Chim Việt Cành Nam           [  Trở về  ] 
Võ Quang Yến

CÂY NHÀ LÁ VƯỜN

Cây thuốc và vị thuốc

- Tập 3 -
35- Thân mảnh vai gầy
Gió sẽ mừng vì tóc em bay,
Cho mây hờn ngủ quên trên vai.
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi.
Trịnh Công Sơn
Trong một đêm nhạc của Hội Người Yêu Huế ở Nhà sinh viên Đông Nam Á năm 1987, anh bạn Cao Huy Thuần đã giới thiệu người đẹp của Trịnh Công Sơn phải là một người gầy, thân mong manh, vai gầy guộc
Bàn tay xanh xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao (Diễm xưa)
Trên mùa lá xanh ngón tay em gầy nên mãi ru thêm ngàn năm (Ru em từng ngón xuân nồng)
Thuở ấy có một người cơn gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh để đến trường đại học văn khoa Huế (Diễm của những ngày xưa) ....
Thị hiếu của Trịnh Công Sơn đi đúng với trào lưu thời trang thế giới. Những siêu mẫu ngày nay là những cô gái gầy, cao trên 1m80, nặng không quá 50kg ! Những người mẫu của nhà vẽ mẫu Minh Hạnh, mà tôi tò mò chen chúc ngắm được qua các song sắt hành lang Palais Royal ở Paris trong buổi biểu diễn thời trang "Đêm trắng" 05.09.2002, cũng không phải là những người đẹp nhỏ con, đẫy đà, .... Thành quả là các bà, các cô đua nhau chạy theo thân mảnh, vai eo, mất biết bao công của để thử đánh mất những ki lô cho là thừa. Khổ một nỗi là nhịn ăn, uống ít, tránh chất béo, kiêng chất bổ cũng không đủ để ngăn chặn lên cân. Xoa bóp dù với máy móc tối tân, đắt tiền, thấy cũng không đem lại kết quả mong muốn. Còn lại một phương sách mới xem tương đối tưỏng như dễ dàng và kết quả lanh chóng hơn là uống thuốc, Tây y, Đông dược đều có ! Về mặt nầy, một liều thuốc Trung Quốc dựa lên những cây phòng kỷ vừa bị lên án.

Cách đây mười năm, giáo sư Jean-Louis Vanherweghem, Chủ nhiệm Khoa thận Bệnh viện Erasma ở Bruxelles bên Bỉ, đón nhận một số bệnh nhân với một chứng suy thận đặc biệt ở những người trước đây chẳng có bệnh tật gì. Thận bị phá hủy dần, một số còn sống được nhờ thấm tách kinh niên (dialyse chronique), số kia phải qua một cuộc ghép thận. Đem  phân tích mô thận, giáo sư nhận thấy một thay đổi ở DNA của các bệnh nhân. Tìm hiểu sự kiện nầy, ông khám phá ra nguyên nhân chung may mắn độc nhất : các bệnh nhân nầy đều trải qua một cuộc điều trị giảm phì hướng dẫn trong một phòng chữa bệnh với một chế phẩm dựa lên một cây thuốc truyền thống Á Đông. Đến nay cây thuốc nầy xem là thiên nhiên và vô hại, được chính thức cho phép bán trong những tiệm dược phẩm, không ai ngờ nó có khả năng đảo lộn gia sản di truyền trong lòng các tế bào con người. Một cuộc phân tích dịch tể học chỉ định lanh chóng thủ phạm là fang ji (phòng kỷ) tức là lá hay rễ cây Aristolochia fangchi, vì cách viết chữ Hán tương tự có thể đã lẫn lộn với cây Stephania tetrandra (2).

Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, phòng có nghĩa là phòng ngừa, kỷ là cho mình, vậy phòng kỷ là vị thuốc có tác dụng phòng ngừa tật bệnh cho mình. Nó là tên dùng để chỉ nhiều vị thuốc nguồn gốc thực vật khác nhau (ĐTL, PHH) :

1. Phấn phòng kỷ (Radix stephaniae tetrandrae) hay phòng kỷ là rễ phơi hay sấy khô của cây phấn phòng kỷ Stephania tetrandra S. Moore (fen fang ji), thuộc họ Tiết dê (ĐTL) hay Dây mối (PHH) Menispermaceae.

2. Quáng phòng kỷ hay mộc phòng kỷ, đăng phòng kỷ, cũng còn được gọi phòng kỷ (như 1) là rễ phơi hay sấy khô cây quảng phòng kỷ Aristolochia westlandi Hemsl, thuộc họ Mộc thông (ĐTL) hay Sơn dịch (PHH) Aristolochiaceae.

3. Hán trung phòng kỷ (Radix aristolochia heterophyllae) là rễ phơi hay sấy khô cây hán trung phòng kỷ hay thanh mộc hương Aristolochia heterophylla Hemsl cùng họ Mộc thông.

4. Mộc phòng kỷ (như 2) là rễ phơi hay sấy khô của cây mộc phòng kỷ Cocculus tribolus DC., thuộc họ Tiết dê (ĐTL) .

Một tên chỉ định cả cây lẫn rễ, lại thêm một tên dùng cho nhiều cây, nhiều rễ thì càng gây lẫn lộn. Mặt khác ở Việt Nam, cùng họ Tiết dê còn có những cây Stephania khác : cây bình vôi S. rotunda Lour., cây dây lõi tiên S. long Lour., cây dây nối S. hernandifolia Spreng, cây dây đồng tiền S. pierrei Diels ; trong họ Mộc thôngthì còn có những cây Aristolochia khác : cỏ sơn dịch A. indica L. (đã từng bị lầm với Cocculus leaeba), cây mộc thông (như 1 và 2) hay cây mộc thông mã đâu linh A. manshuriensis Kom, cây mã đâu linh hay cây dây khố rách A. roxburghiana Klotsch (ĐTL) .... Rất dễ hiểu khi thấy tên cây nầy được đặt vào thân cây kia, nhất là khi ta š thức xác định tên cây là một việc vô cùng tế nhị.

Dựa lên sự kiện xảy ra bên Bỉ và sau nầy nhiều trường hợp khác ở Pháp, Phòng Bảo hiểm y tế sản phẩm sức khỏe Pháp, trong một thông cáo đề ngày 23.08.2000, ra hiệu báo động và lên án hai cây S. tetrandra (đã bị lầm lẫn với cây A. fangchi) và Magnolia officinale. Cây hậu phác (cũng là tên vỏ và rễ cây sấy khô) M. officinale Rehd. et Wils. thuộc học Mộc lan (ĐTL) hay Dạ hợp (PHH) Magnoliaceae là một cây vỏ dày (hậu là dày), "trông chất phác". Chất độc trong cây S. tetrandra được chỉ định là aristolochic acid, không những phá hoại thận mà còn là một tác nhân gây đột biến và là một chất phát ung thư. Phòng Bảo hiểm nói trên kêu gọi điều tra thêm, thiết lập bản tổng kết thương tổn u trên các bệnh nhân đã từng dùng thuốc phòng kỷ ở Pháp và báo cáo cho Trung tâm cảnh giác dược lý địa phương (1). Mặc dầu aristolochic acid bị cấm chỉ bên Hoa Kỳ từ 1983, ở Pháp từ 1998, những nhà khảo cứu thấy cần phải cảnh giác vì đã khám phá hiệu lực chậm hoãn đáng gờm của nó : càng dùng lâu, nó càng tích tụ, hiệu ứng càng lớn, bệnh tình càng trầm trọng.

Thật ra, aristolochic acid không phải chỉ tìm ra được trong A. tetrandraA. fangchi mà còn trong hầu hết các cây Aristolochia (và cả trong nhiều cây Asarium) thuộc họ Mộc thông : A. acuminata, A. multiflora, A. bracteata (5), A. debilis (8), A. indica, A. rigida, trong thân A. maxima, A. pandurata, trong thân và lá A. kunmingensis (12), trong thân và rễ A. kankauensis (13), trong thân, lá và rễ A. clematitis, trong rễ A. moupinensis, A. serpentaria, A. longa (10), A. mollissima (6,9), trong cũ A. kwangsiensis (7), trong fangji A. fangchi, A. heterophylla, A. moupinensis, A. austoszechuanica. Đằng khác, không phải chỉ có một mà nhiều aristolochic acid : 6 trong A. clementitis, 5 trong A. kankauensis (13), 2 trong A. heterophylla A. rigida (13). Nhiều cấu trúc với sườn phenanthren đã được xác định. Năng suất chiết xuất aristolochic acid tương đối nhỏ : 0,05% trong A. moupinensis, 0,02% trong A. fangchi. Dùng ammoniac trích chiết, 100g A. fangchi đem lại 206,7mg sau sắc khí trên silicagel.

Acid aristolochic cũng đã được phát hiện dưới hình thức dẫn xuất : 5 ariskanin và carboxylic methyl ester trong thân và rễ A. kankauensis , 4 aristophyllid , 3 aristoloterpenat tức là sesquiterpen ester trong thân và rễ A. heterophylla , methyl ether ở A. moupinensis, A. indica , methoxy ở A. delibis. Bên cạnh aristolochic acid còn tìm ra alcaloid ở Stephania tetrandra, A. fangchi, aristolactam trong rễ A. longa, aristolactam glucosid ở A. indica, 9 aristolactam alcaloid trong thân và lá A. kunmingensis, flavonol glycosid ở A. rigida, allantoin ở A. fangchi, sitosterol, magnoflorin trong rễ A. moupinensis (ping ma dou ling) và A. heterophylla, coumaric acid, syringic acid, palmitic acid, moupinamid, coumaramid ở A. fangchi A. moupinensis.

Aristolochic acid không phải là một chất mới được khảo cứu. Năm 1892, Pohl đã nhận thấy thuốc phòng kỷ có hiệu nghiệm, không phải chỉ nhờ tác dụng diệt khuẩn yếu mà còn nhờ tăng gia thể tích hạch nhân từ đó tăng gia sự lặp lại cuộc phân chia tế bào. Nửa thế kỷ sau, tác dụng yếu của muối kali acid được nêu rõ trên Bacillus cubtilis và hoàn toàn vô hiệu trên nhiều vi khuẩn khác. Một dung dịch 5 microg/cm3 natri aristolochat đạt chỉ số gián phân tối cao (0,88%) và một kích thích bạch huyết bào con người lớn nhất, nhưng quá liều lượng ấy thì hết còn tác động và qua 50 microg/cm3 thì tế bào hết phân chia, thể sắc kết dính ở tế bào kỳ giữa (metaphase). Tiêm tĩnh mạch vào thỏ với liều lượng 1mg/kg, acid gây hoại tử tế bào biểu mô và thiếu máu cục bộ vỏ ngoài, phá huỷ một phần tiêu quản cuốn (convoluted tubules) ở đầu gần thận, từ đó có tác dụng chận tiểu ở tuyến yên sau. Tiêm nhiều lần vào phúc mạc chuột, acid ức chế sự phát triển u gan cổ trướng nhưng không hiệu nghiệm trước nhiều loại sacom và carcinom khác, trừ Adenocarcinoma 755. Trích chiết từ A. rigida, nó có hoạt động ngẫu biến, tuy nhẹ. Trích chiết từ A. longa, nó tác dụng mạnh lên bạch cầu P-388 và ung thư biểu mô phế quản ; cũng như aristolactam, nó có hoạt động kháng vi khuẩn chống các trùng Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, Streptococcus faecalis, Staphylococcus aureus S. epidermides (10). Trích chiết từ A. bracteata, nó có tác dụng khử khuẩn lên những trùng Dysdercus koenigii, Aedes aegypi, Tribolium castaneum (5). Một báo cáo nghiên cứu của Viện Y học Trường Đại học Louvain bên Bỉ cho biết tế bào ung thư biểu mô đa tiêu chuyển tiếp đã được tìm ra trong bốn bệnh nhân dùng thuốc chứa đựng aristilochic acid nhưng thử trên chuột thì thuốc nầy chỉ gây khối u chứ chẳng thấy xơ hóa khe thận (15).

Aristolochic acid kích thích hệ thống lưới nội mô và gạc bỏ tác dụng suy giảm hệ thống nầy của chloramphenicol (4). Trích chiết từ A. mollissima (6), A. debilis (8), nó có tiềm lực thực bào, trích chiết từ A. mollissima nó còn có hoạt động ngăn chặn thai nghén (9), trích chiết từ A. kwangsiensis nó được dùng để trị liệu bệnh nhân bị giảm bạch cầu (7). Alcaloid chiết xuất từ rễ A. fangchi là những chất ức chế acetylcholin esterase, được dùng để chữa loạn dưỡng hệ cơ, sa sút trí tuệ, những chứng Alzheimer, thuộc đường tiêu hóa (11). Aristolactam alcaloid trích chiết từ A. kankauensis ức chế hoạt động tiểu cầu (13). Trích chiết từ thân và lá A. kunmingensis, aristolacton có khả năng ức chế nhân tố kích động tiểu cầu với IC50 ở 2,63.10-5 M (12). Những aristolochic acid ester loại sesquiterpen trích chiết từ thân và rễ A. heterophylla đều có tính chất chống những tế bào u gan (14,16). Aristolochic acid trích chiết từ A. acuminata A. multiflora ở Madagascar rất độc cho những hệ thống cây trồng, hoạt động lớn nhất lên tế bào khối u mụn cây. Một văn b¢ng Nhật Bản đề nghị dùng nó làm thuốc diệt cỏ, chống những trùng Stellaria media, Chenopodium album, Amaranthus retroflexus, Lindemia pyxidaria, Setaria viridis mà không độc hại cho lúa mì và đậu xanh.

Cũng cần biết thêm những hoạt chất tetrandrin, fanfchinolin, cyclanolin, berbamin chỉ tìm ra được trong fang gi S. tetrandra. Phần chiết từ rễ có tính chất ức chế cuộc sản xuất interleukin-6 và được dùng đễ chữa những chứng miễn dịch do interleukin-6 gây ra (28). Trong phần chiết nầy, những alcaloid có tính chất ức chế enzym chuyển đổi angiotensin 55,4%, LC50 trên 800 mg/kg hay trên 250mg/kg i .p. tùy chất (26). Cũng chiết xuất từ rễ (han fang ji), những chất alcaloid tetrandrin và dimethyl tetrandrin có tác dùng nhỏ giảm đau trên chuột. Riêng tetrandrin có tác dụng lớn chống Mycobacterium tuberculosis (63,0%) nhất là khi dùng chung với phthivazid, streptomycin hay ethoxid (98,6%) (17). Nó cũng có tính chất ức chế enzym chuyển đổi angiotensin 75,9% với 1mM (21), được dùng làm thuốc điều hòa máu (thuốc viên 80-400 mg, uống 3 lần mỗi ngày) (18). Cũng cùng tính chất là tetrandrin oxid 72,3% với 1mM (22), dimethyl phenanthro dioxo ethylamin (19), tridehydro fanchinolium hydroxid 80,4% với 0,1mM (20) hay fangchinolin với liều lượng 50ml / kg giảm hạ huyết áp huyết ở chuột khoảng từ 200 đến 183 mmHg trong 2 tiếng đồng hồ (23), khoảng từ 192 đến 157mmHg, LD50 trên 1g/kg p.o. và trên 100 mg/kg i .p. (24). Chất sau nầy được dùng để chữa trị đau thắt ngực (25) còn những chất kia là thành phần những thuốc chữa huyết áp (19,23,24). Bên phần những alcaloid berbamin thì ức chế acetyl esterase với IC50 (1,0-6,2) 10-6 M (27).

Ở các nước Á Đông, Phi châu, truyền thống dùng thuốc cây cỏ, động vật vật có từ lâu và vẫn còn được thông dụng. Ở các nuớc Âu Mỹ, nhờ khoa học phát triển mạnh mẽ, dược phẩm dựa lên hóa chất nhân tạo tổng hợp nên dần dần các liều thuốc cây cỏ bị bỏ quên. Gần đây thôi, phong trào trở lại với thiên nhiên bùng phát, các phòng bào chế tung ra nhiều thuốc men chữa bệnh cũng như mỹ phẩm dựa lên những cây cỏ đã từng có thành tích trong sách vở cổ truyền Trung Hoa, Ấn Độ. Ngay cả Tổ chức Quốc tế Sức khỏe cũng có chiến lược khai thác y khoa cổ truyền, trong ấy liều thuốc cây cỏ cũng như châm cứu chiếm phần quan trọng. Ngày nay, hằng tỷ người trên thế giới là môn đồ các phương pháp thiên nhiên ấy, nhưng nhìn kỹ chỉ có chừng 0,4% các bản báo cáo khoa học chú trọng đến vấn đề. Con số nầy chỉ rõ cây cỏ chưa được khảo cứu tường tận để ta mặc sức tự do sử dụng. Vừa rồi, Trung tâm Quốc tế Khảo cứu Ung thư (CIRC) ở Lyon đã cho xuất bản một cuốn sách dày kê khai có hệ thống những chất gây ung thư, trong ấy nỗi bật những loại phòng kỷ và một số cây khác đến nay được xem là vô hại. Cũng cần được theo dõi kỹ là những loại ma hoàng Ephedra : E. sinica Staff., E. equisetina Bunge, E. intermedia Schrenk et Mey, thuộc họ Ma hoàng Ephedraceae, với hoạt chất ephedrin, bên ta thường dùng để chữa viêm khí quản, hen suyễn, cảm mạo, trong thuốc Tây được quảng cáo "hút mỡ như bọt biển", và "làm giảm mức triglycerid và cholesterol" hay "làm nảy nở các bắp thịt" ! Bên Hoa Kỳ, đến nay đã có gần 100 người chết vì nạn tim hay mạch não vì dùng các loại dược phẩm có hoạt chất nầy. Nó vừa bị kết tội tăng huyết áp, gây biến cố tim, mạch, loạn tinh thần (3). Thuốc cây cỏ thiên nhiên rất tốt nhưng không thể dùng bất cứ thế nào.
 

Nghiên cứu và Phát triển 4-5(42-43) 2003, 
khoahoc.net 27.03.2008
Tham khảo

1- Roger-Louis Blanchini, Mortelles racines, L’Express 23.11 (2000) 54-55

2- Fabien Gruhier, La roulette russe des plantes chinoises, Le Nouvel Observateur 05.03 (2003) 78-81

3 Jean-Luc Breda, Attention au coupe-faim ! L’Express 17.07 (2003) 39

Aristolochic acid
4- G. Lemperle, F. Herdter, F. Gospos, Stimulating or depressing effect of various drugs on the phagocytic function of the RES (reticuloendothelial system), Advan. Exp. Med. Biol. 15 (1971) 87-94

5- B.P. Saxena, O. Koul, K. Tikku, C.K. Atal, Aristolochic acid - an insect chemosterilant from Aristolochia bracteata Retz, Indian J. Exp. Biol. 17(4) (1979) 354-60

4- G. Lemperle, F. Herdter, F. Gospos, Stimulating or depressing effect of various drugs on the phagocytic function of the RES (reticuloendothelial system), Advan. Exp. Med. Biol. 15 (1971) 87-94

5- B.P. Saxena, O. Koul, K. Tikku, C.K. Atal, Aristolochic acid - an insect chemosterilant from Aristolochia bracteata Retz, Indian J. Exp. Biol. 17(4) (1979) 354-60

6- L.S. Ding, M.S. Ho, F.C. Lou, Studies on the chemical constituents of Aristolochia mollissima, Chung Ts’ao Yao 11(11) (1980) 487

7- S.Y. Li, C. Yao, Isolation and identification of the chemical constituents in Aristolochia kwangsiensis Chun and How, Chung Ts’ao Yao, 12(2) (1981) 25

8- Z.L. Chen, B.S. Huang, D.Y. Zhu, Studies on the active principles of Aristolochia delibis. II. 6-Hydroxyaristolochic acid A and 7-methoxyaristolochic acid A, Hua Hsueh Hsueh Pao 39(3) (1981) 237-42

9- W. Wang, J. Zheng, Pregnancy-terminating effect and toxicity of an active component of Aristolochia mollissima Hance, aristolochic acid A, Yaoxue Xuebao 19(6) (1984) 405-9

10- J. Hinou, C. Demetzos, C. Harvala, C. Roussakis, Cytotoxic and antimicrobial principles from the roots of Aristolochia longa, Int. J. Crude Drug Res. 28(2) (1990) 149-51

11- T. Yamaguchi, T. Ogino, S. Sato, M. Chin, Acetylcholine esterase inhibitors containing alkaloids, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 04,159,225 (1992) 6 tr

12- X. Wang, G. Han, The chemical constituents of Aristolochia kunmingensis, Yunnan Zhiwu Yanjiu 15(3) (13- T.S. Wu, L.F. Ou, C.M. Teng, Aristolochic acids, aristolactam alkaloids and amides from Aristolochia kankauensis, Phytochem. 36(4) (1994) 1063-8

14- T.S. Wu, Y.Y. Chan, Y.L. Leu, P.L. Wu, Y. Chia, Y. Mori, Four aristolochic acid esters of rearranged ent-elemane sesquiterpenes from Aristolochia heterophylla, J. Nat. Prod. 62(2) (1999) 348-51

15- J.P. Cosyns, R.M. Goebells, V. Liberton, H.H. Schmeister, C.A. Bieler, A..M. Bernard, Chinese herbs nephropathy-associated slimming regimen induces tumors in the forestomach but no interstitial nephropathy in rats, Arch. Toxicol. 72(11) (1998) 738-43

16- T.S. Wu, Y.Y. Chan, Y.L. Leu, Z.T. Chen, Sesquiterpens esters of aristolochic acid from the root and stem of Aristolochia heterophylla, J. Nat. Prod. 62(3) (1999) 415-8

Stephania tetrandra
17- S.A. Vichkanova, L.V. Makarova, N.I. Gordeikina, Tuberculostatic activity of preperations from plants, Fitontsidy Mater. Soveshch. 6th (1969-1972) 90-4

18- K.. Kubota, T. Ogino, H. Sasaki, M. Chin, Tetrandrine analogs extracted from Stephania tetrandra roots for improving blood circulation, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,209,018 (1987) 10 tr

19- T. Ogino, S. Sato, H. Sasaki, M. Chin, Pharmaceuticals containing N,N-dimethylphenanthro[3,4-d]-1,3-dioxol-5-ethylamine as a angiotensin I converting enzyme inhibitor, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,207,215 (1987) 4 tr

20- T. Ogino, S. Sato, H. Sasaki, M. Chin, Isolation and structure determination of 1,3,4-tridehydro fangchinolium hydroxyde, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,294,684 (1987) 5 tr

21- T. Ogino, S. Sato, H. Sasaki, M. Chin, Angiotensin I converting enzyme inhibiting activity of tetrandrine, fangchinoline and derivatives thereof and pharmaceutical compositions containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,207,216 (1987) 11 tr

22- T. Ogino, S. Sato, H. Sasaki, M. Chin, Isolation of new alkaloids from Stephania tetrandra as antihypertensives, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,205,084 (1987) 5 tr

23- T. Ogino, M. Chin, K. Fukuyama, K. Kawashima, Antihypertensive fangchinolines from Menisperaceae and pharmatical compositions containing them, Jpn. Kokai Tokkyo KohoJP 01,113,392 (1989) 7 tr

24- T. Ogino, S. Sato, M. Chin, K. Kawashima, Antihypertensives containing new alkaloids, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02 78,681(1990) 9 tr

25- K. Fukuyama, S. Sato, T. Ogino, Fangchinolines for treatment of angina pectoris, Jpn. Kokai Tokkyo KohoJP 02,243,627(1990) 7 tr

26- T. Ogino, S. Sato, H. Sasaki, M. Chin, Alkaloids of Stephania tetrandra and antihypertensives containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02,311,464 (1990) 8 tr

27- T. Ogino, T. Yamaguchi, H. Sato, M. Chin, Isolation of berbamine alkaloids from a acetylcholine esterase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 04,159,278 (1992) 10 tr

28- K.H. Pyun, I. Choi, H.S. Kang, J.J. Lee, Y.H. Kim, Extracts of Stephania tetrandra for inhibition of interleukin-6 production, PCT Int. Appl. WO 95 33, 473 (1995) 43 tr

 

[ trang trước ]  /    [ trang sau ]

Hết Tập 3