Chiều
chiều gọt mướp nấu canh,
Thấy
anh qua lại bỏ hành lộn om.
Ca
dao.
Ngày
xưa, một anh dân quê nhân cứu sống một con chim thần được
nó tặng một chai nước có phép lạ làm người trẻ lại,
đẹp ra. Cô vợ tưởng chai dầu thơm đem xức thì trở nên
xinh xắn lạ thường. Nhà vua nghe nói đến nhan sắc cô ta,
sai bắt đem về làm thiếp trong cung. Buồn bã xa chồng, cô
ta bỏ ăn, mất ngủ, không nói, hết cười. Nhà vua thấy vậy
liền ra lệnh ai làm cô vui tươi thì được thưởng. Từ miền
quê xa, anh dân quê cũng thương nhớ cô vợ, rời bỏ ruộng
nương, vai mang gánh hành tiến về kinh đô, vừa tìm vừa rao
:
Dọc
bằng đòn gánh
Củ
bằng bình vôi
Ai
mua hành tôi
Thì
thương tôi với !
Cô
vợ nghe rao, nhận ngay tiếng chồng mình, đòi đưa người
bán hành vào và tức khắc trở nên tươi cười hớn hở.
Nhà vua tưởng cách ăn mặc của người bán hành là nguyên
do sự thay đổi thái độ của cô nàng, liền phán đổi áo
quần mình với người bán hành. Vào lúc đó, chó dữ trong
cung chạy ra lầm lẫn cắn chết nhà vua. Sẵn mặc triều phục,
như mệnh trời đã định, anh bán hành được đưa lên ngai
vàng thế vua ....
Câu
chuyện đời xưa tràn đầy luân lý tuy là ảo tưởng. Phần
hiện thực nằm quanh củ hành, cùng với tỏi là hai gia vị
độc đáo có một không hai trong các món ăn. Cũng như trái
sầu riêng được cho vừa thơm vừa thúi, trong nhân loại nếu
có người ham mê hành tỏi thì cũng có kẻ không chịu nổi
mùi vị hăng nồng của chúng. Sách sử về các vua chúa Ai
Cập thuở trước đã nói đến những hình chạm hành tỏi
trong các lăng mộ vì các gia vị nầy không thể thiếu dù
ở thế giới bên kia, nhưng cũng có những văn bản khuyên
các giáo sĩ ngày thường cũng như trong các buổi lễ không
nên ăn tỏi vừa gây khát nước vừa làm cay mắt. Cũng vào
thời kỳ ấy tỏi là gia vị quý báu của những công nhân
xây dựng các Kim Tự Tháp vì có khả năng tăng cường sức
lao động. Những đấu sĩ Hy Lạp, quân binh La Mã được cho
ăn hành tỏi để tăng cường sức chiến đấu nhưng không
được dùng trước khi vào đền miếu. Ở Trung Quốc, người
ta bảo hành tỏi được thông dụng ngay cả trước khi có
chữ viết. Tục truyền một hôm theo Ngọc Hoàng trèo núi,
một vị thần ăn phải trái độc, nhờ nhà vua cho ăn tỏi
mà được cứu sống. Ở Ấn Độ, tỏi là một trong những
môn thuốc quan trọng trong ngành y học cổ truyền Ayurvedic
(khoa học đời sống) nhờ năm vị mặn, ngọt, cay, đắng,
gây se. Sau nầy, pho sách y khoa Kasyapasamhita miêu tả tường
tận cách dùng tỏi.
Ở
bên ta, ít có món ăn nào mà không nêm hành tỏi. Đặc biệt
tô phở đâu có thiếu được lá hành. "Nếu là gánh phở
ngon - cả Hà Nội không có đâu làm nhiều - thì nước dùng
trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gàu dòn chứ
không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả ...." (Thạch Lam,
Hà
Nội băm sáu phố phường) ".... chỉ có khác người lớn
là cái bát phở tuổi ấu trẻ chưa biết đau khổ ấy chưa
cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay" (Nguyễn
Tuân,
Phở). Tết đến, cùng với câu đối đỏ, làm
sao thiếu được thịt mỡ, dưa hành. Còn ở Huế, chỉ đọc
sách cô Hoàng Thị Kim Cúc tả cách sửa soạn làm chả bò
là cảm thấy ngay mùi vị món ăn độc đáo : "Thịt bò tươi,
lạng hết bạng nhạn xắt lát bỏ vào cối quết chung với
vài lát mỡ cho thật nhỏ rồi gia hành, tỏi giã nhỏ, tiêu,
nước mắm ngon, đường phèn giã nhỏ, lòng trắng trứng vịt,
mỡ nước, vắt vào một chút nước chanh cho trắng" (Chả
bò,
Món ăn nấu lối Huế".
Hành,
tỏi thuộc họ Hành tỏi Liliaceae hay Hoa kèn đỏ Amaryllidaceae,
chi Allium (từ chữ all của dân tộc celte, có nghĩa
là cay). Chi Allium có nhiều loài, theo những sách đã
tham khảo : hành tây, hành củ còn gọi dương thông là A.
cepa L. (oignon, onion) ; tỏi A. sativum L. (ail, garlic)
; hành hương, hành hoa còn gọi đại thông, thông bạch A.
fistulosum L. (ciboule, scallion) ; hành ta, hành tăm A. ascalonium
Auct.
(échalote, shallot). Ngoài ra còn kiệu A. chinense G. Don hay
A.
bakeri Regel ; hẹ A. odorum L. ; nén A. schoenoprasum
L.;
nén tàu A. tuberosum Rottl. ; tỏi tây
A. porrum L. Giáo
sư Đỗ Tất Lợi cho hẹ và nén tàu là một loài, còn gọi
phi tử, cửu, cửu thái (toàn cây hẹ gồm lá và rễ), dã
cửu : A. odorum L., A. tuberosum Roxb. Trong
cuốn sách tập thể Cây thuốc thông thường ở Việt Nam
(Hà nội 1975) các tác giả không phân biệt nén và
hành tăm : A. ascalonicum L.,
hẹ và cửu : A ; odorum
L.,
A. iliginosum G. Don. Theo giáo sư Phạm Hoàng Hộ hẹ là
A. tuberosum Rottl. et Spreng, đồng tên với
A. odorum Auct.
và A. uliginsum G. Don. Đó là không nói đến những loài
Allium khác :
A. ampeloprasum, A. grayi, A. macrostemon, A.
scoreolplasm, A. siculum, A. ursinum.
Trong
khuôn khổ bài nầy chỉ xin giới hạn lãnh vực hành và tỏi.
Một
phòng thí nghiệm hoá chất lưu huỳnh
Là
những gia vị được dùng nhiều và khắp nơi, hành tỏi không
thể để các nhà bác học cũng như những hãng kỹ nghệ dửng
dưng. Từ năm 1844, nhà hoá học Đức T. Wetheim nấu củ tỏi
trong nước, chiết xuất ra tinh dầu tỏi chứa đựng nhiều
chất cay nồng mà ông đặt tên là allyl (từ Allium).
Ngày nay từ ngữ allyl được dùng để chỉ chức -CH2CH=CH2.
Chức nầy rất quan trọng trong hóa học hành tỏi vì vì rất
nhạy cảm, nó dễ phản ứng với những phân tử khác, nhất
là khi nó dính với nguyên tử lưu huỳnh S-CH2CH=CH2.
Gần 50 năm sau, cũng một nhà hóa học Đức khác, T.W. Semmler,
dùng cùng phương pháp, chiết xuất chất dithioctadien hay diallyl
disulfid CH2=CHCH2-S-S-CH2CH=CH2
gồm có hai chức allyl và hai nguyên tố lưu huỳnh. Sau đệ
nhị thế chiến, năm 1944, đúng 100 năm sau T. Wethelm, ở hãng
Sterling Winthrop, nhà hóa học C. Cavallito, từ 4 kg tỏi, dùng
cồn trộn nước, trích rút được 6 g một tinh dầu có tính
chất diệt trùng, khử nấm, đem thử với Bacillus typhosus
thì
tác dụng mạnh hơn cả penicillin : đó là chất dithianonadien
oxid hay diallyl thiosulfinat CH2=CHCH2-S(O)-S-CH2CH=CH2
tức là oxid của chất diallyl disufid đã thấy, được đặt
tên allicin. Chính chất nầy đã cống hiến mùi vị của
tỏi (7). Ở môi trường kiềm như vôi, tro bếp, nó
bị khử oxid, trở lại diallyl disulfid, thì hết còn nồng cay.
Điều
lạ là trong tỏi còn nguyên không có allicin, nghĩa là
không có mùi tỏi. Mùi nầy chỉ bốc ra khi cắt lát hay giã
nhỏ củ tỏi. Năm 1948, A. Stoll và E. Seeback ở hãng Sandoz khám
phá ra bí mật nầy : trong củ tỏi có sẵn một amin acid chứa
lưu huỳnh và chức allyl CH2=CHCH2-S(O)-CH(NH2)-COOH
tức là allylcystein sulfoxid còn gọi alliin ; khi cắt củ
tỏi ra hay khi ta đưa vào miệng nhai, một enzym là allinase(9)
xúc tác phản ứng chế biến allicin từ
alliin. Một
hiện tượng song song cũng diễn biến trong củ hành. Dùng cồn
ở dưới 0 độ như đã chiết xuất alliin từ tỏi,
nhà sinh vật hóa học Phần Lan A. Virtanen phát hiện chất propenyl
cystein sulfoxid CH3-CH=CH-S(O)-CH(NH2)-COOH đồng
phân với alliin (chỉ khác nhau ở vị trí dấu nối đôi)
(5).
Khi cắt củ hành ra hay giã như tỏi thi enzym allinasexúc tác
biến hóa sulfoxyd kia thành thiopropanal oxid CH3-CH2CH=SO
dưới cả hai dạng E và Z mà dạng nào cũng kích thích mắt
làm ta chảy nước mắt, dạng Z có phần hữu hiệu hơn (E
= entgengen = trans ; Z = zumannen = cis). Chất nầy dễ bốc hơi
nên nếu ta gọt hành ở nhiệt độ thấp thì ít bị cay mắt
hơn, cũng như khi nấu ăn nên cho hành vào lúc cuối. Nó lại
dễ tan hòa trong nước thì nên gọt hành trong nước thù ít
có tác dụng lên mắt. Thật ra, người ta đã phát hiện ra
được trong hành hơn 50 hóa chất dễ bốc hơi (bên tỏi có
phần ít hơn) mà hơn một nửa có mang lưu huỳnh trong phân
tử (4).
Chất
thiopropanal oxid trong tỏi cũng như trong hành là một phân tử
nhạy bén, lại có sẵn enzym xúc tác, mặc sức tác dụng lên
nhau chế biến một loạt sulfenic acid R-SOH, trong ấy R có thể
là CH3, C3H7, CH3CH=HC
hay CH2=CHCH2(7). Nó tác dụng với
nước thành propan nên gọt hành dưới nước thì ít bị chảy
nước mắt hơn. Đến lượt các sulfenic acid cũng ít ổn định,
tác dụng lên nhau cấu thành những phân tử lớn hơn : hai
phân tử thì thành allicin, ba phân tử thì thành trithiadodecatrien
oxid CH2=CHCH2-S-S-CH=CH-S(O)CH2CH=CH2
còn
được gọi ajoen (từ tiếng Tây Ban Nha ajo
nghĩa
là tỏi). Chất nầy rất quan trọng, nhất là ở dạng Z, vì
nó có khả năng chống đông tụ, ngăn cản tiểu cầu kết
tụ, từ đó ngừa chặn máu kết đặc, lại có tính chất
chống dị ứng, diệt trùng, khử nấm, lại độc hại tế
bào, được dùng chống nhậy loại Tetranychus urticae,
kháng khuẩn sinh bệnh và dịch cây. Thật ra, tính chất chống
đông tụ đã được phát giác ở những chất khác mang lưu
huỳnh của hành và tỏi, ngay ở allicin, những sulfinyl
disulfid, diallyl trisulfid, thiosulfinat, sativin, hay adenosin.
Ngày
nay người ta đã tìm hiểu được quá trình chống máu đông
tụ của các chất nầy, đặc biệt của ajoen. Khi ta
bị thương, máu chảy, tức thì những tiểu cầu lại dính
vào chất collagen ở thành mạch máu, càng lâu càng nhiều để
cố cầm máu. Đồng thời, một enzym gọi là thrombin
lại biến hóa một chất hòa tan trong máu là fibrinogen thành
một chất không hòa tan là fibrin. Chất nầy là một loại
keo kết dính các tiểu cầu lạị với nhau. Nhiệm vụ của
ajoen
là cấm chỉ thrombin dính vào tiểu cầu. Cơ chế cấm
chỉ chưa được biết rõ ràng tuy người ta đã thấy ajoen
không
chiếm chỗ thrombin mà chỉ tác dụng lên những điểm
nhận cảm khác của thành mạch máu. Trong nhiệm vụ nầy,
ajoen
là một đồng vận qúy báu cho prostacyclin thiên nhiên có
sẵn trong máu hay aspirin nhân tạo bên ngoài đưa vào. Ở trường
Y khoa Poona bên Ấn Độ, một cuộc khảo cứu dịch tể học
trên ba nhóm người không ăn chay (khoảng 50 g tỏi và 600 g
hành mỗi tuần) chỉ rõ máu những người không ăn hành tỏi
đông tụ rất mau và số lượng fibrinogen cũng lớn hơn ở
máu các người khác. Vì ngăn cản được máu đông tụ, ajoen
còn đóng một vai trò quan trọng trong việc chạy chữa
các bệnh tim mạch, nhất là nó không có mùi hôi, không gây
nhiễu loạn như những chất thuốc khác. Nhiều bác sĩ không
ngần ngại khuyên ăn tỏi để tăng cường tác động thiên
nhiên tốt lợi của prostracyclin trong cơ thể. Một công tác
khảo cứu cho thấy sau 26 tuần ăn tỏi, cholesterol đã giảm
20% và thromboxan 80% trong máu. Bên cạnh lưu huỳnh cũng không
nên quên vai trò của nguyên tố selenium, tuy có ít trong hành
tỏi, cũng đã rất cần thiết cho cuộc phát triển tế bào
và theo vài tác giả thì thiếu nó huyết áp dễ tăng.
Kháng
sinh, diệt trùng, trừ nấm, khử giun
Thật
ra từ thuở xa xưa, hành tỏi không những là những gia vị
cần yếu mà còn là những chất thuốc hay ho. Theo một văn
bản Ai Cập 1550 trước công nguyên, trong 800 đơn thuốc, đã
thấy có hơn 20 đơn dùng tỏi điều trị các bệnh đau tim,
đau đầu, vết cắn, giun sán, khối u, .... Sau đó bên Hy Lạp,
lương y Hippocrate cũng như triết gia Aristote đã khuyên dùng
tỏi để chữa các chứng bao tử, nhiễm bệnh, lọai nước.
Còn thi sĩ Aristophane, cũng vào thời ấy, đã đưa tỏi làm
tượng trưng cho thể lực trong các vở kịch của ông. Vào
đầu kỷ nguyên công giáo, nhà vạn vật học La Mã Phine l'Ancien
kê nhiều ứng dụng y học của hành và tỏi trong khi bác sĩ
trưởng quân y Dioscorides dùng tỏi trừ giun, làm nhuận tiểu,
giảm đau răng, bớt ho hen, chữa bệnh hói tóc, bệnh ngoài
da, .... Trong những đại hội Olympic đầu tiên, tỏi đã được
kê làm chất hoạt chất, một vấn đề hiện đang được
bàn tán sôi nổi trong thế giới thể thao ngày nay. Gần đây,
một văn bằng sáng chế dùng tỏi trộn với diếp cá làm
thuốc chữa chân các lực sĩ. Ở Ấn Độ, từ lâu tỏi là
thành phần chính của thuốc sát trùng để chữa vết thương,
ung nhọt. Bên Trung Quốc, hành đem sắc uống chữa được
đau đầu, cơn sốt, dịch tả, kiết lỵ. Ở Marseille, người
ta kể chuyện bốn tên ăn trộm bị kết án tử hình, năm
1721 bị bắt đi chôn những người chết vì bệnh dịch hạch,
họ không bị lây chết nhờ ăn một món tỏi ngâm trong rượu.
Ngày nay món "dấm bốn kẻ trộm" rất được thông dụng ở
miền nam nước Pháp (7). Thấy ra, y học dân tộc
đã được phổ biến qua huyền thoại. Ở bên ta , sách cổ
cho hành có vị cay, bình mà không độc, có năng lực phát
biểu, hòa trung, thông dương, hoạt huyết, dùng làm thuốc
ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng, sắc lấy
nước uống chữa các chứng sốt, sốt rét, cảm, nhức đầu,
mặt mày phù thũng, còn làm yên thai, sáng mắt, lợi ngũ tạng,
tuy nhiên còn nói thêm ăn nhiều quá thì tóc bạc, hư khí xông
lên không ra mồ hôi được. Còn về tỏi thì thì theo Đông
y có vị cay, tính ôn, hơi có độc, nhưng có tác dụng thanh
nhiệt giải độc, sát trùng, chữa băng đới, trùng tích,
huyệt lỵ, tả lỵ, .... (ĐTL). Sách thuốc cổ còn
ghi hành làm lợi ngũ tạng nhờ làm ấm thận, bào trung, lại
có tính dương khí và hoạt huyết nên làm thông kinh mạch
từ đấy thân thể trở nên nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái
(BKT).
Qua
thời đại mới, trong khi các nhà hóa học Đức phân tích
cấu tạo hành tỏi thì ở Pháp, nhà hóa học và sinh vật
học L. Pasteur từ 1885 đã nhận thấy tỏi có tính chất kháng
khuẩn. Gần hơn, bác sĩ A. Schweitzer dùng tỏi để chữa bệnh
lỵ amip bên châu Phi. Trong hai trận thế chiến, tỏi được
dùng làm chất kháng sinh để ngăn ngừa hoại tử ở binh sĩ
bị thương. Thật vậy, người ta biết nước tỏi vắt ức
chế được hoạt động của những loại trùng Staphyloccocus,
Streptococcus, Vibrio, Bacillus, .... Dù pha loãng mười vạn
lần, tinh dẩu tỏi vẫn còn hiệu nghiệm (1). Chiết
xuất từ tỏi, alliin, allicin có hoạt động chống Escherichia
coli, Microccocus luteus. Những phần chiết từ hành và tỏi
chống được những vi khuẩn hiếu khí hay kị khí, mãnh liệt
nhất là từ tỏi, được đem làm đồng vận với các chất
kháng sinh chống
Acinetobacter calcoaceticus. Nhiều chất
diệt trùng khác cũng được chiết xuất : những disulphid mà
công hiệu nhất là diallyl trisulfid, những thiosulfinat đặc
biệt allicin tức diallyl thiosulfinat, scormin từ tỏi , protein
từ hành. Một dung dịch dầu mỡ hành chống Bacillus anthracis,
B. subtilis, Pseudomonas aeruginosa, Samonella typhi, Shigella shigae,
Staphyloccocus aureus. Gần đây, người ta phát giác thêm tỏi
tươi cũng như nhiều thành phần của nó có tính chất khử
những virus cự bào, mụn rộp, đậu bò, mụn nước, viêm
miệng, mũi hữu hiệu theo thứ tự ajoin > allicin > allylmethyl
thiosulfinat > methyallyl thiosulfinat.
Cũng
trong lãnh vực kháng sinh, song song với tính chất diệt trùng,
khử virus, hành tỏi còn có khả năng trừ nấm, chống Alternaria
tenuis, Helminthosporium, Curvularia penniseti, C. tropicalis, C.
pseudoutropicalis, C. krusei. Những chất scordin từ cả hành
lẫn tỏi, steroid saponin trừ khử Candida albicans. Những
tsibulin là những chất kháng sinh ngăn chận các trùng phá hoại
cây cối Botrytis allii, B. cinerea, Fusarium solani. Như allicin,
erubosid B từ tỏi, nhiều phần chiết từ hành, những flavonoid,
có tính chất chống ung thư. Tỏi tươi hay nấu chín có khả
năng giảm hạ ung thư đặc biệt ở dạ dày, ruột kết, hậu
môn (Nouvel Obseravateur 12-18.10.2000). Một phần chiết từ
hành tươi trộn với chitin hay những chất allicin, allithiamin
ức chế cuộc phát triển khối u sarcoma-180 gây ra. Bên phần
allyl và allylmercaptao cystein thì ngăn chận được cuộc tăng
sinh
những tế bào ung thư vú. Một phần chiết từ tỏi, trong
ầy chất chính là methyl linoleat, có tính chất chống ngẫu
biến ở Samonella typhimurium
; với hành thì nguyên do có
thể là các flavonol, đặc biệt từ quercetin mà ra. Chất nầy,
trong phần chiết từ hành, dưới thể glycosid, ức chế cuộc
phát triển của các tế bào ung thối, cũng như đóng một
vai trò trong hoạt động giãn nở phế quản. Chất quercetin,
một polyphenol, còn có khả năng lưu thể hóa máu, ngăn ngừa
đông cục, viêm lợi, viêm cận răng, ngăn cản xương thoái
biến gây ra chứng loãng xương (L'oignon, Sciences et Avenir
08.2006). Trong lãnh vực chống hen suyển, nhiều chất đã chứng
tỏ có hiệu nghiệm : thiosulfinat, isothiocyanat, cepaen, sulfinyl
disulfid đặc biệt ức chế cycloxygenase, lipoxygenase. Những
thiosulfinat còn có tính chất chống viêm, huyết khối, thấp
khớp, dị ứng. Một phần chiết từ hành đem trộn với cyclodextrin
có khả năng hủy bỏ co khít phế quản ở heo, tăng cường
sinh sản nhờ allithiamin.
Bảo
vệ tóc rụng, phục hồi tóc thưa
Bên
phần tỏi tươi, nhờ alliin, allicin, diallyl disulphid, chống
đuợc sự tăng cường cholesterol trong máu, đồng thời giảm
hạ huyết áp. Một phần chiết có tính chất ngăn chận cuộc
phát triển những Mycobacterium tuberculosis : hai protein chống
lao đã được tách biệt từ tỏi. Tỏi thấm tách có tác
dụng giảm hạ loạn nhịp tim. Nhờ tính chất chống oxi hóa,
đặc biệt của allicin như trong hiệu thuốc Garlicin, có khả
năng hạ huyết áp, giảm cholesterol, tiêu hủy fibrin, tỏi được
coi như là một thuốc bảo vệ tim hữu hiệu. Trước những
tính chất độc đáo của hành và tỏi, nhiều phòng thí nghiệm
đã bỏ công khảo cứu phương cách khai thác và ghi văn bằng
sáng chế mỹ phẩm, phần lớn nhắm hướng da và tóc. Nhờ
có allyl thiamin kích thích tế bào, tỏi được dùng trong những
thuốc bảo vệ da (22), trộn với sinh tố B1
đệ chống viêm da (11), trộn với tiêu, muối, mật,
dấm để chữa kẻ nứt da chân tay (18), hành thì
trộn với nước cam, bột thông, tinh dầu y lăng để chống
da nhăn (16) hay nhuộm da màu rám nắng (15).
Hành cũng được trộn với cúc tây, xương rồng, bạc hà,…
để làm thuốc phòng ngừa tóc rụng (8), trộn với
dầu hỏa, thầu dầu, lòng trứng để làm thuốc phục hồi
tóc thưa (2), trộn với dầu dừa (26) trong
môn thuốc kích thích tóc mọc. Nhờ có những chất alliin,
allicin, niacin cùng các sinh tố A, B1, B2, C,
tỏi được dùng để chữa chứng sói tóc (19). Ngoài
ra vỏ hành cũng được xử lý với lá móng để nhuộm tóc
màu đồng (3).
Bên
phần công nghệ, hành được trộn với gừng làm thuốc đuổi
ruồi (13), tỏi được dùng trong liều thuốc chữa
bệnh cúm gia cầm
(12). Hành, tỏi được trộn với
bạc hà, ngải thơm, húng gây, mùi tây để ướp thơm dấm
lên men (5). Một văn bằng dùng tỏi làm dấm, cam
đoan giữ tất cả các chất dinh dưỡng mà hết còn hôi (21).
Hành tỏi có hương vị đặc biệt, nhất là tỏi có phần
nồng cay, nên nếu có việc dùng chúng để làm át mùi hôi
(20)
thì cũng có những văn bằng, phần lớn Nhật Bản, trình bày
những phưÖng cách trừ khử mùi tỏi, hoặc với các loại
rau khác như rau húng, mùi tây, bạc hà (25), dầu mè
trộn với cyclodextrin (10), dầu dễ bốc hơi trộn
với gừng (14), hoặc với lòng trứng, vỏ trứng
(24),
các alkali chlorid trộn với malic acid (23), bicarbonat
trộn với các carboxylic acid như citric, tartric, phytic, acetic
acid (17), với các carboxylic không bảo hòa (maleic,
fumaric, acid) ổn định với các acid chống oxi hóa (ascorbic,
succinic, ... ¨. acid) (6) hay giữ ở 1-40° trong môi
trường không có dưỡng khí (28). Bên Nhật Bản,
mới được phát giác cây mushuu-ninniku giống hệt cây tỏi,
chỉ lớn hơn và có một đặc điểm là không có mùi tỏi,
có thể thuộc loài A. ampeloprasum (27).
Đằng khác, cũng ở đất nước Phù Tang, có công tác muốn
tụ họp lại mọi hương vị của hành lẫn tỏi vào trong
một cây thôi : hãng Ajinomoto đã thực hiện được một cây
lai A. cepa L. và A. sativum L. mang hai chất propenyl
cystein sulfoxid và allyl cystein sulfoxid khởi thủy mùi vị vừa
của hành vừa và tỏi. Ngoài ra, trong tưong lai, các nhà khảo
cứu Nhật Bản cũng có hy vọng đạt được một cây hành
hay một cây tỏi có đủ mùi vị hành, tỏi hăng nồng mà
hết còn mang những phân tử làm chảy nước mắt. Khoa học
thật đã vượt quá viễn tưởng.
Nói
chung, hành và tỏi là những gia vị vừa đem lại nhiều hương
vị vừa có những tính chất dược liệu hay ho. Trong đời
sống hằng ngày, tính chất tiêu thực và hăng cay của chúng
rất có ích khi bửa ăn của ta chứa đựng quá nhiều thịt
mỡ khó tiêu hay hôi tanh mùi cá. Thang thuốc có ngay trong mâm
cơm, có gì tiện lợi bằng ! Ở các nước Đông Âu, đặc
biệt vùng Transilvania, tỏi lại đuợc dùng trong một mục
đích khác, ít nhất cũng trong chuyện hoang đường : người
ta treo nó trong nhà, trước ngõ để xua đuổi ma quỷ, đặc
biệt những ma hút máu mà tiêu biểu qua nhiều thời đại
là bá tước Dracula từng lưu danh trong các phim truyện. Không
có lửa sao có khói, tìm hiểu được căn bản tập quán nầy
rất có thể giúp ta biết thêm nữa về những tính chất mới
lạ khác của tỏi.
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 1(23) 1999,
vietsciences
08.2006
Tham
khảo
Tài
liệu về hành, tỏi rất phong phú. Sau đây chỉ xin trình bày
vài bài tổng luận cùng một số các bản báo cáo và văn
bằng sáng chế về ứng dụng của hai cây gia vị.
1
A.I. Virtanen, Some organic sulfur compounds in vegetables and fodder
plants and their significance in human nutrition, Angew. Chem. Int.
Ed. 1 (1962) 299-306
2-
R. Andreotta, Hair dressing, Fr.1,481,008 (1967) 1 tr.
3-
G.A.M. Conin, Vegetable dye for hair, from onion skins, Fr. 1,583,606
(1969) 1 tr.
4-
A.E. Johnson, H.E. Nursten, A.A. Williams, Vegetable volatiles : a survey
of components identified. Part I. Chem. Ind. (5) (1971) 556-65
5-
J. Kostal, Aromatization of fermentation vinegar, Kvasny Prum.
(10)
18
(1972) 226-7
6-
P. Lonyai, F. Darvas, G. Timar, Destruction of the odors of garlic and
onion, Hung. Teljes 6116(1973)11 tr.
7-
E. Bloch, The chemistry of garlic and onions, Sci. Am. 252
(1985)
94-9 ; La chimie de l'ail 8- G. Mathieu, J. Fangain Boudin,
Hair
preparations for oprevention of hair loss, Fr. Demande FR 2,659,014
(1991) 8 tr.
9-
E. Bloch, The organosulfur chemistry of the genus Allium – Implications
for the organic chemistry of sulfur, Angew. Chem. Int. Ed. 31
(1992) 1135-78
10-
S. Yamanaka, T. Kobayashi, Inclusion compounds for garlic deodorization,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 04,309,358 (1992) 4 tr.
11-
O. Aki, A study of bath of preparations containing the garlic extract-vitamin
B1 complex. A study of its characteristics and clinical application
for the treatment of atopic dermatitis, Fragrance J. (2) 21
(1993) 47-57
12-
Y Li, Pharmaceutical capsules containing herbal medicine mixture for
treatment of influenza in poultry, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN
1,066,185 (1992) 4 tr.
13-
H.Ji, Nontoxic flies repellent, its preparation and use, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,071,052 (1993) 7 t.
14-
J. Shao, J. Kang, Q. Zhang, Deodorization process for garlic, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,077,854 (1993) 5 t.
15-
G. Melin, Bronzing cream composition, Fr. Demande FR 2,693,371
(1994) 5 tr.
16-
G. Melin, Antiwrinkle beauty cream compsition, Fr. Demande
FR 2,693,371 (1994) 5 tr.
17-
I. Sakai, Removal of odor from vegetables like garlic and onions,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 06,62,781 (1994) 9 tr.
18-
T. Cao, Pharmaceutical liquids for treating fungus-related skin chap
in hands or feet, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai ShuomingshuCN
1,091,658
(1994) 4 t.
19-
S. Stasiewski,
Agent for local treatment of alopecia areata,
Ger. Offen. DE 4,337,535 (1995) 2 tr.
20-
J. Forstmaier,
Agents for removal of unpleasant odors in solid wastes,
Ger.Offen
DE
4,440,649 (1995) 4 tr.
21-
S. Shimazu, Preparation of garlic vinegar, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 07,135,956 (1995) 3 tr.
22-
A. Okada, Skin cosmetics comprising allithamine-containing garlic extract,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 07,133,208 (1995) 5 tr.
23-
S. Ichinose, K. Momose, S. Kashiwabara, Deodorization of garlic with
malic acid and salt, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 07,177,861
(1995) 3 tr.
24-
T. Inami, Removal of off-odor from garlic powder, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP
07,241,182 (1995) 4 tr.
25-
Ta. Eto, To. Eto, T. Maeda, Herb solution for deodorization of garlic,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08,107,765 (1996) 3 tr.
26-
S.P. Barton, E. Galley, Hair stimulant composition containing salts
and flavones and vitamins and xanthines, PCT Int. Appl. WO 96
10,387 (1996) 14 tr.
27-
T. Ariga et all.,
Garlic-like but odorless plant Allium ampeloprasum
'Mushuu-ninniku',
J. Jap. Soc.Hort. Sci. (3) 71 (2002)
362-9
28-
Y. Kodera et all.,
Deodorization of Allium, PCT Int. Appl. WO
2004077963 (2004) 22 tr |