Chim Việt Cành Nam           [  Trở về  ] 
Võ Quang Yến

CÂY NHÀ LÁ VƯỜN

Cây thuốc và vị thuốc

- Tập 3 -
34 - Rau trường thọ
Một đoàn lao lực lao tâm
Quý chi chữ "thọ"mà lăm sống nhiều.
Tản Đà
Cách đây mấy chục năm, ở miền Nam nước ta có một phong trào ăn, uống một loài cây nhỏ từ Đài Loan đem qua, ít nhiều trồng tại chỗ, được đồn đại có tác dụng làm con người khỏe mạnh, tươi đẹp, sống lâu, có tính chất bồi bổ cơ thể, bổ tinh, ích khí, tráng thận, cường dương như sâm, lộc nhung, yến sào, hải cẩu, .... Người Tàu gọi cây rau trường thọ nầy trường thọ thái hay khang phục lệ. Theo tác giả Đỗ Đình Tuân (1), rau nguyên sản ở Bắc Phi, Âu châu, Tây Á. Từ xa xưa, người Trung Đông đã biết dùng nó trị bệnh ỉa chảy. Qua thế kỷ 16, đến lượt người Anh dùng rễ rau chữa các vết thương, trị bỏng và ỉa chảy. Nhưng phải đợi những thế kỷ sau mới thấy họ làm thí nghiệm để tìm những loại tốt và bắt đầu trồng trong nhiều vườn, hai bên bờ suối, bờ sông : rễ dùng làm thuốc, lá làm đồ ăn cho súc vật. Sau đó, rau mới vượt trùng dương qua Pháp, Úc, Mỹ rồi Nhật Bản, Đài Loan, ....

Người Pháp gọi cây rau nầy là consoude, từ danh từ La Tinh consolida nghĩa là hàn gắn, chữa vết thương. Theo từ điển Encyclopaedia Universalis, nó có một lịch sử điều trị vẻ vang kể từ Dioscoridès, một bác sĩ người Hy Lạp đầu kỷ nguyên Công giáo, dùng nó để ngăn chặn xuất huyết, chữa trị chứng trĩ cho đến sau nầy bác sĩ H. Leclerc đưa nó vào toa thuốc xoa dịu các vết bỏng cháy của binh lính trong đệ nhất thế chiến. Thường chỉ có rễ rau làm thành các đơn thuốc đắp rịt làm se, chữa thương trong dược thư xưa. J. Fernal, ngự y của vua Henri II, ghi nó vào liều thuốc có tiếng hay nhất chữa bệnh đau ngực. Trong dân gian, rau được dùng để chữa các vết xước loét, đường nứt, kẽ nẻ ở vú. Nước hãm chữa viêm vòi, viêm dạ con, viêm âm đạo. Rau cũng còn được dùng làm thuốc uống trị ỉa chảy, viêm ruột non, loét dạ dày. Trong các bệnh viêm phổi, rau là một chất làm dịu đắc lực. Cũng nên biết là ở Pháp, song song và có cùng công dụng với rau consoude là cây mồ hôi bourrache (tên khoa học Borrago officinalis L.) và cây hàm rắng vipérine (tên khoa học Echium vulgare L.) đều thuộc họ Vòi voi Borraginaceae.

Rau trường thọ là một loại cây nhỏ bé cao 30-80cm, lá dài 15-40cm, rộng 5-15cm, hoa to vào khoảng 1-1,5cm. Trong sách báo khảo cứu, rau được gọi là comfrey với tên khoa học Symphytum, gồm có ba loại chính:

S. officinale L. hoa trắng (bạch hoa),
S. asperum Lepech hoa xanh (lam hoa)
S. peregrinum hoa đỏ tía (tử hoa).
Bên cạnh chúng, còn có nhiều loại ít biết hơn : S. abchasicum, S. caucasicum, S. consolidum, S. grandiflorum, S. ibericum, S. nodosum, S. tuberosum,, .... S. uplandicum là rau mọc bên Nga.. Trong ba loại chính, loại hoa trắng là tốt nhất, được công nhận làm dược thảo, loại hoa xanh ít tốt hơn còn loại đỏ tía là do hai loại kia hợp lai với nhau mà thành.

Sau đây chỉ bàn về thành phần và công dụng của rau hoa trắng comfrey hay S. officinale L. là loại được khảo cứu nhiều nhất.

Thành phần hóa học chính được báo chí Đài Loan, Hương Cảng đề cao là allantoin và vitamin B12. Thật vậy, allantoin hiện diện trong nước ối động vật, là một chất có khả năng thúc tiến cuộc sinh trưởng tế bào, từ đấy rau có tính chất hàn gắng vết thương. Thường người ta dùng rễ rau rửa sạch, gọt vỏ, luộc nước rồi đem nghiền thành thuốc đắp hay hãm nước (200g rễ trong 1l nước sôi, nấu 2 giờ) cho vào miếng gạc áp lên vết bỏng, vết loét, đặc biệt loét giãn tĩnh mạch. Nếu dùng giấm gỗ chiết xuất thì có được một hỗn hợp allantoin, vitamin B12, vitamin B2, Ge và protein, dùng để chữa u khối (4), đái đường (5), xÖ gan (6). Allantoin tìm ra được trong cả rễ lẫn lá, còn vitamin B12 thì hiện diện trong mọi bộ phận của rau tươi (ng/g), nhiều nhất ở lá non (10,87), thứ đến lá già (5,33), sau mới đến cành non (3,34) và sau cùng là rể (2,50). Trong lãnh vực các chất sắc, 11 carotenoid đã được phát hiện (13,13mg% trong lá rau) gồm có những caroten, những zeacaroten và những dẫn xuất của chúng cùng lutein, thunaxanthin và dẫn xuất của nó. Provitamin A (2146 microg%) chiếm 35% tổng số carotenoid.

Một loạt hóa chất khác được nói đến là những alcaloid có mặt nhiều ở thân rau vào lúc nở hoa (0,06%) và ở rễ rau khi trái đã thành hình (0,31%). Trong số những alcaloid nầy, loại pyrrolizidin có tiếng là độc cho gan, thường hay gặp là symphitin, tức là tiglylretronecin viridiflorat, chất có khả năng gây ung thư, kèm với echimidin hay những N-oxid của chúng, phytosterol, sitosterol, triterpenoid, isobauerenol trong rễ rau. Cùng loại nầy còn có lycopsamin ở thể tự do hay ở dạng N-oxid cùng với acetyl lycopsamin, symviridin, lasiocarpin, một chất sinh ngẫu biến, cũng ở trong rễ rau.

Những saponin cũng chiếm một phần lớn trong số các hóa chất của rễ : bidesmosidic triterpenoidal saponin (thuộc nhóm hederagin thì mang tên symphytoxid A), caulosid D, leontosid D, bên cạnh những bidesmosidic triterpen glycosid. Đặc biệt leontosid A có tác dụng chống những vi khuẩn Salmonella typhi, Staphylococcus aureus, Streptococcus feacalis, còn leontosid B thì chống Escherichia coli (17). Những polysaccharid đem thủy phân thì cho (%) glucose (53,79), mannose (15,90), galactose (13,48), xylose (2,80), một ít arabinose, rhamnose và glucorunic acid (10,54), galacturonic acid (10,38). Rễ rau cống hiến một glycopeptid có tác dụng chống viêm (27) (ức chế sự phóng thích malondialdehyd trong tiểu cầu) đã được tìm ra đồng thời với caffeic, chlorogenic, phenolic, salycilic, cinnamid acid. Cũng nên biết là trong lá rau có yếu tố ribulose 1,5-biphosphat carboxylase/oxygenase, trọng lượng phân tử 502.000. Còn hoạt động enzym loại amino pyrin N-demethylase trong chuột gia tăng nếu cho nó ăn rau.

Rau trường thọ là một loại thuốc bổ cho súc vật, đặc biệt cho ngựa, có thể cho vào 25-35% trong thức ăn : (kg) rau (150) tảo giạt (100), calci oxyd (42), muối (130), bột vôi (250), nước mật (380). Amin acid như tyrosin, methionin, glutamic acid trong nước tương gia tăng từ 1,7 đến 4,4% nếu cho rau vào. Chất xanh của rau được dùng để nhuộm đồ ăn (7), thuốc đánh răng (19) hay xà phòng (7). Dùng aceton người ta chiết xuất được chlorophyl phải bảo quản trong đạm khí, trong bóng tối, ở 0°, nếu không nó sẽ biến hóa ra pheophytin. Một văn bằng trình bày phương cách dùng nhiều dung dịch thu thập được vừa xanthophyl, sterol, vừa caroten, phytol. Rau cũng được cho vào tinh dầu làm hương chất (29), vào thuốc lá để làm tăng hương vị (15,23) đồng thời làm giảm nồng độ nicotin và CO trong máu người hút (11). Nhờ Ge hấp thu vào da có khả năng đem lại dưỡng khí cải tiến sự chuyển hóa biểu bì, rau được dùng trong mỹ phẩm (10,13), có tác dụng khử trùng (24), trong thuốc bảo vệ da (12,21), thuốc tẩy dịu da (16), thuốc chữa sưng phù (2), thuốc nhuộm tóc chứa phenylendiamin để chữa viêm da (20) hay bổ duỡng tóc (18), thuốc xử lý vải bô tránh ngoại ban (22). Rau cũng là thành phần thuốc chứa capsaicin không kích thích da để giảm đau (25,26), thuốc chữa trị bệnh vẩy nến và eczema tăng tiết bã nhờn(8). Một sự đồng vận giữa allantoin và ascorbat gia tăng toạt động trừ diệt staphylococci nên rau được dùng làm thuốc chữa bệnh ngoài da, vết loét, viêm vú, viêm dạ con ở bò (9). Ở nồng độ 140 và 1400 microg/ml, alkaloid của rau gây một cuộc trao đổi nhiễm sắc thể cũng như một sự sắc sai ở bạch huyết cầu (14).

Theo tác giả Đỗ Đình Tuân, ngoài thuốc men, nuôi gia súc, rau trường thọ là một thức ăn thịnh hành bên Nhật và bên Tàu. Lá rau có nhiều cách sử dụng : hoắc xay lấy nước uống lạnh, hoặc bỏ vào nước sôi hãm như trà để uống nóng, hoặc chiên, xào, nấu canh, làm bánh. Lá và thịt heo thái nhỏ trộn với tiêu, hành, muối, viên thành khối, cho bọc ngoài bột mì nhào nước rồi chiên với dầu mỡ đến vàng tươi, ăn chấm với nước tương : người Tàu gọi môn nầy là khang phục nhục hoàn tử. Lá thái nhỏ và thịt heo hay thịt bò có thể xào ngay trong mỡ, ăn chấm tiêu muối hay nước tương, cũng có thể đem trụng nước sôi, thái nhỏ, cho trộn gừng cắt vụn đã xào với muối mè trước khi ăn. Nấu canh thì thái nhỏ lá rồi nấu chung với thịt, tôm, nấm, hành. Còn muốn làm bánh thì tán lá thành bột, bánh giống bánh mì.

Sau mấy chục năm nhập cảng vào nước ta, hình như việc trồng trọt, khai thác rau trường thọ không phát triển được mấy, mặc dầu rau đóng góp nhiều trong lãnh vực thuốc men, thực dụng, làm món ăn cho người cũng như cho gia súc, mà lại dễ trồng, tăng trưởng mau ở khí hậu Việt Nam.
 

Nghiên cứu và Phát triển 2(36) 2002


Tham khảo

1-Đỗ Đình Tuân, Rau trường thọ, Phương Đông (10) 28 (1973) 270-5

2- G. Furnadzhiev, M. Vutov, I. Lambev, A contribution to the study of the antiinflammatory effect of furin-M, Stomatologiya (Sofia)(1)58 (1976) 37

3- S. Kobayashi, Comfrey-containing solid cleaning compositions, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 78 132,008 (1978) ; Chem.Abs. 88 (1978) 172389j

4- K. Hirosaki, Extracts of comfrey as antitumor agent, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 78 88,312 (1978) ; Chem. Abs. 89 (1978) 186068u

5- H. Hirosaki, Pharmaceuticals for diabetes treatment, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 78 127,810 (1979) ; Chem. Abs. 90 (1979) 76557r

6- H. Hirosaki, Comfrey extracts for treatment of liver cirrhosis, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 78 127,811(1979) ; Chem. Abs. 90 (1979) 76558s

7- F. Ikawa, Studies on natural coloring agents. Part II. Basal properties of commun comfrey pigment and its use for foods, Aichi-ken Shokuhin Kogyo Shikensho Nempo 17 (1976) 99 ; Chem.Abs. 92 (1980) 39956r

8- J. Janosik, Liquid preperation fortreating psoriasis and seborrhoic eczema,Czech. 185,262 ; Chem. Abs. 95 (1981) 68027f

9- D.O. Noorlander, Nontoxic, germicide, and healing compositions containing comfrey extract and allantoin and ascorbic acid, U.S. US 4 670,263 (1987) ; Chem. Abs. 107 (1987) 83935k

10- F. Kawai, Cosmetics containing germanium compounds extracted from plants, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 62 111,908 (1987) ; Chem. Abs. 107 (1987) 140906c

11- Y. Horimoto, Blood nicotine – and carbon monoxide – lowering preparation, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 62 135,428 (1988) ; Chem. Abs. 108 (1988) 70510p

12- A. Popovici, L. Bojica, Use of roots of Symphytum officinale in cosmetic and pharmaceutical preparations forexternal use, Rev. Med. (Tirgu-Mures, Rom.) (2)32 (1986) 183 ; Chem. Abs. 108 (1988) 156331t

13- K. Takeshima, Powdery cosmetic cleansers containing casein compounds, oil-cyclodextrin inclusion compounds, and medicinal plant components, , Japan Kokai Tokkyo Koho JP 63 135,326 (1989) ; Chem. Abs. 110 (1989) 141280t

14- C. Behninger, G. Abel, E. Roeder, V. Neuberger, W. Goeggelmann, Effect of an alkaloid extract of Symphytum officinale on human lymphocyte cultures, Planta Med. (6)55 (1989) 518 ; Chem. Abs. 112 (1990) 132434k

15- M. Ooshiro, An agent for changing the taste and compositions of tobacco for use in cigarette, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 03 61,471 (1991) ; Chem. Abs. 115 (1991) 24212q

16- A. Furanku, Y. Yamana, M. Sawaguchi, K. Nakao, T. Asano, Detergents containing pearl oyster peptides and comfrey root extracts for milkdness to skin, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 03 205,497 (1991) ; Chem. Abs. 115 (1991) 258777c

17- V.U. Ahmad, M. Noowala, F.V. Mohammad, K. Aftab, B. Sener, A. ul H. Gilani, Triterpene saponins from the roots of Symphytum officinale, Fitoterapy (5)64 (1993) 478 ; Chem. Abs. 120 (1994) 294110u

18- T. Kagawa, Hair tonics containing plant extract, salicylic acid, and iodine, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 06 92,823 (1994) ; Chem. Abs.121 (1994) 17714a

19- C. Corlateanu, V. Hodisan, M.A. Nan, A. Pop, Medicinal tooth paste formulation, Rom RO 103,923 (1995) ; Chem. Abs. 122 (1995) 89156p

20- Y. Nishibe, N. Tomono, C. Kawagoe, K. Wakamatsu, H. Ando, Hair dyes containing p-phenylendiamine derivatives and Symphytum officinale leaf extracts to control phenylendiamine-related dermatitis, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 08 165,227 (1996) ; Chem. Abs. 124 (1996) 176972g

21- S. Azuma, Y. Yada, G. Imokawa, S. Tazaki, T. Shinho, Skin–lightning cosmetics containing plant extract and ascorbic acid or placenta extracts, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 08 208,451 (1996) ; Chem. Abs. 125 (1996) 256787r

22- Y. Nishibe, N. Banno, K. Wakamatsu, H. Ando, Leave and plante extracts for treatent of textiles or garnements for prevention of skin rash, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 09 158,042 (1997) ; Chem. Abs. (10)127 (1997) 137035a

23- S. Ogawa, Flavor-adjusting composition for tabacco smoking, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 10 66,557 (1998) ; Chem. Abs. (21)128 (1997) 255253p

24- S. Mori, A. Imahori, Antimicrobial low-irritancy cosmetics, Japan Kokai Tokkyo Koho JP 10 182,334 (1998) ; Chem. Abs. (22)128 (1997) 58603x

25- S.D. Holt, T.R. Laughlin, Analgesic compositions containing capsaicin and plant extracts, U.S. US 5 856,361 (1999) ; Chem. Abs. (7)130 (1999) 86189f

26- S.D. Holt, Non-irritating capsaicin formulations and applicators herefor, US US 5 869,533 (1999) ; Chem. Abs. (11)130 (1999) 144216a

27- A. Hiermann, M. Writzel, Antiphlogistic glycopeptide from the roots of Symphytum officinale, Pharm. Pharmacol. Lett. (4)8 (1998) 154 ; Chem. Abs. (18)130 (1999) 242206s

28- M. Love, Aromatic compound containing essental oil and method of producing same, US US 5 980,880 (1999) ; Chem. Abs. (24)131 (1999) 327352g

 

[ trang trước ]  /    [ trang sau ]