Chim Việt Cành Nam           [  Trở về  ] 
Võ Quang Yến

CÂY NHÀ LÁ VƯỜN

Cây thuốc và vị thuốc

- Tập 3 -
30 - Độc tính của thuốc lá
 Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Ca dao
Những năm gần đây về nước chúng tôi thường thích đi xem cải lương ở Sài Gòn hay chớp bóng ở Hà Nội và lần nào cũng thấy khó chịu, ngạt thở vì khói thuốc, mặc dầu có bảng đề cấm hút thuốc trong phòng. Cũng may, trên máy bay thì triệt để cấm hút thuốc, trong các chuyến nội địa cũng như quốc tế, khác với mấy năm trước. Ở Âu Mỹ ngày nay theo nguyên tắc cấm hút nơi công cộng, ngay cả trên ke tàu hầm tương đối thoáng khí hơn trong tàu. Đã có thấy công nhân bị thải hồi vì hút thuốc trong giờ làm việc, tại chỗ làm việc. Trong tiệm ăn, quán cà phê, thường có góc dành cho người hút thuốc, nhưng cũng có tiệm ăn hoàn toàn cấm hút thuốc. Tuy tất cả mọi người không chịu phục tòng luật lệ, ít nhất là ở Pháp vì bên Hoa Kỳ thì nghiêm túc hơn, nhưng trong một tương lai rất gần, khi độc tính thuốc lá được chứng minh tường tận và được các cơ quan chính thức công nhận, các hội đoàn bênh vực quyền lợi công dân sẽ nhân đấy ra sức tranh thủ để kỷ luật được áp dụng triệt để hơn. Người hút thuốc thả khói thích thú, quên là mình làm phiền những người không hút xung quanh. Buồn cười là trên tàu lửa, nhiều người hút thuốc lại mua vé ngồi toa cấm hút để tránh khói thuốc. Khói thuốc không những chỉ làm ngạt thở mà còn làm mất vệ sinh khi ta biết chất độc không phải ít trong khói thuốc. Đó là đối với người khác. Đối với bản thân người hút, cái hại của điếu thuốc còn nhiều hơn : bên cạnh thói quen nghiện ngập khó bỏ, phiền phức, cuộc tăng gia ung thư phổi đã là một bằng chứng lên án quan trọng.

Thuốc lá khởi nguyên từ châu Mỹ

Khi Christophe Colomb đặt chân lên châu Mỹ năm 1492, người bản địa gọi là "da đỏ" đã biết dùng thuốc lá hoặc để chữa bệnh, tìm thú vị, hoặc để truyền thông qua các tính chất ma thuật. Bắt đầu từ đây, thuốc lá được đưa về Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tin tuởng thuốc lá có nhiều hiệu lực y dược, người châu Âu dùng dân nô lệ da đen lập đồn điền trồng ngay thuốc trên đất Mỹ, ở Cuba, quần đảo Antilles, .... sau đem về luyện cho hạp thủy thổ ở lục địa mình. Năm 1561, nhà ngoại giao Pháp Jean Nicot gởi biếu nữ hoàng Catherine de Medicis một gói thuốc lá để chữa bệnh đau đầu. Thuốc lá tràn dần qua Ý Đại Lợi, xuống đảo Maltes trên bờ Địa Trung Hải theo các hiệp sĩ dòng Đền với tên "cỏ Thánh Giá" trong lúc nữ hoàng Elisabeth bên Anh khuyến khích hút thuốc. Ở Áo, Hungari, Thụy Điển, thuốc lá được phát không cho binh lính. Người Nga cũng nhập cảng thuốc lá mặc dầu Giáo Hội chống đối. Ở Pháp, giữa thế kỷ 17, trước quyền lợi ngày càng tăng, nhà chính trị Jean Baptiste Colbert tranh thủ dành độc quyền cho nhà vua.

Năm 1735, nhà thảo mộc Thụy Điển Carl von Linné đặt tên cây thuốc lá Nicotiniađể nhớ đến Jean Nicot. Năm 1828 Posselt và Reimann chiết xuất nicotin, sau đó Pinner xác định cấu tạo nhưng phải đợi 30 năm mới thấy nhà sinh lý học người Pháp Claude Bernard khảo cứu độc tính của nó năm 1857. Năm 1913, Pictet thực hiện cuộc nhân tạo tổng hợp nicotin. Vào thời ấy, thuốc lá phần lớn được dùng để ngửi, nhai, hay sắc uống. Dần dần người ta mới đổi qua hút ống điếu, xì gà, thuốc quấn. Trong ống điếu, nhiệt độ cháy tương đối thấp, khói ít khó chịu nhưng cũng ít được hít vào, lại còn phải cạo chùi bảo dưỡng cẩn thận nên thuốc điếu bị xì gà, thuốc quấn lấn chỗ. Về mặt vệ sinh, xì gà ít bị chỉ trích hơn thuốc quấn vì không có lớp giấy cuốn ngoài, khi cháy tạo thành những chất độc hại. Với lại xì gà ít đuợc dùng, chỉ trong những trường hợp đặc biệt, chủ nhật, ngày lễ, khi có chuyện vui mừng cần khao. Trước kia, có tiếng nhất là xì gà của Churchill bên Anh, bây giờ là của Castro bên Cuba. Đằng kia, trong thuốc quấn, nhiệt độ cháy cao, gây ra nhiều hoá chất dễ bốc hơi trong khói, hít vào đem lại hương vị thích thú, khoái lạc, nhưng nhiệt độ cao cũng xúc tác các phản ứng trùng hợp gây ra những hydrocarbon nhiều vòng mà tính chất gây ung thư đã được chứng minh.

Ngày nay, những nhà máy hàng năm quấn hơn 5 tỷ điếu, tương đương với 6 triệu tấn thuốc lá trong số 8 triệu tấn sản xuất trên thế giới. Xuất cảng nhiều nhất là Hoa Kỳ (khoảng 30 vạn tấn) xa truớc Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Ý Đại Lợi (10-20 vạn tấn), sau mới đến Hy Lạp, Bulgari, Trung Quốc, Gia Nã Đại, Nam Dương, Cuba, .... Tuy xuất xứ từ các vùng nóng, cây thuốc thích nghi mau lẹ với nhiều loại khí hậu, từ 600 bắc vĩ tuyến như Bắc Âu, xuống 40° nam vĩ tuyến như Úc Đại Lợi. Thuộc họ CàSolanaceae, thuốc lá có nhiều loại Nicotinia, được trồng nhiều nhất là N. rustica L. (thuốc lào) và N. tabacum L. (thuốc lá). Loại N. rustica nguồn gốc nước Peru, hợp lai từ hai giống N. paniculataN. ondulata, được trồng nhiều ở Đông Âu (Nga, Ba Lan) và Bắc Phi (Maroc, Tunisi). Loại N. tabacum cũng là một cây thuốc lai nhiều giống mà sáu Nicotinia nguyên sơ là N. fructicosa, N. lancifolia, N. brasiliensis, N. virginica, N. havanensis N. macrophylla.

Thời kỳ sinh trưởng cây thuốc lá tương đối ngắn, từ 2 đến 5 tháng, làm nó thành một cây dễ trồng. Nó đòi hỏi đất nhẹ, thoáng khí, không giữ nhiều nước. Phân bón rất quan trọng : ngoài phân mùn, thường được dùng là phân đạm, vôi, bồ tạt, phosphoric acid. Thêm vào đó, phải bảo vệ chống vi trùng, virus. Ngoài những phương cách cơ học như giẫy cỏ, phải phủ đất mùn, rải thuốc kháng sinh, DDT để phòng ngừa những bệnh khảm, xoăn lá, mốc sương. Hái lá thuốc là một vấn đề tế nhị vì các lá không phát triển cùng lúc. Tùy theo cây thuốc, loại thuốc sẽ chế biến, có lá phải hái trước, có lá hái sau khi nó trưởng thành. Lá hái xong được treo phơi. Thao tác sấy khô diễn biến thành hai giai đoạn. Trong đợt đầu, lá chết dần, trở nên vàng : đấy là lúc tinh bột chuyển thành đuờng, protein và chất sắc thái hóa. Những protein nầy đã được chiết xuất ở mức kỹ nghệ. Đợt hai là đợt sấy khô thực sự : nếu chậm lá thành nâu sẫm, nếu mau lá nhuộm màu nâu lạt, từ đấy cống hiến những loại thuốc khác nhau. Có nhiều phương tiện để thực hiện cuộc sấy khô : phơi ngoài trời, dưới mặt trời, trên lửa cháy, trong khí nóng, .... Phơi sấy xong, thuốc lá tương đối đang con lạt lẽo, vô vị và lại còn ẩm để giữ được lâu. Kế hoạch lên men bắt đầu từ đây, diễn biến từ từ hay rất chậm. Nhiệt độ có thể đạt tới 600, một phần nước mất đi. Trong thời gian nầy, tỷ suất nicotin, nitric acid và đường sụt giảm, đồng thời xuất hiện acid béo, alcool-ester cống hiến hương vị cho thuốc lá. Những hiện tượng nầy do những phản ứng như oxi hóa, tác dụng vi khuẩn, diastase xúc tác. Sau đó chỉ còn cắt gân lá, giũ lá, rải thêm chút nước và đem thái nhỏ. Tùy loại thuốc, người ta cho thêm chất thơm như glycerol, anethol, cam thảo, rượu rhum hay nước nho, nước cam, nước đào, .... Nên biết là glycerol tạo điều kiện chế tạo acrolein, còn cam thảo chứa đựng glycyrrhizin là một nguồn phenol và nhất là những hydrocarbon thơm nhiều vòng, đều là những tác nhân gây ung thư.

Khói thuốc chứa nhiều chất độc hại

Biết bao công phu, kỹ thuật để làm nên điếu thuốc cống hiến nổi thích thú, niềm khoái lạc cho người hút. Nhưng một người có lý trí phải biết khi hút thuốc mình dấn thân vào những nguy cơ gì. Ngày nay, thống kê cho thấy trong số người hút thuốc, 30% chết vì ung thư mà 90% số đó là ung thư phổi. Tất cả các cuộc khảo cứu về dịch tể học đều nhất trí ở một điểm là có một liên hệ nhân quả giữa thuốc điếu, xì gà, thuốc quấn và ung thư buồng phổi, lỗ miệng, thanh quản, thực quản, bóng đái, đồng thời một tương quan giữa thuốc lá và ung thư tuyến tuy, cổ tử cung. Các cuôc khảo cứu nầy còn xác định tỷ suất tử vong vì ung thư tỷ lệ với số lượng thuốc hút hàng ngày, thời gian hút và, trong một phần nào đó, số lượng khói thuốc hít vào.

Nếu những người ngửi và nhai thuốc chỉ bị ung thư ở lỗ miệng và yết hầu, số người bị ung thư phổi nhiều gấp 9 lần khi hút thuốc quấn, 2,9 lần khi hút xì gà và chỉ 2,5 lần khi hút thuốc điếu so với những người không hút thuốc. Còn về ung thư lỗ miệng, yết hầu và thanh quản thì tất các các lối hút thuốc đều có tác dụng giống nhau. Cũng có thể chứng minh, tuy có phần khó, khả năng bị ung thư phổi của những người không hút thuốc nhưng sống giữa khói thuốc vì trong số chừng 4000 hóa chất của lá thuốc, chỉ khoảng 50 chất đã được xác định trong không gian khói thuốc. Ung thư chỉ là một mặt. Thuốc lá còn liên quan đến những bệnh tim mạch, tăng cường nguy cơ tử vong vì biến cố động mạch vành, tăng gia số lần những bệnh hô hấp như suyển, cúm, tràn khí, viêm phổi, viêm phế quản, .... Ngoài ra, thuốc lá có khả năng gây xơ gan vì hiệu ứng liên hợp với rượu, tăng gia số lần u khối ở thanh quản, bao tử. Đặc biệt, thuốc lá rất độc hại cho sức khỏe bào thai trong bụng những phụ nữ hút thuốc nhiều. Vẫn biết tất cả những người hút thuốc đều không bị ung thư phổi hay mắt những chứng bệnh tim mạch, tràn khí, vì một đằng còn tùy trạng thái sức khỏe của từng người, đặc tính di truyền qua enzym loại cytochrom P450 mà hiệu ứng kích thích những chất gây ung thư đã được chứng minh, đằng kia tùy loại thuốc và cách hút : nhiều, ít, lâu, mau, hít nhiều hay ít khói, đồng thời có uống rượu hay không, .... Ngọn lá thuốc cũng như thuốc dùng để ngửi hay nhai, hút chứa đựng cốt yếu 50% glucid (gồm có cellulose, tinh bột, đường, khoảng 10% acid hữu cơ), chừng 10% những chất có đạm (trong ấy 0,4-4% nicotin), polyphenol, khoáng chất, resin đủ loại như terpenoid, phytosterol, polyen, paraffin, lipid, ester, đặc biệt một số isopropenoid và alcaloid. Khói thuốc lá gồm có hai phần : phần khí chiếm 92% trọng lượng khói, chứa nhiều nhất (%) chất đạm (58), dưỡng khí (12), khí carbonic (13), carbon oxid và một số hóa chất tuy nhỏ nhưng đóng vai trò quan trọng trong các bệnh lý, đặc biệt ung thư ; phần lỏng mang một số hạt ẩm là những giọt tí hon 0,1-1,0 micron, nhiều tỷ hạt trong mỗi mililit, trong số nầy những hạt lớn cở 0,25-1,0 micron được giữ lại trong buồng phổi gây nhiều tổn thương.

Độc hại bậc nhất là những hóa chất benzen, amino diphenyl, amino naphtalen, vinyl chlorid, chrom hóa trị 6, polonium 210 nổi tiếng với tính chất gây ung thư trên thú vật và trên con người. Một số các phân tử khác, có mặt trong khói thuốc, đến nay chỉ thực nghiệm trên thú vật nhưng có thể xem như có tác dụng phát xuất u khối trên con người là những hydrocarbon thơm có nhiều vòng như benzo pyren, benzo anthracen, .... có đạm như dibenzo acridin, dibenzo carbazol, .... những nitrosamin như nitroso nornicotin, nitroso pyrrolidin,… cùng một số chất cấu trúc đủ loại như acrylonitril, anisidin, hydrazin, urethan, .... Những isoprenoid cũng có khả năng gây ung thư đồng thời lại cống hiến mùi thơm thiên nhiên cho thuốc lá. Trong loại nầy, những chất được biết nhiều nhất là solanesol, isophoron, solanon, damascenon, ionon.

Hương thơm thuốc lá cũng còn do các alcaloid mà lại. 80-90% alcaloid nầy là nicotin theo khói thuốc bay ra ngoài. Còn lại 9 alcaloid có cấu trúc pyridin : cotinin, nicotin oxid, nornicotin, myosmin, nornocotyrin, nicotrin, anabasin, anatabin và bipyridin. Dùng máy hút đo số lượng nicotin, một phòng thí nghiệm đã tìm ra các nhãn Royal ultra légères, Philip Morris Ultralights, Peter Stuyvesant ultramild, Craven ultra légères chứa đựng (mg/điếu) ít nhất (0,1-0,2), thứ đến Gallia, Gauloises filtre (0,3-07), Marlboro Gitanes, Gauloises, Players Navy Cut, Pall Mall, Job special (1,1-1,9) và sau cùng nhiều nhất là Gitana mais, Boyards mais (2,6-2,8). Có những nhãn thuốc chứa mỗi điếu đến 4 mg nicotin trong khói. Sở dĩ nicotin được đặc biệt chú ý vì là hoạt chất mãnh liệt nhất của thuốc lá. Nó được hấp thu lanh chóng vào buồng phổi nếu là thuốc hút, thuốc điếu, xì gà, vào mô liên kết miệng và mủi trong trường hợp thuốc ngửi hay nhai. Sau đó, những mao mạch phế năng chiết xuất nó ra đưa vào mạch máu. Sau một chu kỳ toàn vẹn, một phần tư nicotin thông qua các mao mạch, vượt hàng rào máu não đột nhập vào não, tiếp xúc ngay với các tế bào nhận cảm đặc thù. Tất cả các tác động nầy thao diễn trong khoảng 7 giây đồng hồ. Cũng nên biết chính là nhờ khảo cứu các tác dụng nicotin mà những cơ quan nhận cảm đầu tiên được khám phá. Hiện tượng nầy giải thích hiệu ứng mau lẹ trên hệ thần kinh trung uơng mỗi khi khói thuốc được hít vào.

Trong não, nicotin tác dụng lên các sợi liên bào, phát tiết acetylcholin, phóng thích những amin phát sinh catecholamin, kích thích những cơ quan nhận cảm khởi động nôn mửa và sản sinh một hoạt động điện não dính líu đến các hormon của tuyến yên và vùng dưới đồi. Nicotin bám dính vào các cơ quan nhận cảm phát tiết acetylcholin của động mạch não và động mạch cảnh, kích thích phản xạ những cơ quan hô hấp và tim trong thân não, đồng thời làm duỗi ra những bắp thịt của bộ xương và hiệu ứng tim mạch cũng như tuyến nội tiết. Nó cũng kích thích những hạch tự do, dây dạ dày-ruột, phóng thích adrenalin những tủy thượng thận và catecholamin những đầu mút dây thần kinh, những tế bào ưa chrom. Hậu quả là những hiện tượng mạch co, tim đập lanh, con ngươi dãn nở, năng lực vận động ruột-dạ dày giảm hạ, .... Kết quả thực nghiệm cho thấy tiêm nicotin vào cơ thể không dẹp được sự thèm muốn hút thuốc. Đằng khác, nếu cho thêm ammoniac vào thuốc lá để tăng hương vị thì tác dụng nicotin cũng được tăng cường vì nicotin trở thành một base được chuyển rất lanh lên não. Nếu cho thêm đường để bù lại hương vị bị mất khi lọc nhựa thì đường lúc cháy cho phát sinh acetaldehyd gây thêm phụ thuộc cho người hút đồng thời tăng gia tác dụng của nicotin. Còn nếu cho thêm cacao để làm dịu chất đắng thì chất theobromin trong cacao mạnh đưa nicotin vào phổi. Năm 1989, hãng RJ Reynolds cho đăng ký văn bằng thêm levulinic acid vào thuốc để làm dịu mùi nicotin thì acid nầy lại có tính chất liên kết nicotin với các tế bào thần kinh. Thí nghiệm cho thấy có thể hút thuốc một tháng là khó lòng bỏ hút ! Ngoài ra, cũng được biết người hút thuốc quen cần một số lượng nicotin trong một thời gian nhất định. Nếu hút thuốc loại gọi là "nhẹ" nghĩa là ít nicotin hơn thì cơ thể tự động thúc đẩy hút nhiều hơn, lâu hơn, hít khói mạnh hơn .... để bù lại số lượng ấy. Thành thử các loại thuốc "ultramild, ultralight, ultra légère" chỉ là một cái mồi để bán thuốc !

Nicotin trong danh sách ma túy ?

Sau khi làm phận sự gây khoái lạc và nghiện ngập, nicotin biến chuyển ra sao trong cơ thể ? 9% đi thẳng vào nước tiểu, 4% được oxi hóa thành nicotin N-oxid trước khi cũng đi vào nước tiều, 70% biến hóa thành nicotin nhưng trong số nầy chỉ có 49% vào nước tiểu, 21% kia được đưa vào các chất chuyển hóa khác , còn lại 17% không biết đi về đâu. Nicotin có thể dẫn tới tử vong nếu dùng nó không thận trọng. Đã thấy có những vụ đầu độc vì hấp thu ngẫu nhiên hoặc theo thuốc diệt trùng đột nhập vào da và trẻ con nuốt thuốc hay phần chiết của nó. Ngộ độc cũng đã xảy ra với những người mới tập hút thuốc hay những người không hút thuốc được tuyển dụng để hái thuốc lá. Lâu ngày hiện tượng độc tính lan tràn khắp cơ thể, gắn dính vào những cơ quan nhận cảm, từ đấy phát hiện những chứng tim mạch, tăng huyết áp, gây ung thư, hỗn độn trong cuộc sinh sản. Tuy nhiên, dùng nicotin một cách có giới hạn như trong nhãn thuốc Nocoret để giúp bỏ hút được cho là tốt vì những tác dụng độc hại của chính nó ít quan trọng hơn độc tính của toàn khói thuốc.

Ngày nay, y khoa cống hiến nhiều phương cách bỏ hút : châm cứu, thôi miên, tâm lý liệu pháp, trung tâm liệu pháp, hải thủy liệu pháp, thái dương liệu pháp, tâm nhi thất liệu pháp, uống nước khoáng nóng, .... Một biện pháp khác là dùng rau cỏ thay thế thuốc lá : lá cúc, cỏ khô, rau diếp, rau bi na, cánh hoa hồng hay cellulose, bả gỗ ép, .... thêm đường, thêm mật, thêm quế, như tuồng ít được thưởng thức. Đằng khác, các cây nầy có khi lại phát xuất những hydrocarbon nhiều vòng cùng carbon dioxid và các chất độc khác nhiều hơn thuốc lá. Nhiều nhãn thuốc cho bán những điếu có lọc nhưng thấy ra chẳng ngăn chặn được bao lăm nhựa thuốc độc hại. Một bài báo đăng trong tờ British Medical Journal vừa rồi cho biết bên London có một tương quan ngược chiều giữa hút thuốc ngày càng ít lại khi điện thoại di động được dùng nhiều hơn ở đám thanh niên, thiếu nữ. Có thể giải thích điện thoại di động đã thay thế thuốc hút đến nay là phương tiện để khẳng định cá tính của mình và tượng trưng của sự trưởng thành. Các nhà tâm lý học còn đợi gì mà không tìm ra một phương cách tương đương ? Dù sao, nếu hút thuốc mất ăn ngon, bỏ hút thuốc lại bị lên cân, đặc biệt rất bất tiện cho giới phụ nữ. Thể dục, chế độ ăn uống thường được chỉ dẫn, không thì dùng thuốc bỏ thói quen như clonidin là một chất chống tăng huyết áp có khả năng giảm hạ áp lực tâm thần (ưu tư, dễ cáu) và nhất là cảm giác một nhu cầu. Dược sĩ Bùi Kim Tùng đã có bàn cãi sâu rộng vấn đề trong tập Món ăn bài thuốc của ông .

Thấy công cuộc cai thuốc gặp nhiều khó khăn, các nhà khảo cứu ra công tìm hiểu sâu hơn về sự nghiện ngập. Họ nhận thấy những người hút thuốc hoặc không thể bỏ hút, hoặc bỏ ít lâu rồi hút lại. Đây là một hiện tượng phụ thuộc hai mặt, vừa tâm lý vừa duợc lý mà cường độ thay đổi theo cá thể. Sự phụ thuộc tâm lý có thể dò biết bằng thử nghiệm tâm thần, phát hiện chứng ưu tư tiềm tàng, xu hướng suy nhược, .... cần phải chữa trị với một phương pháp tâm lý song song với các thuốc giảm đau, giảm lo âu, chống suy nhược. Sự phụ thuộc dược lý không phải chỉ liên quan với số lượng thuốc hút vì tùy theo người, tùy cách hút, cách hít khói. Đến nay, xem xét tương quan số lượng thuốc hút của mỗi người với hiệu ứng lâm sàng qua thống kê trên một số lớn người hút, người ta suy ra cái khó khăn dừng hút phụ thuộc nhiều vào cách hút và tính nhạy cảm của người hút là những yếu tố ít được biết đến.

Những năm gần đây ở Âu Mỹ, cuộc thảo luận về thuốc hút rất sôi nổi. Một bên phe bênh vực sức khỏe, bên kia phe biện luận cho quyền hút thuốc, quyền bán thuốc. "Chiến tranh thuốc lá" không nóng hổi như "chiến tranh nha phiến" trước đây nhưng cũng ngấm ngầm huy động nhiều giới, nhiều hội đoàn. Đến nay, thuốc lá nói chung, nicotin nói riêng, chưa hề bị pháp luật ghi vào danh sách ma túy như cocain, heroin, morphin, cannabis. Thật vậy, thuốc lá không có hiệu ứng tác động tâm thần như cocain hay morphin. Khi hút thuốc, người ta cảm thấy thú vị, xả hơi, mộng mơ, quên bỏ buồn phiền hay tập trung tư tưởng, và tác dụng lên cơ thể không làm thay đổi thâm tâm con người, không ngăn cản người hút thực hành những hoạt động thường xuyên. Vì thuốc lá không gây ra hỗn độn xã hội, thái độ ngoài lề nên được mọi nước trên hoàn cầu chấp thuận. Vì nó không gây ra ảo giác như LSD (lysergic acid), không mở những cánh cửa tri giác, thám hiểm vùng giác quan rối loạn nên nó không mắc nối vào một thế giới khác. Vì vậy không có ai hấp thu nicotin như LSD và không có hiện tượng buôn bán bất chính nicotin như morphin, heroin. Thuốc lá khác với ma túy là người nghiện không chạy tìm nicotin ròng sạch, trái lại cảm thấy thích thú khi nó trộn lẫn trong trong điếu thuốc với các chất thơm hay không thơm như các alcaloid mà người ta chưa biết được tường tận hoạt động. Tuy nhiên, vừa rồi ở Viện Đại học Chicago bên Hoa Kỳ, hai nhà khảo cứu bàn lại một khám phá phát hiện từ nhiều năm nay và đang được ngành tâm lý sinh vật học học hỏi : thú vị nơi người hút là do dopamin, một chất trung gian thần kinh, được một bộ phận chuyển tiếp thần kinh phóng thích ra trong một vùng não xác định. Hiện tượng nầy giúp não ghi nhớ hành vi cần thiết để lặp lại sự kiện vui thú đó. Như các ma túy, nicotin tăng cường tín hiệu phát xuất dopamin và cơ thể giữ lại ưu tiên hoạt động hấp thu nó. Thành thử người nghiện hút thuốc phụ thuộc không phải mối thú vị kia mà là một hoá chất ! Nghe nói Hoa Kỳ muốn ghi nicotin vào danh sách các ma túy, một sự kiện hoàn toàn mới, đánh dấu một bước tiến trong công cuộc chống thuốc lá.

Trong một hội nghị về thuốc lá triệu tập một ngàn bác sĩ chuyên gia do Cơ quan Quốc tế về Sức khỏe OMS tổ chức ở Perth bên châu Úc cách đây vài năm, một nhóm khảo cứu viên người Anh, dưới quyền điều khiển của nhà dịch tể học Richard Preto ở Oxford, đã đưa ra những con số kinh khủng : trong ba mươi năm sắp tới, mỗi năm thuốc lá sẽ gây ra khoảng hai triệu tử vong trên khắp năm châu ; suy ra, trên tổng số năm tỷ người trên thế giới, từ đây đến năm 2020 sẽ có bốn chục triệu người chết vì thuốc lá ! Những con số khác cũng đáng sợ không kém bằng : 25% những người hút thuốc thường xuyên sẽ chết yểu. Chính xác hơn, hút mỗi ngày 20 điếu làm giảm tuổi thọ bảy-tám năm. Trong một ngàn người hút thuốc điếu đều, xác suất là một người bị ám sát, sáu người bị tai nạn giao thông tử thương và đến hai trăm năm mươi người chết vì thuốc lá .... Hy vọng những người hút thuốc không dửng dưng trước các con số nầy.

Thông tin Khoa học và Công nghệ 4(30) 2000, 
vietsciences 01.2012
Tham khảo

Tài liệu về thuốc lá, nicotin rất phong phú. Ngoài sách báo có tính cách thời sự, về mặt khảo cứu khoa học, sau đây chỉ xin giới hạn một số bài tổng luận lược yếu một vài khía cạnh có liên quan đến nicotin trong những năm gần đây.

1- Dominique Baruch, Janine Rondesh, Fumer sans rique mais non sans plaisir, La Recherche, 51 (1974) 1091-3

2- Michel Bernon, Le tabac, une nouvelle source de proteines, La Recherche, 153(1984)411-3

3- M. Hubert-Habart, B. Kokel, Tabac et cancer. Acquis et perspectives, L’actualité chimique, (11-12) (1991) 403-17

4- Michel de Pracontal, La guerre du tabac, nxb Fayard, Paris (1991)

5- Thomas H. Brandon, Bradley N. Collins, Nicotine et déprime, La Recherche 276 (1995) 574-5

6- Michel de Pracontal, Philippe Boulet-Gercourt, Arrêter de fumer, Nouvel Observateur 1-13.05 (1999) 8-12

7- Pierre Kaldy, L’écran de fumée se dissipe, Sciences et Avenir (1999) 7

8- Olivier Juilliard, Tabac, Encyclopaedia Universalis 21 1084-90

9- J.J. Buccafusco, Neuronal nicotinic receptor subtypes : defining therapeutic targets, Amer. Soc. Pharmacol. Exp. Ther.4(5) (2004) 285-95

10- P. Kovacic, A. Cooksy, Iminium metabolite mechanism for nicotin toxicity and addiction : oxidative stress and electron transfer, Med. Hypot. 64(1) (2005) 104-11

11- R.C. Hogg, D. Bertrand, Neuroscience : what genes tell us about nicotine addiction, Sci. 306(5698 (2004) 983-5

12- C.N. Metz, P.K. Gregersen, M.A. Malhotra, Metabolism and biochemical effects of nicotine for primary care providers, Med. Clin.North Amer.88(6) (2004) 1399-413

13- S. Wang, Y. Du, H. Chen, P. Xu, Research development of nicotine catabolism in microorganisms, Zhongguo Shengwu Gongcheng Zazhi 24(7) (2004) 50-4

14- T.M. Powledge, Nicotine as therapy, PloS Biol.2(11) (2004) 1707-10

15- L.E. Rueter, M.W. Decker, R.S. Bitner, Improving the therapeutic window in the treatment of pain with nicotinic ligands, Drug Disc. Today : Ther. Strat. 1(1) (2004) 89-96

16- Y. Yuxia, N. Liu, J. Liao, Progress of ligands for imaging nicotinic acetylcholine receptor (nAChRs), Heijshu 27(10° (2004) 763-9

17- L. Misery, Nicotine effects on skin : are they positive or negative ? Exp. Derm. 13(11) (2004) 665-70

18- M. Munafo, M. Bradburn, L. Bowes, S. David, Are there sex differences in transdermal nicotine replacement therapy patch efficacy? A meta-analysis, Nicotine Tobacco Res .6(5) (2004) 769-76

19- K. Burgdorf, Nicotine, Schw. Labor.-Zeits.61(10) (2004) 214-5

20- L. Ulloa, The vagus and the nicotinic anti-inflammatory pathway, Nat. Rew. Drug Disc. 4(8) (2005) 673-84

21- J.W. Daly, Nicotinic agonists, antagonists, and modulators from natural sources, Cell. Mol. Neurobiol. 25(3-4) (2005) 513-52

22- A.I. Graul, J.R. Prous, Executive sommary : nicotine addiction, Drugs of Today 41(6) (2005) 419-25

23- J.I. Seeman, Using basic priciples to understand complex science : nicotine smoke chemistry and literature analogies, J. Chem. Edu. 82(10) (2005) 1577-83

24- M. Nakajima, T. Yokoi, Interindividual variability in nicotine matabolism : C-oxidation and glucuronidation, Drug. Matab. Pharmacolki. 20(4) (2005) 227-35

 

[ trang trước ]  /    [ trang sau ]