Rượu
lạt uống lắm cũng say,
Người khôn
nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.
Ca dao
Tôi
còn nhớ lần đầu tiên đi dự lễ hội tháng mười ở Muenchen
bên Đức, được một anh bạn rủ đi uống bia. Bia ở đây,
trong dịp lễ, chỉ dọn trong những ly một lít gọi là mass.
Ngồi lâu lắm tôi mới uống xong, hân hoan nhìn bạn, nhưng
khi ngoảnh mặt lại thì ly đã lại đầy! Anh bạn cười ngặt
nghẽo, cho biết là phải để lại chút ít ở đáy ly không
thì theo thường lệ anh phục phụ tự động lại rót đầy.
Anh còn giải thích cho tôi rõ ly được đặt trên một tấm
giấy cứng tròn để bia khỏi trào xuống bàn và cũng để
in quảng cáo : cứ một ly uống xong là anh phục vụ gạch
một nét lên tấm giấy và nét thứ năm gạch ngang bốn nét
kia đã gạch song song, như vậy rất giản tiện khi tính tiền
! Một lần khác, nhân đi làm tập sự sinh viên ở Trostberg,
một thị xã xinh xắn nằm trên đường từ Muenchen đi Salzburg
bên nước Áo, sau bữa cơm tối, tôi và các bạn trong phòng
thí nghiệm được mời đi uống ngay ở trong một hãng làm
bia. Sau bốn tiếng đồng hồ, tôi nốc được hai lít. Sáng
hôm sau, trên đường đi lại sở, mọi người mỉm cười
nhìn tôi : Chào ông hai lít. Tối hôm đó, trung bình mỗi người
uống 15 lít và kỷ lục là 25 lít ! Ở vùng kỹ nghệ Rhur,
mỗi lần đi tham quan một hãng rượu bia, người ta phát cho
mỗi người khách một thẻ 5 lít uống ngay tại chỗ ; nhiều
người Đức uống xong thẻ của họ, uống hộ luôn cả thẻ
của bọn tôi. Trong kỳ về thăm nhà vừa qua, tôi biết những
người cháu ở Việt Nam có khả năng uống luôn 20 lon bia,
tương đương với 8 lít, kể cũng đã khá, tuy còn xa sức
người Đức.
Đã từng "học"
uống rượi bia trên đất Pháp, cách đây hai mươi năm, một
hôm trời nóng ở Huế, tôi đòi được uống bia địa phương
vì đã thưởng thức bia hơi Sài Gòn. Các bạn tôi không chịu,
sợ tôi sẽ đau bụng. Thật vậy, hồi ấy chưa có bia nhập
hay bia làm theo lối ngoại quốc mà gọi bia chỉ là một hỗn
hợp đủ thứ ngũ cốc, cây, lá, ngâm, ủ, nấu trong điều
kiện thô sơ, không chút bảo đảm thành phần, chất lượng.
Ngày nay nhiều hãng nước ngoài lại liên doanh với các xí
nghiệp ta, cho ra đời nhiều nhãn hiệu : Saigon, Halida, Huda
bên cạnh 333, Tiger, .... với một điểm chung là chế tạo
theo phương pháp tối tân, vệ sinh đầy đủ, dùng nguyên liệu
lúa mạch và hoa bông nhập cảng. Bia ghi âm từ tiếng nước
ngoài beer, bierra, la bière (nên trước đây bên ta có
tên la de), phát sinh từ một danh từ Bắc Âu : bjor,
nghĩa là thức uống của đàn ông. Từ nầy còn đẻ ra baere,
tên lúa mạch bên Anh. Thật ra, bia là một thức uống đã
có từ thời thượng cổ, lúc ban đầu lên men với bất cứ
loại ngũ cốc nào. Người ta đã tìm ra ở miền LÜ"ng Hà
những bản di tích 3000 năm trước công nguyên ghi cách chế
biến, rồi không bao lâu sau đó bia để lại dấu vết ở
Ai Cập, Hy Lạp. Đến lượt các dân tộc Romain, Gaulois, Germain
cũng đua nhau uống rượu bia. Chính người Gaulois đã phát
minh ra những tôn nô, bền chắc hơn các chum, thống. Ở đất
Pháp, trước kia có rượu cervoise, được ướp thơm
với gừng, mật hay thìa lìa, bách xù. Những tu sĩ trong các
tu viện thường hay trồng ngũ cốc và chế tạo bia cho khách
khứa, là những những người đầu tiên dùng hoa bông gây
hương vị từ thế kỷ XIII. Dần dần phương pháp chế biến
được hoàn hảo thêm cho đến lúc nhà sinh học kiêm hóa học
Pasteur (1822-1895) khảo cứu và hiểu rõ cơ chế lên men thì
cách thức cũng như thiết bị được cải tổ, nấm men được
lựa chọn để tăng lanh và bảo đảm tiến trình chế tạo.
Công nghệ chế
tạo bia
Chế tạo rượu
bia trước kia là một tiểu công nghệ, dần dần mới thành
công nghệ lớn. Có khi bắp, gạo, khoai, sắn, mì, lúa miến
được dùng, đặc biệt đậu nành góp sức dinh dưỡng nấm
men đồng thời cống hiến nhiều loại vitamin B, hiện nay loại
ngũ cốc hầu như độc nhất được đưa vào công nghệ là
lúa mạch. Những hiệu bia khác nhau ở cách thức chế biến,
nhất là nhiệt độ sấy mạch nha cũng như ở giai đoạn lên
men. Công nghệ rượu bia gồm có hai giai đoạn chính : chế
tạo nước hèm và cho nước ấy lên men. Hột lúa mạch được
đem ngâm nước (3-4 ngày) để cho rễ con mọc ra (7-11 ngày).
Xong, người ta đem sấy dần dần 40-500, rồi đột
nhiên lên 80-900. Mầm khử, rễ rơi, hột lúa trở
thành mạch nha, trong ấy phát sinh nhiều enzym như diastase, amylase,
protease, peptidase, phytase, .... Mạch nha được xay thành bột,
cho vào nước nóng 65-750 (200-400 l/100kg bột) ; vào
lúc nầy, diastase làm nhiệm vụ biến hóa tinh bột trong mạch
nha thành đường, một hỗn hợp dextrin, sau nầy góp phần
vào hương vị rượu bia, và maltose, sẽ lên men, đồng thời
phân hủy những chất có đạm phức tạp ra albumin, peptin,
amin acid, .... Ngang đây, có khi người ta cho vào bột ngũ cốc
như bắp, gạo.... để ổn định và giảm hạ mùi vị bột
nhão. Bây giờ chỉ còn lọc bã trong thùng lọc hay qua máy
ép : phần rắn dành làm thức ăn cho gia súc ; nước hèm trong
và ngọt được đun lên 100° (1 giờ rưởi đến 2 giờ), chấm
dứt hoạt động của diastase, làm kết tủa những chất có
đạm, đồng thời khử khuẩn và cô đặc dung dịch. Chính
ở lúc nầy, hoa bông (40-400g/hl) được cho vào để vừa làm
tăng khẩu vị bia, đặc biệt vị đắng, vừa làm trong suốt
thêm và ổn định chế phẩm.
Bắt đầu giai đoạn
thứ hai, nước hèm được cho xuống 50, đổ vào
thùng lên men có máy điều hòa nhiệt độ. Qua tác dụng của
nấm men, thường là Saccharomyces cerevisiae, có khi S.
carlsbergensis hay vài loại khác ít dùng, các chất đường
biến hóa thành rượu và khí carbonic. Là một phản ứng phát
nhiệt nên luôn cần phải kiểm soát nhiệt độ, lên men diễn
biến thành 2 đợt : đợt đầu là đợt chính, xao động,
nhộn nhạo, đợt sau nhẹ nhàng chỉ để bổ sung. Trong quy
trình lên men ở nhiệt độ thấp, đợt nhất được giữ
ở 8° trong khoảng 8-10 ngày, nấm men được gạn đi truớc
khi qua đợt sau giữa 0 và 20. Trong quy trình lên men
ở nhiệt độ cao, có thể cho nước hèm lên đến 15-200,
nhưng chỉ trong 4-5 ngày, nấm men nổi lên mặt nước, phải
vớt đi trước khi qua đợt nhì 4-50. Trong cả hai
phương pháp, đợt nhì nầy kéo dài 2-3 tháng trong thùng kín,
khí carbonic ngày càng tăng và bia ngày càng chín tới. Việc
lên men lúc trược được thực hiện trong các thùng gỗ, ngày
nay được thay bằng các thùng kim loại tráng men hay các thùng
xi măng có vách cách nhiệt. Có thể nói lên men là giai đoạn
quan trọng nhất trong công cuộc chế tạo bia : nhiều vi sinh,
vật lạ, không dính dấp gì đến nấm men, có thể cản trở
tiến trình và gây ra thiệt hại không vãn hồi được. Nhờ
những công tác của Pasteur và nhiều nhà vi trùng học khác,
người ta đã loại bỏ được các vi sinh vật có hại kia.
Đằng khác, cuộc lựa chọn nấm men cũng như nước dùng ở
mỗi giai đoạn cũng rất quan trọng để đạt được rượu
bia ngon lành. Rượu bia chế biến ra thường đủ để uống
nhưng cũng có khi người ta đem lọc qua màng cellulot. Sau đó
chỉ còn việc chắt vào thùng phuy, chai hay hộp với máy đẳng
áp để luôn giữ áp suất khí carbonic. Nói chung, trong một
lít bia, loại 5% alcool, trung bình có (g) : acid hữu cơ (0,7),
alcool (40), chất đắng (0,02), glucid (35), glycerol (1,6), khí carbonic
(4,5), muối khoáng chất (1,6) trong ấy (mg) : Ca (30-100), K (300-450),
Mg (70-135), Na (25-130), P (70) (86). Thành phần tùy loại rượu
có thể thay đổi ít nhiều.
Lúa mạch và
hoa bông
Ngũ cốc chính dùng
trong công nghệ rượu bia là lúa mạch. Lúc trước mọc hoang
trong những thảo nguyên cạnh hồ Caspienne ở biên thùy Âu-Á,
nó chỉ được trồng vào thời kỳ đồ đá mới. Dễ thích
ứng với điều kiện thiên nhiên, nó phát triển ở các vùng
vừa nóng và khô (Bắc Phi, Trung Đông, nội địa Ấn Độ),
vừa ẩm và lạnh (Na Uy, Xiberi, Gia Nã Đại), ngay cả ở cao
độ (đến 4.500m trong dãy Hi Mã Lạp Sơn). Năng suất từ 13
tạ mỗi ha có thể nhân đôi trong trường hợp trồng trọt
gia tăng. Tổng số sản xuất trên thế giới dưới hai triệu
tấn mỗi năm, đứng hàng thứ tư trong số các ngũ cốc sau
mì, bắp và lúa. Bắc bán cầu sản xuất 80% trong tổng số
ấy mà 60% ở vùng vừa lạnh từ Trung Quốc qua Âu châu đến
Gia Nã Đại, vừa nóng như Ma Rốc, Ấn Độ. Ở nam bán cầu,
các nước sản xuất chủ yếu là Argentin, Úc Đại Lợi. Tiêu
thụ nhiều nhất là các nước nuôi gia súc hoặc làm rượu
bia (1). Thuộc họ Lúa Graminae (hay Poaceae),
lúa mạch có khoảng 12 giống, thông thường nhất là Hordeum
sativum Jes. var. vulgare Hack. Hai loại thường được
dùng có hai hoặc sáu nhánh hột : loại thứ nhất giàu phần
chiết ở châu Âu, loại thứ nhì, giàu enzym bên châu Mỹ.
Ngoài tinh bột chiếm phần lớn trong hột (60%), lúa mạch còn
chứa (%) hemicellulot, pectin (8-11), cellulot (4-7), protein và các
chất có đạm (1,5-3), các chất đường (2,5), các chất mỡ
(2,5), lignin (1,5-3), tro (2,5), chút ít tannin và nước (10). Trong
dân gian, ở Âu Châu, có nơi nấu sắc lúa mạch làm nưóc
uống thuốc bổ.
Cứng và vô vị,
hột lúa mạch khi trở thành mạch nha thì dịu ra và có phần
ngọt. Ngoài những chất đường, sinh tố, mạch nha còn phát
sinh các diastase : đấy là những enzym như protease biến hóa
protein thành những phân tử dễ tan hòa trong nước, hay hemicellulase
có khả năng cắt các tổ chức tế bào để cho tinh bột lọt
ra ngoài. Vì vậy, vai trò của mạch nha rất quan trọng. Trong
loại lagers bên Đức hay bên Mỹ, còn gọi là bia lên
men ở đưới đáy, như các bia Pilsener, Dormund, bia màu lạt
(3-4% alcool), có khi màu đậm hơn như bia Munchen (2,5-5% alcool),
mạch nha không có bao lăm hương vị. Cũng có thể cho thêm
đường thắng hay mạch nha nướng để vừa tăng hương vị
vừa thêm màu sắc như ở bia Bock. Trong loại bia lên men ở
trên mặt, hương vị mạch nha nổi trội. Bên Anh, bia ale,
màu lạt (4-5% alcool), gồm có hai thứ : bia đắng và bia ngọt,
cho nên có lối gọi nổi tiếng "half and half" trộn hai
thứ lại với nhau. Ở Pháp có loại bia
panache
lúc trước
gọi ở quầy, bây giờ có bán sẵn, cũng trộn hai thứ lại
với nhau nhưng chỉ có một thứ là bia, thứ kia là limonade,
lẽ tất nhiên ngọt hơn bia một mình. Trong số bia ngọt có
bia Stout đã được thêm đường thắng và mạch nha đen (5-6,5%
alcool). Mạch nha có tác dụng bồi bổ rất tốt cho những
người ăn uống kém tiêu hay không muốn ăn. Nó cũng được
dùng chữa các bệnh phù do thiếu vitamin (ĐTL).
Hương vị đặc
biệt của rượu bia phần lớn là từ hoa bông, hay hương bia,
hay hublông (phiên âm từ tìếng Pháp) mà lại. Thuộc họ Gai
mèo Cannabinaceae, cây Humulus lupulus L. trước kia
là một loại dây leo hoang dại, dần dần được trồng ở
các nước ôn đới ẩm thấp Âu châu, Á châu cũng như Mỹ
châu. Ở nước ta những năm sau nầy, vì nhu cầu tránh nhập
cảng, cũng có thử trồng thí nghiệm ở Mộc Châu, Hà Bắc,
Đà Lạt. Chỉ có hoa cái được dùng vì tương đối thơm
hơn hoa đực. Ngoài những thành phần chính (%) : protein (55),
nhựa (19), cellulot (13), hoa còn chứa tanin (3), tinh dầu (0,4),
tro (7,5) và nước (12,5). Lúc đầu hoa được dùng chỉ để
thêm hương vị cho rượu bia. Dần dần, người ta nhận thấy
hoa bông còn có tính chất ổn định nước hèm đồng thời
cầm giữ độ nồng và lớp bọt. Võ đắng của rượu bia
là do những hóa chất humulon, lupulon trong hoa bông mà ra. Humulon
thơm hơn chất kia, còn có tính chất trị khuẩn, đặc biệt
khuẩn hạt kê (sarcine) trong bia. Ngoài hoa cái dùng trong công
nghệ rượu bia, hoa bông còn cống hiến những đọt non vào
mùa xuân soạn ăn như măng tây, bột tuyến lông tuyết (lupulin)
vàng nâu hăng đắng trên hoa cái dùng làm thuốc giảm đau,
dịu dục nhờ có chứa valeranic acid, nón trái dạng trứng
pha nước sôi uống khử lọc và lá cây sắc uống chữa lỵ,
sốt, còi xương, tạng lao trong y học bình dân. Ở Âu châu,
hoa bông được xem như cây thuốc đa trị : bổ dưỡng, khai
vị, sát trùng. Vì có tác dụng tốt lên các đường tiêu
hóa , nó đã được dùng để chữa trị các bệnh biếng ăn,
ruột mất trương lực, thần kinh dạ dày (1). Cây
sàn sạt H. japonicus Sieb. et Zucc. cùng họ với H. lupulus,
mọc
hoang dại khắp nơi ở nước ta, cũng được lấy lá tươi
hay lá khô sắc uống đỡ khát nước hay để chữa lỵ, sốt,
nhưng không có lông tiết thơm nên không được dùng chế biến
rượu bia, thường chỉ cho trâu bò ăn (ĐTL).
Hương vị từ
hóa chất
Như đã thấy, những
chất humulon, lupilon trong hoa bông đã có ảnh hưởng lớn lên
hương vị rượu bia. Khảo cứu sâu rộng hơn, người ta đã
khám phá ra ra cả một loạt chất ceton có gốc OH phenol nên
lúc đầu lầm đặt tên lupilipic acid, sắp thành hai nhóm :
nhóm alpha-acid (85-95% tổng số) gồm có humulon, cohumulon, adhumulon,
đem đun nóng thì biến chất thành iso-alfa-acid cid tương ứng,
nghĩa là isohumulon, isocohumulon, và nhóm bêta-acid gồm có lupulon,
colupulon, adlumulon. Iso-alfa-acid là chất đắng quan trọng nhất.
Rượu bia còn chứa nhiều hóa chất khác, ít nhiều đều có
đóng góp vào hương vị chung: humulol, humulenol, humuladienon,
humulen oxid, humulen, myrcen, caryophyllen, farnesen, linalool, geraniol,
geranylisobutyrat nồng độ lớn trong các loại bia Cluster, Cascade
(18).
Thật ra, hóa chất đủ chức đều có mặt trong rượu bia,
mỗi chức nhiều chất, mỗi chất một ít, lắm lúc cở ppm
: acid (một công tác đã dò ra 81 chất acid dễ bốc hơi), ester
(đặc biệt ethylacetat, ethyllactat cống hiến những hương vị
điển hình các rượu bia loại lambic hay
gueuse bên
Bỉ ), alcool, aldehyd, ceton, phenol, polyphenol. Nhiều amin acid cũng
đã được tìm ra : valin, leucin, isoleucin, alanin, prolin, glycin,
aspartic acid, threonin, methionin, glutamic acid, phenylalanin, serin
tyrosin, lysin, arginin, tryptophan, histidin.
Người thính mũi
có thể ngửi thấy trong rượu bia mùi hành, nguyên do từ các
hoá chất có lưu huỳnh : dimethyl sulfid, methional, methyl ethyl
thiiran, methyl mercaptapto- butanal, -pentanon từ phản ứng của
hydrosulfid với mesityloxid mà ra ; một loạt methyl thio- propanol,
-propanal, -propylacetat, -propionic acid cùng ester tương ứng và
methyl tetrahydro thio phenol. Một công trình khảo cứu khám phá
các vi khuẩn Flavobacterium đã tạo ra ethyl mercaptan và
dimethyl sulfid dễ bốc hơi, còn nấm men S. diastaticus thì
đem lại hai diceton : diacetyl và pentadienon, trong lúc vi khuẩn
Pediococcus
cerevisiae cho sản xuất diacetyl, acetolactat còn
Clostridium
tertium thì cống hiến butyric acid có mùi phó mát. Hương
vị rượu bia còn chịu ảnh hưởng một số hóa chất đủ
loại khác như furan, pyridin pyrazin, thiazol, guanosin, catechin,
quercetin, tryptophol, tyrosol, phenyl ethanol hay các hydrocarbua thơm
đa nhân như benzathrancen, benzopyren, benzoperlen, dibenzopyren. Cyanidin,
delphinidin phát xuất từ chất sắc leuco anthocyanin đã được
tìm ra trong bia cùng với nhiều flavonoid như kaempferol, myricetin
và cafeic, coumaric, ferulic, chlorogenic acid. Từ nước hèm qua
rượu bia, các flavonoid nầy biến chuyển rất nhiều, cái mất
đi, cái hiện ra. Cũng có mặt trong mật, trà, cà phê, chỉ
vào cở vài microg/kg, chất lượng damascenon góp phần lớn
vào hương vị bia. Một mùi đặc biệt tiết ra từ sữa dê,
gọi là hương caprilic (từ tiếng La Tinh capra chỉ dê
cái) cũng có mặt trong bia qua ngay capric hay caprilic acid, hoặc
qua các hexanoic, và nhất là octanoic, decanoic acid. Hai acid sau
nầy có nhiều trong bia lagers dùng men S. warum thay
vì men S. cerevisiae trong bia ale.
Trong số những chất
dinh dưỡng phải kể trước tiên là các chất đường: sucrose,
maltotriose, melibiose và những dạng alfa, bêta những glucose,
fructose, maltose, lactose. Sinh tố, ngoài vitamin C (20-50 mg/l), đặc
biệt có vitamin B đủ loại, không nhiều, khoảng vài mg/l mỗi
thứ hay ít hơn, như B1 (thiamin), B2 (riboflavin),
B3 hay PP (niacin, nicotinic acid), B5 (pantothenic
acid), B6 (pyridoxin), B8 hay H (biotin), B9
(folic acid), B12 : cyano cobalamin (2).
Độc tố và
vi khuẩn
Cũng nên biết khi
rượu bia bị nhiễm Penicillum crustosun Thom thì những
độc tố alcaloid như các roquefortin và festuclavin được tách
ra (20). Đằng khác, những ochratoxin A, trichothecentoxin
đã được tìm thấy trong 86 loại bia Âu châu, nhưng theo các
tác giả nghiên cứu thì số lượng quá ít để phá hoại
sức khỏe trừ phi uống bia quá độ (22). Gần đây
một chất có tên dài lê thê amino methyl phenyl imidazo pyridin
có khả năng gây ung thư cũng đã được phát hiện trong rượu
bia cũng như trong rượu vang, với số lượng tương đối nhỏ
(14,1-30,4 ng/l). Trái lại, một nghiên cứu trên chuột cho biết
nếu bia không có tác dụng lên sự phát triển u khối, nó
tăng gia tính chất độc hại tế bào chống u khối ở mức
bạch huyết bào (21). Cũng như rượu vang, rượu bia
có tính chất tiêu máu nhưng các tác giả cho biết thêm là
nếu rượu có hơn 40% alcool thì có thể làm đông tụ máu
(19).
Có nhiều người ít may mắn vì sức khỏe không được phép
uống ruợu bia. Kỹ nghệ không quên thị trường nầy. Nhiều
văn bằng sáng chế đề nghị những phương cách chế tạo
bia ít đường cho những người béo mập hay bị bệnh đái
đường bằng cách chọn lựa những lúa mạch Bohemian, Bavarian,
amyloglucidase (23), những men S. diastaticus, S. carlsbergensis
(7),
kiểm soát nhiệt độ (64-660) (3), độ pH
(4,1-5,4) (16), số lượng diastase (5), thay
đổi quy trình lên men (17), cho thêm Gymnema sylvestre
(24).
Trong trường hợp sau nầy, tính chất gây cảm giác vẫn tồn
tại và người bị huyết áp cao cũng dùng được. Nhiều công
tác khảo cứu và văn bằng sáng chế đề nghị những phương
cách chế tạo bia ít rượu bằng cách thêm nước (11),
chưng rượu
(15), hạn chế cuộc lên men (12),
đảo ngược những đợt thấm lọc (13,14), thay đổi
quy trình (6,10). Cũng có văn bằng sáng chế đề nghị
chế tạo rượu bia không lên men (4) hay rượu bia
có khẩu vị sâm banh (9).
Ngày nay thế giới
đếm có khoảng 40.000 nhãn rượu bia, tiêu thụ hàng năm trên
dưới 150 tỷ lít. Những nuớc uống nhiều nhất là (trung
bình mỗi đầu người mỗi năm) : Tiệp Khắc (cũ), Đức,
Anh (trên 100 l); Bỉ , Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (dưới
100 l); Hoa Kỳ, Hòa Lan, Nhật Bản (trên 75 l). Một bản kê
bên Hoa Kỳ 50 nhãn bia ngon nhất thế giới sắp một hiệu
Bỉ đứng đầu và 13 hiệu khác trong số 50 nhãn ấy. Còn
cuốn sách Le Petit Futé của nhà xuất bản Neocity thì giới
thiệu 175 hiệu Bia Bỉ ngon nhất. Thường bia được sắp thành
4 loại tùy màu rượu thay đổi theo nhiệt độ sấy mạch
nha : trắng (chế biến vói mạch nha màu lạt, có dạng đục
tuy bọt trong, nên uống vào khoảng 4°), vàng (còn gọi là
pils
hay lagers, mạch nha màu vàng, nhiều bọt, giải khát,
được dùng nhiều nhất, cũng nên uống vào khoảng 4°), hung
hay vàng hổ phách (còn gọi là ale, mạch nha sấy ờ
15-200, hương vị lan tỏa, nên uống vào khoảng 8-9°)
và sẫm (còn gọi là stouts, mạch nha màu nâu vì sấy
ở nhiệt độ cao, bọt nhờn, có thêm nhiều hoa bông, tương
đối đắng hơn các bia khác, nên uống vào khoảng 10°). Khi
ta cho nước đá vào ly bia thì không những không biết được
chính xác nhiệt độ rượu mà còn làm loãng rượu. Những
hãng làm bia thường khuyên không nên trữ rượu bia như rượu
vang, cũng không nên bày ra ánh sáng hay phơi ra mặt trời. Vì
vậy, trong bia lon ít có hóa chất cho thêm vào để ổn định
rượu hơn trong bia chai. Những người sành uống khuyên nên
rửa sạch ly trước khi dùng. Khi rót bia, nên nghiêng ly cho
bia chảy theo thành ly, tránh gây ra bọt ít chừng nào hay chừng
nấy, rồi dần dần dựng ly lên thẳng : rót xong, lớp bọt
lý tưởng là 3cm, giữ lại hương vị trong ly bia. Nếu ly không
sạch, có vết mỡ chẳng hạn, là lớp bọt rơi ngay, mùi hương
từ đó cũng bay mất. Người Đức biết thưởng thức bia
thường bảo "bia không bọt không phải là bia !"
Hai ứng dụng bất
ngờ của rượu bia là cho trộn với hydroperoxid để làm thuốc
nhuộm tóc hay để bẫy trùng Deroceras retuculatum, hiệu
nghiệm hơn nếu trộn với methyl thiosylyl methyl carbamat, còn
trộn với methaldehyd thì lại thu hút được trùng Vaginulus
plebeius (8). Ở Âu châu, người ta tin đàn bà mới
nằm nơi nên uống rượu bia để có nhiều sữa. Nhà tôi không
uống rượu bia nhưng lại làm vơi kệ rượu của tôi vì nàng
dùng bia trong hai công việc mà chắc không một ông chủ hãng
làm bia nào nghĩ đến : bà chùi rửa và làm bóng lá mấy cây
kiểng trồng trong nhà với rượu bia và trộn nó với mù tạt
trong món thịt heo quay theo thực đơn vùng Alsace. Trong trường
hợp nầy, đúng điệu là uống rượu bia thay rượu vang và
ít ra cũng phải khui một chai 1664. Âu cũng là một dịp may
để giữ thăng bằng trong gia đình !
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 2(24) (1999),
khoahoc.net 08.06.2006
Tham khảo
1-Encyclopaedia
Universalis, houblon tr. 256, orge tr. 2543
2- M. Apfelbaum, C.
Forrat, P. Nillus, Diététique et nutrition, nxb Masson, Paris
Milan Barcelone (1997), bière tr. 281
3- H. Distler, Beer
with a low sugar content, US. 2.223.444 (1941)
4- S. Hayakawa, Synthetic
beer, Japan 6443 (’51) (1953) ; Japan 2494 (’54)
(1955)
5- I.F.F.E. Pauls,
R.R.A. Quatz, Beer for diabetics and obesity, US 2.783.147
(1957)
6- Aktiengesellschaft
fur Brauereiindustrie Glarus, Beer with low alcohol content, Belg.
631.370
(1963)
7- W. Bertram, J. Letz,
G. Mai, P. Trillhaase, K. Albrecht, O. Schwietzer, G. Plat, K. Leitensdoerfer,
Complete
beer for diabetics,Ger.(East)
68.883 (1969)
8- F.F. Smith, A.L.
Boswell, New baits and attractants for slugs, J. Econ. Entomol.
(6)
63 (1970) 1919-22
9- V.S. Bavisotto,
J.S. Haggenmiller, S. Jerome, Naturally brewed malt beverage tasting
like champagne, Ger. Offen. 2.163.263 (1972) 14 tr.
10- E. Mischik, Alcool-free
beers, Ger.Offen.
2.225.270 (1973) 14 tr.
11- Lowenbraun Munchen,
Beer
with reduced alcohol content, Ger. Offen.2.243.800 (1973) 4
tr.
12- R. Fohr, Beer
of low alcohol content, Ger. Offen. 2.305.492 (1973) 3 tr.
13- K.W. Adler, New
procedure for the production of low-alcohol beer, Brauwelt (22)
114
(1974) 443
14- K.W. Adler, G.
Buerzle, Beer of reduced alcohol content, Ger. Offen. 2.323.094
(1974) 11 tr.
15- S. Masior, T. Kuchciak,
J. Surminski, Production method for light low alcohol beer with alcohol
recovery, Przem. Ferment. Rolny (1) 20 (1976) 2-4
16- .J. Kozma, Dietetic
beer, a new product, Soripar (1) 23 (1976) 3-7
17- V. Cernohorsky,
J. Faktor, G. Klazar, T. Tarant, Light beer for diabetics, Czech.
168.337
(1977) 3 tr.
18- V.E. Peacock, M.L.
Deinzer, S.T. Likens, G.B. Nickerson, L.A. Mc Gill, Floral hop aroma
in beer, J. Agric. Food Chem.
(6)
29 (1981) 1265-9
19- T. Takamatsu, T.
Matsumoto, E. Fukada, H. Hatsumoto,
Hemolysis and blood coagulation
by mixed solutions of ethyl alcohol and saline solution, Rikagaku
Kenkyusho Hokoku (4) 57 (1981) 63-70
20- R.J. Cole, J.W.
Dorner, R.H. Cox, L.W. Raymond, Two classes of alcaloid mycotoxins producced
by Penicillum crustosum Thom isolated from contaminated beer, J.
Agric. Food Chem. (3) 31 (1983) 655-7
21- D.J. Autelitano,
A.E. Howarth, Promoting effect of beer and ethanol on antitumor cytotoxicity
: unaffected growth of a transplantable rat tumor, Aust. J. Exp.
Biol. Med. Sci. (4)
62
(1984) 507-14
22- P. Payen, T. Girard,
M. Gaillardin, P. Lafont, Presence of mycotoxins in beer, Microbiol.
Aliments Nutr. (2) 1 (1983) 143-6
23- M. Cerny, V. Cernohorsky,
V. Perina, M. Prudel, Manufacture of beer for diabetics, Czech.
CS
252.309 (1988) 4 tr.
24- T. Sekine, S. Sekihashi,
A. Murakami, Gymnema sylvestre in preparation of beers, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 04.356.178 (1992) 3 tr. |