Chim Việt Cành Nam           [  Trở về  ] 
Võ Quang Yến

CÂY NHÀ LÁ VƯỜN

Cây thuốc và vị thuốc

- Tập 5 -
53- Nhựa hương, một dược 
"Đưa ra, nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên,
chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc,
lòng nhũ hương, niŠm một dược".
Hàn Mặc Tử 
(Ra đời - Chơi giữa mùa trăng)


Ngày chúa Jesus ra đời, nhiều thầy pháp có tiếng thông thạo về giáo lý cũng như những phép thuật bói toán nhờ một thiên thể chỉ đường hướng dẫn tới Bethléem. Những đạo sĩ nầy, tiếng La Tinh gọi magus, tiếng Hy Lạp magos, là những nhà bác học uyên thâm về thiên văn, khoa học huyền bí, và cũng là nhà những giáo sĩ đạo Zarathustra ở vùng Medi, Ba Tư tức Iran bây giờ. Lúc ban đầu không ai rõ họ bao nhiêu người, chỉ biết họ từ phương Đông lại. Truyền thống dân gian xếp họ giữa hai con số 2 và 12. Bức tranh ở nghĩa địa Saint-Pierre và Marcellin ở Roma chỉ vẽ 2 người. Sau đó, những hình trang trí ghép mảnh ở Sainte-Marie-Majeure, Roma, cũng như ở Saint-Apollinare Nuovo, Ravenne, trình bày 3 vị mặc áo quần giáo sĩ Mithra, đội mũ Phrygie. Chỉ đến thề kỷ XII mới thấy phân biệt 3 người mang biểu hiệu nhà vua với 3 tên khác nhau: Gaspard thường được hình dung là một chàng trẻ không râu, Balthazar một ông vua đứng tuổi và Melchio một cụ già sói tóc, râu xồm. Truyền thống còn gán ba vua pháp (rois mages) nầy đại diện cho 3 châu Âu, Phi, Á, dòng dõi con cháu Noé. Truyền thuyết về họ được các nhà sử học xem như là một cách diễn xuất Kinh thánh trong mục đích khẳng định tính toàn năng quyền lực cứu thế của đấng Jesus. Tình tiết lịch sử của 3 ông được thể hiện ở nhiều tranh tượng trong các nhà thờ công giáo. Ở Paris, khách có thể ngắm búc chạm Sự bá cáo của ngôi sao thần diệu quanh điện nhà thờ Đức Bà, hay bức kính ghép màu Sự tôn thờ các vua pháp trong nhà thờ Chartres (1,2).

Theo phong tục thời trước, khi đến trình diện một quốc vương hay một vị thần, 3 quý khách nầy mang lại 3 món quà : nhựa hương tiêu biểu quyền lực tôn giáo, một dược (hay mộc dược) quyền lực tiên tri, thoi vàng quyền lực thế tục. Đối với đấng Jesus, ba món quà nầy còn tượng trưng những lời cầu nguyện, sự hành xác cơ thể và tình yêu cao cả (1,2). Ngoài lịch sử của 3 vua pháp chưa được phân giải rõ ràng, câu hỏi được đặt ra là tại sao lại thoi vàng, một kim loại, thể hiện món quà thứ ba chứ không phải một sản phẩm thực vật như hai món quà kia (4)? Có thể qua truyền khẩu và dịch thuật, một sai lầm đã xảy ra. Để biện minh cho giả thuyết nầy, môn ngôn ngữ học cho biết từ dhb nghĩa là vàng, trong tiếng nói Sémite phương Tây cả nam lẫn bắc, có thể chỉ định một hương liệu màu sẫm, trái với bạc. Ở miền Nam Arabie cũng như trong tiếng nói dân tộc Araméen, từ nầy biểu đạt vừa vàng, vừa chất thơm. Còn trong ngôn ngữ Syrie, tức Aram của Kinh thánh, một cây hương liệu có quan hệ với từ dhb. Theo các tác giả nầy (4), đứng về mặt văn ngữ học, từ zâhâbh có thể hiểu là một hương liệu như nhựa hương, một dược, những vật liệu được tôn thờ, chứ không phải vàng, tiêu biểu cho quyền thế vật chất, nhất thời. Nếu thật vậy thì cả 3 món quà đều là hương liệu.

Cũng như ở Á Đông, các dân tộc Ai Cập, Hébreu (Do Thái xưa) đốt nhiều chất hương sặc mùi lưu huỳnh trong các cuộc cúng lễ để xua đuổi ma quỷ. Các chất hương nầy là những nhựa hương (encens, incense) có nguồn gốc từ các loài thảo mộc mọc hai bên bờ Hồng Hải hay ở xứ Somalie, chẳng hạn những cây thuộc họ Trám Burseraceae như Boswellia carterii Birdw. Nhựa hương của cây nầy thường được gọi là olibanium, frankincense hay incense "Aden". Về mặt y dược, nó có tính chất kháng vi sinh vật, chống viêm. Hoá chất được khảo cứu và ứng dụng nhiều nhất là boswellic acid. Nó có khả năng ức chế tác dụng protease virus viêm gan (10), ngăn chận sự sinh sôi tế bào bạch cầu HL-60 (11). Cùng với một dược, nhựa hương là thành phần những thuốc bôi dẻo (9,12), phòng ngừa và chữa bệnh tim vành (6), chữa cúm gia cầm (8), tái sinh da cháy bỏng (7), trộn với da heo và chitosamin làm da nhận tạo có tính chất chống viêm (5). Những hóa chất như verbenon, verbenol chiết xuất từ olibanum được dùng trong công nghệ hương liệu.

Quà biếu thứ nhì, một dược (myrrh, myrrha, myrrhe) là nhựa cây Commiphora abyssinica Engl. Hay C. molmol Engl. đều thuộc học Trám Burseraceae. Những cây nầy cũng mọc ở vùng Hồng Hải, Somalie cùng Arabie, Abyssinie (tức Ethiopie ngày nay). Một duợc được dùng làm nước hoa từ hoa từ đời thượng cổ, thuốc tắm, thuốc đắp rịt. Có tính chất chống co thắt, kích thích, bên phương Tây nó được dùng với quế, nghệ, quả nhục đậu khấu trong cồn ngọt Garus làm dễ tiêu, trong thuốc rược Fioravanti làm dịu chứng thấp khớp, cơn sỏi thận, trong cao dán cỏ xổ (emplâtre mercuriel) hay trong thuốc viên lưỡi chó có thuốc phiện (pilules de cynoglosse opiacées) (1). Bên Ai Cập, nhựa được chế biến thành thuốc Myrazid chữa bệnh giun ruột (24), sán dây (23), sán máng (21), sán lá gan (38,42). Một dược được đề nghị dùng làm thuốc trị ung thư (14), u hạt (13), làm thuốc hạ sốt (13), chống chứng huyết khối (16), giảm hạ đường huyết (17), bảo vệ niêm mạc dạ dày (15). Như trên đã thấy, nó được trộn với nhựa hương làm thuốc bôi dẻo, chữa bệnh tim vành, bệnh cúm gia cầm, tái sinh da cháy và làm da nhân tạp. Trong mỹ phẩm, nhựa được dùng làm thuốc bảo vệ da (18). Trong Đông y, một dược được dùng đề chế một số cao dán nhọt có tính chất hoại huyết, giảm đau, tiêu thủng, có khi dùng làm thuốc điều kinh (ĐTL). Nhựa có tính chất độc hại lên các ấu trùng Culex pipiens, Aedes caspius nên được dùng chống muỗi (19). Nó cũng có tác dụng đối kháng lên ấu trùng Spodoptera littiralis Boisd. nên có thể dùng một mình hay hỗn hợp với các chất trừ sâu khác làm thuốc bảo vệ cây bông.

Cùng loại với một dược là nhũ hương (tức mastic, có khi gọi olibanum như nhựa hương) là nhựa cây Pistacia lentiscus (hay lenticus) L., thuộc họ Đào lộn hột Anarcadiaceae. Vì chất nhựa cây nầy chảy xuống đông thành hình giọt như đầu vú lại có mùi thơm do đó có tên nhũ = vú, hương = mùi thơm (ĐTL). Là một chất phản oxi, nó có tính chất chống nấm (29), kháng những vi sinh Helicobacter pylori (30, Staphylococcus aureus, Lactobacillus plantarum, Pseudomonas fragi, Samonella enteritidis (28), Bacillus subtilis, Streptococcus faecalis, Escherichia coli, Proteus vulgaris, Pseudomonas pyocyanea (47). Nhựa chứa đựng procyanidin có tác dụng giảm huyết áp (27). Trộn với polyethylen glycol, nhũ hương được dùng bao thuốc viên tan rã mau chóng trong dạ dày (22). Trộn với xylitol-sorbitol trong kẹo cao su, nó có khả năng tăng gia pH trên mảng răng biến đổi tác dụng của đường (31). Bên ta, nó được dùng để chế thuốc cao dán nhọt chữa đau sưng tiêu độc (ĐTL). Bên nước Hy Lạp, mastic Clio (tên một hòn đảo) là thành phần thuốc trám răng, vec ni loại quý, được cho vào ướp hương rượu trắng raki vùng Địa Trung Hải. Nhờ chứa đựng nhiều terpen, ester, aldehyd, nhựa cũng được dùng trong công nghệ mỹ phẩm dầu thơm (26).

Song song với nhũ hương có tùng hương là nhựa những cây thông Pinus merkusii Jungh et De Vriese ở Việt Nam, Lào, Cao Mên (có một loại ở Hải Nam mang tên P. tonkinensis) ; P. khasya Royle ở miền nam Trung Bộ, Campuchia; thông đuôi ngựa (mã vĩ tùng) P. massoniana Lambert ; du tùng P. tabulaeformis Carr. ở Trung Quốc, đều thuộc họ Thông Pinaceae. Nhựa cây P. merkusii chứa đựng nhiều acid, đặc biệt hydroabietic acid có tính độc. Cây nầy ở Philippines, có tên mindora, là nguồn nhựa đóng tàu biển. Ở Việt Nam, nhựa cây P. khasya chứa ít pinen và longifolen nhưng nhiều phellandren. Cây P. massoniana có tính chất xua đuổi sâu bọ nhờ humulen, diệt giun nhờ pinosylvin ethyl ether, nortrachelogenin ở thân cây, methyl ferulat, pinoresinol ở vỏ cây. Chứa đựng pinen, copanen, caren, caryophyllen, longifolen,… nhựa ấy cũng là nguồn sinh tố, đặc biệt vitamin E. Ở bên ta, theo tài liệu cổ, tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn, tác dụng tảo thấp, khư phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng, thường được dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở.

Món quà thứ ba, nếu là một hương liệu thì vì không được chỉ định, ta chỉ có thể phỏng đoán trong một số nhựa. Một loại nhựa thông hóa thạch cách đây hàng triệu năm, cứng dòn, gần như trong suốt, màu từ vàng lạt qua đỏ tía, được nghĩ đến ngay là hổ phách, phát xuất từ cây Pinus succinifer hay các cây cùng họ như P. pinea, P. pinaster,P. halepensis, P. silvatica, P. baltica, P. cembrifolia. Mang đủ tên bernstein trong ngôn ngữ Germain, electron, succin, succinum trong các tiếng La Tinh, Hy Lạp, gintaras bên người Lithuani, nay nó được Âu Mỹ đặt tên ambre, amber, phiên âm từ chữ anbar mà người Ả Rập dùng để chỉ định con long diên hương phát tiết những sản phẩm tiêu hóa có mùi thơm tương tự, nhưng danh từ thông dụng là succinit. Hổ phách không phải là chất nhựa hóa thạch độc nhất. Copalin là một loại nhựa cứng dễ gãy, màu vàng sẫm, khi nóng chảy phát tán mùi thơm, đặc biệt của những resinic acid trong nhựa copal những cây copalier, họ Vang Caesalpiniaceae. Những cây nầy tìm ra được trong đất sét xanh ở Highgate, gần London, nên còn được gọi là "nhựa Highgate". Ngoài ra còn có bathvillit ở xứ Scotland, idrialit trong các mỏ thần sa ở Idrija bên Slovenia, tasmanit xen lẫn với các lớp đá phiến ở Tasmanie bên Úc châu, chứa đến 5% lưu huỳnh. Trong số các nhựa thơm, cũng nên kể an tức hương, tức cánh kiến trắng hay săng trắng (người Tày gọi hu môn), còn có tên "nhựa hương Mỹ" tức galipot. Danh từ Anh chỉ định nó là benzoin, danh từ Pháp benjoin, phát nguyên từ tiếng Ả Rập luban jaouai, nghĩa là "nhựa hương Java", biến chuyển thành benjaouai. Nó phát tiết từ cây Styrax tonkinensis Pierre, thuộc họ Bồ đềStyracaceae, mọc hoang ở nước ta, nhiều nhất ở Hà Sơn Bình, Thanh Hóa, Nghệ tĩnh, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Sơn La, Lai Châu (3).

Cùng họ Bồ đềStyracaceae, cây Styrax officinalis (hay officinale) L. mọc quanh bờ phía đông Địa Trung Hải, đã được nói đến trong sách Sáng thế. Nhựa hương Galaad vùng Palestin còn được gọi là "nhựa hương Do Thái" tức styrax, storax, phát xuất từ tiếng Hy Lạp sturax, tiếng Ả Rập assthirak. Một chất hương cũng được biết rất nhiếu là tô hạp hương (LTĐ), tô hợp hương hay tô hạp du (người Trung Hoa gọi su he xiang, người Thỗ Nhĩ Kỳ balsam) là nhựa cây tô hạp Liquidambar orientalis Mill., thuộc họ Sau sau Hamamelidaceae. Cây cao 12-15 m, mọc nhiều ở châu Phi, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư ; ở Việt Nam mới thấy tại nông trường Tràng Vinh, tỉnh Quảng Ninh (ĐTL). Những tanin của tô hạp hương kết dính mọi hồng cầu con người (34), máu thỏ, chuột (33), những vi khuẩn không vỏ, Candida albicans, ngay cả Klebsiella pneumoniae khi polysaccharid trên mặt màng tế bào được gọt đi (24). Tô hạp hương giảm sự bài tiết phế quản, có tính chất sát trùng nên được dùng để chữa ghẻ, chữa rận dương vật, làm lên da non (ĐTL). Nó được trộn với nghệ, gừng, phèn, borneol làm thuốc trị chứng động kinh (33). Trong hương liệu, nó được dùng chế mùi thơm hoa xoan hay làm chất định mùi. Cùng họ Sau sau, ở nước ta còn có cây sâu trắng Liquidambar formosana Hance, nhựa màu vàng nhạt, mùi thơm nhẹ. Còn nhựa cây tô hạp hương bình khang Altingia gracilipes Hemsl ở Điện Biên thì màu trắng, thường được dùng bôi lên giấy dán vào ngực khi bị ho. Trong loại tô hạp Altingia cũng nên kể A. chinensis Oliver. mọc ở Lào Cai, Tam Đảo, Ba Vì, cây cao 10-20 m, lá cuống ngắn, phiến lá hình giáo ngược, mũi lá ngắn, mép răng cưa và A. takhtajanii Thai V.T. gặp nhiều ở Mộc Châu lên tới biên giới Việt-Lào, cây cao 50 m, lá cuống dài, phiến lá hình trái xoan, mũi dài nhọn, mép khía răng cưa, đều cùng họ Sau sau (LTĐ).

Trong bốn sách Phúc âm được Giáo hội Công giáo chứng nhận tính xác thực, cuốn của thánh Matthieu muốn chứng minh đấng Jesus là chúa cứu thế và kể chuyện ba pháp sư nhưng không xác định họ là vua, vua nước nào và mấy người. Như vậy 3 món quà cũng có thể hiểu là 3 vật tượng trưng, con số không quan trọng. Quan trọng hơn là chất liệu của những món quà. Sách đã nói đến hương liệu là những vật được tôn thờ, thường được dùng nơi tự, trong buổi cúng lễ, hương thơm xua đuổi những vong hồn quỷ quái. Rồi đây những cuộc khảo cứu khoa học trong lĩnh vực lịch sử đạo giáo sẽ đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết hơn. Trong lúc chờ đợi, tưởng cũng không sai nghĩ cả 3 món quà đều là hương liệu như nhựa hương, một dược.

Nghiên cứu và Phát triển 1(44) 2004,
khoahoc.net 12 2007


Tham khảo

1- Grand Larousse encyclopédique, Paris, 6 (1962)

2- Jacques de Voragine, La Légende dorée, nxb Seuil, Paris (2002) 75-76

3- Võ Quang Yến, Hổ phách, ký ức của quá khứ, Thông tin Khoa học và Công nghệ, Huế (2) (1998) 40-46

4- J.P.Forestier, D.Lemordant, Les Rois Mages et leurs présents, Bull.Ass.Anc. El. INALCO, Paris (4) (2002) 121-6

Boswillia carterii

5- B. Lou, W. Liu, W. Zhang, Artificial skin preparation from chitosamine and pig skin, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1032294 (1989) 6 tr.

6- D. Ma, Pharmaceutical compositions for transdermal application for preventing and treating coronary heart disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1030183 (1989) 6 tr

7- M. He, Ointments containing potassium aluminium sulfate and other ingredients to promote tissue regeneration in burn, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1067177 (1992) 5 tr

8- Y. Li, Pharmaceutical capsules containing herbal medicine mixture for treatment of influenza in poultry, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1066185 (1992) 4 tr

9- G. Lu, Ointments for inflammation inhibition and tissue growth promotion, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai ShuomingshuCN 1079665 (1993) 5 tr

10- G. Hussein, H. Miyashiro, N. Nakamura, M. Hattori, N. Kakiuchi, K. Shimotohno, Inhibitory effects of Sudanese plant extracts on hepatitis C virus (HCV) protease, Phytoth. Res. 14(7) (2000) 510-6

11- R.K. Park, K.R. Oh, K.G. Lee, Y.J. Mun, J.H. Kim, W.H. Woo,, The water extract of Boswellia carterii induces apoptosis in human leukemia HL-60 cells, Yakhak Hoechi 45(2) (2001) 161-8

Commiphora abyssinica, C. molmol

12- J. Small, Asafetida and myrrh, Food 12(1943) 125-8, 154-6

13- M. Tariq, A.M. Ageel, M.A. Al-Yahya, J.S. Mossa, M.S. Al-Said, N.S. Parmar, Anti-inflammatory activity of Commiphora molmol, Agents and Actions 17(3-4)(1986) 381-2

14- M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, A.B. Giangreco, A.H. Shah, Anticarcinogenic effect of Commiphora molmol on solid tumors induced by Ehrlich carcinoma cells in mice, Chemoth. 40(5)(1994) 337-47

15- M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, M. Afzal, A.H. Shah, Gastric antiulcer and cytoprotective effect of Commiphora molmol in rats, J. Ethnopharm. 55(2)(1997) 141-50

16- O.A. Olajide, Investigation of the effects of selected medicinal plants on experimental thrombosis, Phytoth. Res. 13(3)(1999) 231-2

17- R.P. Ubillas, C.D. Mendez, S.D. Jolad, J. Luo, S.R. King, T.J. Carlson, D.M. Fort, Antihyperglycemic furanosesquiterpens from Commiphora myrrha, Planta Med. 65(8) (1999) 778-9

18- F. Bonte, A. Meybeck, M. Dumas, Use of a commiphora myrrha extract in a cosmetic or dermatological, PCT Int. Appl. WO 0004872 (2000)

19- A.M. Massoud, I.M. Labib, M. Rady, Biochemical changes of Culex pipiens larvae treated with oil and oleo-resin extracts of myrrh Commiphora molmol, J. Egyp. Soc. Parasitol. 3I(2)(2001) 517-29

20- A. Massoud, S. El Sisi, O. Salama, A. Massoud, Preliminary study of therapeutic efficacy of a new fasciolicidal drug derived from Commiphora molmol (myrrh), Amer. J. Trop. Med. Hyg. 65(2)(2001) 96-9

21- F. Badria, G. Abou-Mohamed, A. El-Mowaly, A. Massoud, O. Salama, Mirazid : a new schistosomicidal drug, Pharmac. 39(2)(2001) 127-31

22- S.M. Motawea, A. El-Gilany, M. Gaballah, F. Emara, A. El-Shazly, Control of Fasciola in an Egyptian endemmic rural area by a new safe, effective fasciolicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001) 85-104

23- A. Massoud, A. El-Gilany, S.M. Motawea, A. El-Shazly, M. Gaballah, Effectiveness and safety of a new cestodicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001) 105-120

24- A. Massoud, S.M. Motawea, A. El-Gilany, A. El-Shazly, A. Sitten, M. Gaballah, Mirazid, a new herbal treatment highly effective against intestinal nematodes. A study carried out under field conditions in rural Egypt, J. Environ. Sci. 21(2001) 121-137

Pistacia lentiscus

25- A.S. Abdel-Ghaffar, A.S. El Nawawy, M.S. Mohamed, The inhibitory effect of mastic gum on bacterial growth, Alexandria Med. J. 3 (1957) 119-24

26- L. Peyron, Some little-known oils of potential interest in perfumery, Soap, Perf. Cosm. 39(8) (1966) 633-43

27- M.J. Sanz, M.C. Terencio, M. Paya, Isolation and hypotensive activity of a polymeric procyanidin fraction from Pistacia lentiscus L., Pharmazie 47(6) (1992) 466-7

28- C.C. Tassou, G.J.E. Nychas, Antimicrobial activity of the essential oil of mastic gum (Pistacia lentiscus var. chia) on gram positive and gram negative bacteria in broth and in model food system, Int. Biodeterio. Biograd. 36(3-4) (1995) 411-20

29- P. Magiatis, E. Melliou, A.L. Skaltsounis, I.B. Chinou, S. Mitaku, Chemical composition and antimicrobial activity of the essential oils of Pistacia lentiscus var. chia, Planta Med. 65(8) (1999) 749-52

30- P. Marone, L. Bono, E. Leone, S. Bona, E. Caretto, L. Perversi, Bactericidal activity of Pistacia lentiscus mastic gum against Helicobacter pylori, J. Chemoth. 16(6) (2001) 611-4

31- E. Koparal, F. Ertugrul, E. Sabah, Effect of chewing gum on plaque acidogenicity, J. Clin. Pedia. Dent. 24(2) (2000) 129-32

Liquidambar orientalis

32- W. Zhang, L. Zhuang, Platelet aggregation inhibition by storax from Su He Xiang (Liquidambar orientalis), Zhongcaoyao 16(3) (1985) 112-4

33- C. Wang, Manufacture of capsules for epilepsy therapy, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 87102557 (1988) 4tr

34- N. Cakir, S. Tukel, N. Yulug, Agglutination characteristics of hydrolysable tannins of Liquidambarorientalis Mill on nonencapsulated bacteria, Turk. J. Med. Sci. 22(2) (1994) 85-7 

 

[ trang trước ]  /    [ trang sau ]