng bao thuốc
viên tan rã mau chóng trong dạ dày (22). Trộn với
xylitol-sorbitol trong kẹo cao su, nó có khả năng tăng gia pH trên
mảng răng biến đổi tác dụng của đường
(31).
Bên ta, nó được dùng để chế thuốc cao dán nhọt chữa
đau sưng tiêu độc (ĐTL). Bên nước Hy Lạp, mastic Clio
(tên một hòn đảo) là thành phần thuốc trám răng, vec ni
loại quý, được cho vào ướp hương rượu trắng raki vùng
Địa Trung Hải. Nhờ chứa đựng nhiều terpen, ester, aldehyd,
nhựa cũng được dùng trong công nghệ mỹ phẩm dầu thơm
(26).
Song
song với nhũ hương có tùng hương là nhựa những cây thông
Pinus merkusii Jungh et De Vriese ở Việt Nam, Lào, Cao Mên
(có một loại ở Hải Nam mang tên P.
tonkinensis) ;
P. khasya Royle ở miền nam Trung Bộ, Campuchia; thông đuôi
ngựa (mã vĩ tùng) P. massoniana Lambert ; du tùng P.
tabulaeformis
Carr. ở Trung Quốc, đều thuộc họ Thông Pinaceae.
Nhựa cây P. merkusii chứa
đựng nhiều acid, đặc biệt
hydroabietic acid có tính độc. Cây nầy ở Philippines, có tên
mindora, là nguồn nhựa
đóng tàu biển. Ở Việt Nam,
nhựa cây P. khasya chứa ít pinen và longifolen nhưng nhiều
phellandren. Cây P. massoniana có tính chất xua đuổi sâu
bọ nhờ humulen, diệt giun nhờ pinosylvin ethyl ether, nortrachelogenin
ở thân cây, methyl ferulat, pinoresinol ở vỏ cây. Chứa đựng
pinen, copanen, caren, caryophyllen, longifolen,… nhựa ấy cũng là
nguồn sinh tố, đặc biệt vitamin E. Ở bên ta, theo tài liệu
cổ, tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn, tác dụng tảo
thấp, khư phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng, thường
được dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở.
Món
quà thứ ba, nếu là một hương liệu thì vì không được
chỉ định, ta chỉ có thể phỏng đoán trong một số nhựa.
Một loại nhựa thông hóa thạch cách
đây hàng triệu
năm, cứng dòn, gần như trong suốt, màu từ vàng lạt qua đỏ
tía, được nghĩ đến ngay là hổ phách, phát xuất từ cây
Pinus succinifer hay các cây cùng họ như P. pinea, P. pinaster,P.
halepensis, P. silvatica, P. baltica, P. cembrifolia. Mang đủ tên
bernstein trong ngôn ngữ Germain, electron, succin, succinum
trong các tiếng La Tinh, Hy Lạp, gintaras bên người Lithuani,
nay nó được Âu Mỹ đặt tên ambre, amber, phiên âm từ
chữ anbar mà người Ả Rập dùng để chỉ định con
long diên hương phát tiết những sản phẩm tiêu hóa có mùi
thơm tương tự, nhưng danh từ thông dụng là succinit.
Hổ phách không phải là chất nhựa hóa thạch độc nhất.
Copalin là một loại nhựa cứng dễ gãy, màu vàng sẫm,
khi nóng chảy phát tán mùi thơm, đặc biệt của những resinic
acid trong nhựa copal những cây copalier, họ Vang Caesalpiniaceae.
Những cây nầy tìm ra
được trong đất sét xanh ở Highgate,
gần London, nên còn được gọi là "nhựa Highgate". Ngoài
ra còn có bathvillit ở xứ Scotland, idrialit trong
các mỏ thần sa ở Idrija bên Slovenia, tasmanit xen lẫn
với các lớp đá phiến ở Tasmanie bên Úc châu, chứa đến
5% lưu huỳnh. Trong số các nhựa thơm, cũng nên kể an tức
hương, tức cánh kiến trắng hay săng trắng (người Tày gọi
hu môn), còn có tên "nhựa hương Mỹ" tức galipot.
Danh từ Anh chỉ định nó là benzoin, danh từ Pháp
benjoin, phát nguyên từ tiếng Ả Rập luban jaouai,
nghĩa là "nhựa hương Java", biến chuyển thành benjaouai.
Nó phát tiết từ cây Styrax tonkinensis Pierre, thuộc họ
Bồ đềStyracaceae, mọc hoang ở nước ta, nhiều nhất
ở Hà Sơn Bình, Thanh Hóa, Nghệ tĩnh, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên,
Sơn La, Lai Châu (3).
Cùng
họ Bồ đềStyracaceae, cây Styrax officinalis (hay
officinale) L. mọc quanh bờ phía đông Địa Trung Hải,
đã được nói đến trong sách Sáng thế. Nhựa hương
Galaad vùng Palestin còn được gọi là "nhựa hương Do Thái"
tức styrax, storax, phát xuất từ tiếng Hy Lạp
sturax, tiếng Ả Rập assthirak. Một chất hương
cũng được biết rất nhiếu là tô hạp hương (LTĐ), tô hợp
hương hay tô hạp du (người Trung Hoa gọi su he xiang,
người Thỗ Nhĩ Kỳ balsam) là nhựa cây tô hạp Liquidambar
orientalis Mill., thuộc họ Sau sau Hamamelidaceae. Cây
cao 12-15 m, mọc nhiều ở châu Phi, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ,
Ba Tư ; ở Việt Nam mới thấy tại nông trường Tràng Vinh,
tỉnh Quảng Ninh (ĐTL). Những tanin của tô hạp hương kết
dính mọi hồng cầu con người (34), máu thỏ, chuột
(33), những vi khuẩn không vỏ, Candida albicans, ngay
cả Klebsiella pneumoniae khi polysaccharid trên mặt màng tế
bào được gọt đi (24). Tô hạp hương giảm sự
bài tiết phế quản, có tính chất sát trùng nên được dùng
để chữa ghẻ, chữa rận dương vật, làm lên da non (ĐTL).
Nó được trộn với nghệ, gừng, phèn, borneol làm thuốc trị
chứng động kinh (33). Trong hương liệu, nó được
dùng chế mùi thơm hoa xoan hay làm chất định mùi. Cùng họ
Sau sau, ở nước ta còn có cây sâu trắng Liquidambar formosana
Hance, nhựa màu vàng nhạt, mùi thơm nhẹ. Còn nhựa cây
tô hạp hương bình khang Altingia gracilipes Hemsl ở
Điện
Biên thì màu trắng, thường
được dùng bôi lên giấy dán
vào ngực khi bị ho. Trong loại tô hạp Altingia cũng nên
kể A. chinensis Oliver. mọc ở Lào Cai, Tam Đảo, Ba Vì,
cây cao 10-20 m, lá cuống ngắn, phiến lá hình giáo ngược,
mũi lá ngắn, mép răng cưa và
A. takhtajanii Thai V.T. gặp
nhiều ở Mộc Châu lên tới biên giới Việt-Lào, cây cao 50
m, lá cuống dài, phiến lá hình trái xoan, mũi dài nhọn, mép
khía răng cưa, đều cùng họ Sau sau (LTĐ).
Trong
bốn sách Phúc âm được Giáo hội Công giáo chứng nhận tính
xác thực, cuốn của thánh Matthieu muốn chứng minh đấng Jesus
là chúa cứu thế và kể chuyện ba pháp sư nhưng không xác
định họ là vua, vua nước nào và mấy người. Như vậy 3
món quà cũng có thể hiểu là 3 vật tượng trưng, con số
không quan trọng. Quan trọng hơn là chất liệu của những
món quà. Sách đã nói đến hương liệu là những vật được
tôn thờ, thường
được dùng nơi tự, trong buổi cúng lễ,
hương thơm xua đuổi những vong hồn quỷ quái. Rồi đây những
cuộc khảo cứu khoa học trong lĩnh vực lịch sử đạo giáo
sẽ đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết hơn. Trong lúc chờ đợi,
tưởng cũng không sai nghĩ cả 3 món quà đều là hương liệu
như nhựa hương, một dược.
Nghiên
cứu và Phát triển 1(44) 2004,
khoahoc.net
12 2007
Tham
khảo
1-
Grand Larousse encyclopédique, Paris, 6 (1962)
2-
Jacques de Voragine, La Légende dorée, nxb Seuil, Paris (2002)
75-76
3-
Võ Quang Yến, Hổ phách, ký ức của quá khứ, Thông
tin Khoa học và Công nghệ, Huế (2) (1998) 40-46
4-
J.P.Forestier, D.Lemordant, Les Rois Mages et leurs présents, Bull.Ass.Anc.
El. INALCO, Paris (4) (2002) 121-6
Boswillia
carterii
5-
B. Lou, W. Liu, W. Zhang, Artificial skin preparation from chitosamine
and pig skin, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1032294 (1989) 6 tr.
6-
D. Ma, Pharmaceutical compositions for transdermal application for preventing
and treating coronary heart disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1030183 (1989) 6 tr
7-
M. He, Ointments containing potassium aluminium sulfate and other ingredients
to promote tissue regeneration in burn, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1067177 (1992) 5 tr
8-
Y. Li, Pharmaceutical capsules containing herbal medicine mixture for
treatment of influenza in poultry, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1066185 (1992) 4 tr
9-
G. Lu, Ointments for inflammation inhibition and tissue growth promotion,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai ShuomingshuCN 1079665
(1993) 5 tr
10-
G. Hussein, H. Miyashiro, N. Nakamura, M. Hattori, N. Kakiuchi, K. Shimotohno,
Inhibitory effects of Sudanese plant extracts on hepatitis C virus (HCV)
protease, Phytoth. Res. 14(7) (2000) 510-6
11-
R.K. Park, K.R. Oh, K.G. Lee, Y.J. Mun, J.H. Kim, W.H. Woo,, The water
extract of Boswellia carterii induces apoptosis in human leukemia HL-60
cells, Yakhak Hoechi 45(2) (2001) 161-8
Commiphora
abyssinica, C. molmol
12-
J. Small, Asafetida and myrrh, Food 12(1943) 125-8, 154-6
13-
M. Tariq, A.M. Ageel, M.A. Al-Yahya, J.S. Mossa, M.S. Al-Said, N.S. Parmar,
Anti-inflammatory activity of Commiphora molmol, Agents and Actions
17(3-4)(1986) 381-2
14-
M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, A.B. Giangreco, A.H. Shah,
Anticarcinogenic effect of Commiphora molmol on solid tumors induced
by Ehrlich carcinoma cells in mice, Chemoth. 40(5)(1994)
337-47
15-
M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, M. Afzal, A.H. Shah,
Gastric
antiulcer and cytoprotective effect of Commiphora molmol in rats, J.
Ethnopharm. 55(2)(1997) 141-50
16-
O.A. Olajide, Investigation of the effects of selected medicinal plants
on experimental thrombosis, Phytoth. Res. 13(3)(1999)
231-2
17-
R.P. Ubillas, C.D. Mendez, S.D. Jolad, J. Luo, S.R. King, T.J. Carlson,
D.M. Fort, Antihyperglycemic furanosesquiterpens from Commiphora myrrha,
Planta
Med. 65(8) (1999) 778-9
18-
F. Bonte, A. Meybeck, M. Dumas, Use of a commiphora myrrha extract in
a cosmetic or dermatological, PCT Int. Appl. WO 0004872 (2000)
19-
A.M. Massoud, I.M. Labib, M. Rady, Biochemical changes of Culex pipiens
larvae treated with oil and oleo-resin extracts of myrrh Commiphora molmol,
J. Egyp. Soc. Parasitol. 3I(2)(2001) 517-29
20-
A. Massoud, S. El Sisi, O. Salama, A. Massoud, Preliminary study of
therapeutic efficacy of a new fasciolicidal drug derived from Commiphora
molmol (myrrh), Amer. J. Trop. Med. Hyg. 65(2)(2001)
96-9
21-
F. Badria, G. Abou-Mohamed, A. El-Mowaly, A. Massoud, O. Salama, Mirazid
: a new schistosomicidal drug, Pharmac. 39(2)(2001) 127-31
22-
S.M. Motawea, A. El-Gilany, M. Gaballah, F. Emara, A. El-Shazly,
Control
of Fasciola in an Egyptian endemmic rural area by a new safe, effective
fasciolicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001)
85-104
23-
A. Massoud, A. El-Gilany, S.M. Motawea, A. El-Shazly, M. Gaballah, Effectiveness
and safety of a new cestodicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001)
105-120
24-
A. Massoud, S.M. Motawea, A. El-Gilany, A. El-Shazly, A. Sitten, M. Gaballah,
Mirazid, a new herbal treatment highly effective against intestinal
nematodes. A study carried out under field conditions in rural Egypt, J.
Environ. Sci. 21(2001) 121-137
Pistacia
lentiscus
25-
A.S. Abdel-Ghaffar, A.S. El Nawawy, M.S. Mohamed, The inhibitory effect
of mastic gum on bacterial growth, Alexandria Med. J. 3 (1957)
119-24
26-
L. Peyron, Some little-known oils of potential interest in perfumery,
Soap,
Perf. Cosm. 39(8) (1966) 633-43
27-
M.J. Sanz, M.C. Terencio, M. Paya, Isolation and hypotensive activity
of a polymeric procyanidin fraction from Pistacia lentiscus L.,
Pharmazie
47(6) (1992) 466-7
28-
C.C. Tassou, G.J.E. Nychas, Antimicrobial activity of the essential
oil of mastic gum (Pistacia lentiscus var. chia) on gram positive and gram
negative bacteria in broth and in model food system, Int. Biodeterio.
Biograd. 36(3-4) (1995) 411-20
29-
P. Magiatis, E. Melliou, A.L. Skaltsounis, I.B. Chinou, S. Mitaku,
Chemical
composition and antimicrobial activity of the essential oils of Pistacia
lentiscus var. chia, Planta Med. 65(8) (1999) 749-52
30-
P. Marone, L. Bono, E. Leone, S. Bona, E. Caretto, L. Perversi,
Bactericidal
activity of Pistacia lentiscus mastic gum against Helicobacter pylori,
J. Chemoth. 16(6) (2001) 611-4
31-
E. Koparal, F. Ertugrul, E. Sabah, Effect of chewing gum on plaque acidogenicity,
J. Clin. Pedia. Dent. 24(2) (2000) 129-32
Liquidambar
orientalis
32-
W. Zhang, L. Zhuang, Platelet aggregation inhibition by storax from
Su He Xiang (Liquidambar orientalis), Zhongcaoyao 16(3)
(1985) 112-4
33-
C. Wang, Manufacture of capsules for epilepsy therapy, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 87102557 (1988) 4tr
34-
N. Cakir, S. Tukel, N. Yulug, Agglutination characteristics of hydrolysable
tannins of Liquidambarorientalis Mill on nonencapsulated bacteria,
Turk.
J. Med. Sci. 22(2) (1994) 85-7 |