Cỏ
thơm có giống thạch xương bồ
Sanh
ở hai nguồn Tả Hữu Trạch
Hơi
thơm dầm nước, nước trong veo
Hợp
thành sông thơm chảy róc rách....
Vân
Bình Tôn Thất Lương
Một
áng văn hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một bản nhạc gây
nhiều cảm xúc của Trần Hữu Pháp, cả hai mang tựa đề
: "Ai đã đặt tên cho dòng sông ?". Tôi không đi tìm tác giả
tên sông mà chỉ muốn biết vì sao Hương Giang là tên con sông
xứ Huế. Mỗi lần có người hỏi, tôi hết sức lúng túng
và khỏi để nín thinh, phải kể chuyện thần thoại nàng
cung nữ lỡ tay đánh rơi chai thuốc thơm xuống nước ; hay
vì quá yêu con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở
hai bên bờ đã nấu nước trăm loài đổ xuống lòng sông
để làm nước thơm tho mãi mãi (2). Người hỏi lẽ
tất nhiên là biết tôi bí câu trả lời. Gần đây, sau một
buổi nói chuyện về Huế, một anh bạn làm khoa học đòi
hỏi một lời giải thích có sức thuyết phục hơn. Từ đấy
tôi lục lọi sách báo thử tìm một chi tiết dẫn đường
vào hương thơm của con sông dịu ngọt một thời tuổi trẻ
của tôi.
"Cỏ
thơm có giống thạch xương bồ ". A ra thế ! Câu thơ đầu
bài Hương Giang hành của cụ Vân Bình là chìa khóa mở
cửa bước vào thế giới hương thơm ấy. Chắc còn có nhiều
cây cỏ khác trên bờ và trong lòng sông cũng cống hiến mùi
thơm. Trong khi chờ đợi các nhà thảo mộc xác định các
loài cây ấy, ta tạm khảo sát những hóa chất trong thân,
lá, rễ cây xương bồ, còn được gọi bồ bồ, bồ hoàng
(ACCT). Người Hàn QuÓc có tên changpo, Nhật Bản shyobu
(nên sau nầy có tên chất shyobunon), còn Âu Mỹ thường
gọi sweet flag. Thật ra có hai giống xương bồ : thạch
xương bồ hay ngoại xương bồ (tiên xương bồ, can xương
bồ, cửu tiết xương bồ (1)), mang tên khoa học Acorus
gramineus Soland. và thủy xương bồ Acorus calamus Linn.
thuộc họ Ráy Araceae. Còn có nhiều loại Acorus khác
: A. latifolius, A. macrorrhiza, A. macrospadicus, A. xiangyeus, đặc
biệt A. tatarinowii thành phần cấu tạo rất giống A.
calamus không đề cập đến trong bài nầy. Bề ngoài, hai
loại xương bồ gần giống nhau, thủy xương bồ tương đối
to và cao hơn. Thạch xương bồ có thân rễ mọc ngang, lá mọc
đứng, dài từ 30 đến 50 cm, rộng từ 2 đến 6 mm. Lá thủy
xương bồ có thể dài đến 150 cm, rộng 30 cm. Chúng mọc hoang
ở những miền núi, nơi chỗ mát, thường xen lẫn với hốc
đá ở các khe suối, ghềnh thác.
Đông
y biết dùng xương bồ từ lâu. Thường người ta thu hái vào
mùa thu, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch, phơi khô. Là một
vị cay, tính ôn, vào hai kinh tâm và can, xương bồ có tác
dụng tẩy uế, khai khiếu, tuyên khí, trục đờm, chữa thần
kinh suy nhược, kém tiêu hóa, thông cửu khiếu, sáng tai mắt,
ôn tràng vị, trị phong hàn tê thấp. Trên thực tế, xương
bồ được dùng làm thuốc bổ, bổ dạ dày, giúp sự tiêu
hóa, điều hoà nhịp tim cũng như chữa tai ù, hay quên, mệt
mỏi, mụt nhọt lâu liền, hậu bối, ngoài chuyện dùng nó
làm thuốc trừ sâu bọ, chống chấy rận (ĐTL). Đằng khác,
căn hành sắc lấy nước có thể dùng để kích thích, bổ
dưỡng, điều trị bệnh đau dạ dày, những tai biến của
bệnh lậu giọt, nhai nuốt để trị bệnh đầy bụng, chứng
khan tiếng, dùng nó thì tai lắng được tinh thêm, mắt trông
được rõ thêm. Có nơi dùng làm thuốc thông tiểu tiện, điều
kinh nguyệt, trị kiết lỵ, khích động tình dục (1).
Thạch
xương bồ
Âu
Mỹ và đặc biệt Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc đã có
khảo cứu về thạch xương bồ. Cây nhà lá vườn, xin kể
trước công trình của các nhà khảo cứu Việt Nam (3).
Hai chất chính được tìm ra là asaron và shyobunon bên cạnh
myrcen, camphor và methyl isoeugenol. Công thức asaron là trimethyl
propenyl benzen : dấu nối đôi hiến hai chất đồng phân quang
học alfa-asaron và bêta-asaron còn gọi isoasaron ; đằng
khác, dấu nấu đôi có thể thay chỗ, đem lại thêm một chất
đồng phân hình học : trimethoxy allyl benzen. Trong tinh dầu thạch
xương bồ còn có gramenon, bisasaricin, cũng gọi acoradin. Dùng
phương pháp mao sắc phân kết hợp vói máy phổ ký, một công
trình phân tích loại xương bồ mọc ở Guiyang bên Trung Quốc
xác định được 39/43 hoá chất trong ấy ngoài bêta-asaron
và shyobunon có tetramethyl chromanon và isopropenyl dimethyl bicyclo
decaon. Cũng nên biết thêm là thân và rễ cỏ còn chứa nhiều
kim loại, khoáng chất : Sr, Zn, Cu Ni, Fe, Mn, Ti, Cr, Pb, Ca và
K.
Nếu
thạch xương bồ có mùi hương thì chắc là do asaron mà ra.
Ở Ấn Độ, để có mùi hương nầy, người ta chưng lá cây
hoắc hương patchouli (tên khoa học Pogostemon cablin (Blanco)
Benth.). Thật ra, asaron có nhiều hơn trong thuỷ xương bồ nên
thường người ta chiết nó từ cỏ nầy. Cỏ được dùng
làm chất thơm cho các rượu Vermouth, Dantzig hay mấy thứ rượu
thơm của các dòng Bénédictins, Trappistes (1). Hàn QuÓc
có thứ rượu Pyunsan Palsun làm với gạo lên men và nước
sắc thạch xương bồ cùng một số cỏ khác (5).
Nước sắc ấy có thể cho cô lại làm thức uống giảm nhiệt
khi bị đau tim, gan, dạ dày (7), thuốc chống béo
(8,15),
chữa các chứng đau ngực, đau vai (6). Bên ta sách
Đạo
tạng kinh coi xương bồ là thuốc tiên : ngâm nước vo gạo,
sấy hay phơi khô, uống vào thì tiêu cơm, trừ đàm, lâu ngày
xương tủy đầy, đẹp người, đen tóc, răng rụng lại mọc
! (ĐTL). Những năm sau nầy, thạch xương bồ thường được
kê trong các văn bằng sáng chế vì nó có rất nhiều tính
chất dược liệu hay ho. Hoạt động phản oxi hóa đưa nó
vào các liều thuốc bổ, thuốc chống già, những thuốc bôi
bảo vệ da, bổ dưỡng tóc. Nó được trộn với nhiều cỏ
khác làm thuốc viên chữa tim mạch (12), hư não
(9),
đau xương (14), đau mắt (4), khó tiêu (11),
thiếu máu (13), mất ngủ (10). Nhờ bêta-asaron,
nó có tính chất khử nấm tác nhân gây bệnh loại Magnaporthe
grisea, Colletotrichum orbiculare hay Nilaparvata lugens, Plutella
xylostella. Riêng bêta-asaron được dùng để bảo vệ hột
bắp chống Prostephanus truncatus Horn rất hiệu nghiệm.
Cả hai đồng phân asaron đều có tính chất sát trùng, nồng
độ tối thiểu gây chết cho đợt hai ấu trùng Toxocara
canis ở chó là 1 ,2 mM. Đồng thời, nó cũng là một chất
phá hoại các tuyến sinh dục nên được đề nghị dùng làm
tác nhân kiểm tra sâu bọ. Nhiều văn bằng sáng chế dùng
tinh dầu với liều lượng nhỏ trong các công thức dược
học phòng ngừa chứng mạch vành hay chữa bệnh trị cúm ở
gia cầm.
Thủy
xương bồ
Vì
thủy xương bồ được dùng để chiết xuất asaron nên trước
đây người ta khảo sát cỏ nầy nhiều hơn, từ đấy thành
phần hóa học cùng ứng dụng cũng được biết rõ ràng hơn.
Cứ 100 g cỏ khô thì chiết xuất được 3,84-6,16 ml tinh dầu,
0,62-0,93% tanin ở rễ ; 0,39-1,02 ml tinh dầu, 1,36-2,18% tanin ở
lá ; vitamin C thì ở rễ chỉ có 2,40-3,99 %, ở lá có nhiều
hơn 18,7-57,7 %. Đường trong thân và rễ cỏ nhiều nhất là
fructose rồi đến glucose, có ít maltose. Amin acid gồm có nhiều
thứ : nhiều nhất là oleic, linoleic, palmitic, palmitoic, sau đến
arachidic, myristic acid tương đối ít. Ở rễ cỏ, ngoài protein,
amin acid có nhiều nhất là tryptophan, người ta còn đo carbohydrat,
độ ẩm, chất béo và tro cùng các khoáng chất, kim loại như
Ca, Fe. Về các hóa chất hữu cơ, một công tác phát hiện
được 243 thành phần dễ bốc hơi. Ngoài asaron là chất có
nhiều nhất, đã được tìm ra shyobunon, isoshybunon, acolamon,
isoacolamon, acoragermacron, calamendiol, isocalamendiol, preisocalamendiol.
Những chất nầy có thể biến hóa từ một phân tử nguyên
lai giả định theo một sơ đồ phát sinh sinh vật học với
acoragermacron làm chất trung gian.
|->shyobunon
+ epishyobunon -> isoshyobunon
Farnesyl
pyrophosphat -> acoragermacron -> acolamon + isoacolamon
|->preisocalemendiol
-> camamendiol + isocalamendiol
Đồng
dạng với asaron có một vài chất chỉ khác nhau ở dãy bên:
asarylaldehyd hay trimethoxy benzaldehyd, acoramon hay trimethoxy phenyl
aceton, trimethoxy phenyl propenal bên cạnh acoradin hay bisasaricin
đã thấy ở thạch xương bồ, ethyl methyl trimethoxy indan có
thể tổng hợp từ asaron. Nếu vận dụng ở áp lực cao thì
chiết xuất được những chất đắng ít ổn định là acoron,
isoacoron. Dùng ethanol thì được ba chất tatarin đều có thể
dùng trong cuộc chữa trị bệnh Alzheimer (23). Ngoài
ra, còn có một số chất đã thấy trong các cây cỏ khác :
dimethoxy benzoquinon, galangin, sitosterol, isoeugenol methyl ether, epoxy
isoacora germacron , calamenon hay calamen sesquiterpinol, cadalatrien.
Sau cùng, một chất khá quan trọng được tìm ra trong lá, đặc
biệt trong tanin và tinh dầu là một enzym mang tên chalcon synthetase
mà nhiệm vụ là xúc tác việc chế tạo chalcon, hóa chất
trung gian trong cuộc tổng hợp sinh học flavonoid và isoflavonoid.
Tác dụng và công dụng của tinh dầu chiết xuất từ thủy
xương bồ trước tiên là tác dụng và công dụng của asaron,
đặc biệt của bêta-asaron đã thấy.
Thuốc
xương bồ
Như
thạch xương bồ, thủy xương bồ cũng có tính chất phản
oxi hóa nên được dùng làm thuốc bổ (27). Tinh dầu
của thủy xương bồ có khả năng ức chế sự tiết của
dạ dày, đồng thời bảo vệ niêm mạc tá tràng chống mọi
thương tổn do buộc thắc môn vị hay thuốc chữa viêm, cao
huyết áp gây ra. Cho thử lên chuột, người ta thấy nó có
tác dụng chống gây loét do những nguyên do vừa kể nên được
đề nghị dùng chữa trị các bệnh ở dạ dày (21).
Đông y đã có sử dụng tính chất ấy và cũng đã thấy thủy
xương bồ có tác dụng dự phòng, điều hòa nhịp tim, sát
khuẩn, kích thích đối với da (ĐTL). Một loạt văn bằng
sáng chế dùng tinh dầu hay dùng ngay lá cho trộn với những
cây khác hoặc hóa chất để làm nước tắm, có khả năng
làm thấm nước da, hoặc để gội tóc, bảo dưỡng da đầu,
kích thích tóc mọc, giảm hạ thành gầu, tăng gia hoạt động
tiêu mỡ (19), điều hòa máu (25,28), phòng
ngừa béo phì (24). Thủy xương bồ đuợc ủ cùng
một số cây khác thành rượu mùi (18). Chất thơm
của cỏ được dùng trong nhiều loại hỗn hợp bảo vệ sức
khỏe có thể vận dụng trong nhà, lọc sạch khí quyển, trong
thuốc đánh răng có khả năng kích thích quá trình trao đổi
ở các tổ chức khớp răng (16). Cỏ còn được dùng
trong thuốc chống cao huyết áp (22, 24), chữa bệnh
Sida theo y học Ayurvedic (17). Rễ cỏ đem sắc rồi
trộn với thuốc mê được dùng làm dự phòng viêm ổ răng
sau giải phẩu (20). Phần chiết cỏ được trộn
với nicotin và carragenan, calcium citrat và nước thành một thứ
kẹo nhai có mùi thuốc hay cho rải lên lá thuốc làm thuốc
hút bổ sức. Trong lãnh vực canh nông, dầu thủy xương bồ
có tính chất diệt những trùng Sitophilus oryzae, Callosobruchus
chinensis. Trộn với sầu đâu Azadirechta indica, cỏ
ngừa ăn và ngăn chận sự trưởng thành của sâu đục trái
Earias
vitella. Có tính chất diệt vi khuẩn như Toxocara vitulorum
ở
trâu, bò, cỏ được dùng chữa giun sán (26), để
làm thuốc chữa trị chứng đầy hơi và bệnh ỉa chảy ở
thú vật. Trộn với ngải cứu, nó là một chất phân tốt
đem lại chất bổ cho cây đồng thời hấp thu ion kim loại
nặng.
Nói
tóm lại, xương bồ không chỉ cống hiến hương thơm cho dòng
sông Hương mà còn là những vị thuốc cho Đông y và Tây dược,
những chất cần thiết cho canh nông. Nếu Đông y biết dùng
cây cỏ từ lâu, sắc uống để trị bá chứng, Tây dược
thường phải phân tích thân, lá, rễ cây, xác định các hoạt
chất rồi từ đấy mới làm thành thuốc. Trong trường hợp
xương bồ, phần lớn ứng dụng phát xuất từ tinh dầu chiết
xuất bằng cồn (methanol, ethanol) hay hexan với hoạt chất chính
là asaron. Tuy nhiên cũng nên cần biết asaron có khả năng gây
ung thư nên trong thuốc men cần phải giảm hạ liều lượng
chất ấy. Cần chăng nhắn những người dùng các thuốc gội
tóc bảo vệ da đầu nên yên tâm vì tỷ lệ xương bồ rất
nhỏ trong các thuốc ấy nên tính chất gây ung thư không đáng
kể. Có lẽ trong Đông y thuốc sắc từ lá cũng vậy.
Bây
giờ chỉ còn trông đợi công trình xác định các cây cỏ
khác trên bờ và trong nước sông Hương của các nhà thảo
mộc để tiếp tục tìm kiếm các chất thơm đã đặt tên
cho dòng sông, không ngoài mục đích "gởi gắm vào đấy tất
cả ước vọng muốn cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp
văn hóa và lịch sử" (2).
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 1 (1990)
Tham
khảo
1-
Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn hóa, Bộ Quốc
gia Giáo dục, Sài Gòn (1960) 224-6, dẫn sách Pételot, Les plantes
médicinales de l’Indochine
2-
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế, di tích và con người,
nxb Thuận Hóa, Huế (1995) 49
Acorus
gramineus
3-
Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Thị Tam, Chemical composition of Acorus
gramineus var. variegatus Hort, Tạp chí Dược học (5-6)
(1987) 22-3
4-
T. Mihara, Compositions containing asarones extracted from plants for
prevention and improvement of vision disorders, Jpn Kokai Tokkyo
Koho JP 10324636 (1998) 10 tr.
5-
S.H. Kim, I.S. Kim, H.J. Choi, Preparation method of pyunsan palsun
liquor, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2000025268 (2000)
6-
S.K. Shin, Chinese medicinal drink and Chinese pill composition for
treatment of chest-ache, schoulder-ache and heart-disease, and manufacturing
process thereof, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2000033287
(2001)
7-
S.K. Shin, Drink composition for removing pimple and making method thereof,
Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2001017481 (2001)
8-
Y.S. Cho, Y.H. Cho, M.G. Han, Tea composition for inhibition obesity
including medicinal herbs, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2001088728 (2001)
9-
J.H. Baek, H.C. Kim, S.Y. Kim, Y.O. Kim, Y.S. Kim, G.H. Lim, G.H. Suk,
Acorus
gramineus rhizoma extract having neuroprotective action and pharmaceutical
formulation containing the same, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo
KR
2002087721 (2002)
10-
D.Wu, D. Niu, Medical composition of melatonin and "Yizhi" Chinese patent
medicine, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1408378
(2003) 9 tr.
11-
Y. Mao, Method for preparing compounded "Chenxiang" gastric dispersible
tablet, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1456216
(2003) 5 tr.
12-
J. Zou, Chinese patent medicine for treating cardiovascular diseases,
its formulation and quality control, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1460509 (2003) 10 tr.
13-
J. Zou, Chinese patent medicine for benifiting Qi, enriching the blood,
keeping the heart in good shape, and relieving uneasiness of body and mind,
its preparation and quality control, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1460510 (2004) 11 tr.
14-
Z. Li, J. Zhao, "Fengshi Gubing Ke" medical composition for treating
rheumatic bone diseases, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN
1466980 (2004) 5 tr
15-
Y.S. Yoon, S.H. Kim, C.K. Han, W. Choi, H.J. Hyo, G.J. Im, Y.H. Kim, D.S.
Kum, W.J. Kwak, Anti-obesity ingredients from medicinal plants and their
composition, PCT Int. Appl. WO 2004058284 (2004)
Acorus
calamus
16-
N.A. Konstantinov, G.P. Kakhomov, I.M. Tuna, Tooth paste, USSR(1978)353
17-
S. Khanna, A process of preparing anti-AIDS Ayurvedic pharmaceutical
compositions, Indian IN 179810 (1977) 21 tr.
18-
P. Schwarz, Bitter liqueur, Patentschrift (Switz) CH 644,630
(1984) 2 tr.
19-
V.B. Nekrasova, V.E. Kovalev, N.B. Koroleva, A.P. Komissarova, Z.Ya. Zalem,
O.M. Burylina, O.S. Rozhdestvenskaya, V.G. Mar’yandysheva, Hair care
preparation, USSR SU 1,152,590 (1985)
20-
A.K.A. Chowdhury, A.T. Ara, M.F. Hashim, M. Ahmed, A new phenyl propane
derivative from Acorus calamus, Pharmazie (10) 48 (1993)
786-7
21-
S. Rafatullah, M. Tariq, J.S. Mossa, M.A. Al-Yahya, M.S. Al-Said, M.S.
Ageel, Antisecretory, antiulcer and cytoprotective properties of Acorus
calamus in rats, Fitoterapia, (1) 65 (1994) 19-23
22-
T. Zhan, Additives for cigarette, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1,092,958 (1995) 4 tr.
23-
A. Lao, X. Tang, H. Wang, M. Wang, Extraction of tatarines A, B and
C from Acorus calamus for therapeutic use, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1220260 (1999) 15 tr.
24-
E.S. Kim, Processed meat products preventing obesity and having flavor,
Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2002069592 (2002)
25-
R. Govindarajan, A.K. Agnihotri, S. Khatoon, A.K.S. Ajay, S. Mehrotra,
Pharmacognostical
evaluation ofan antioxidant plant – Acorus calamus Linn., Nat.
Prod. Sci. (4) 9 (2003) 264-9
26-
L.J. McGaw, A.K. Jager, J. van Staden, Isolation of -asarone, an
antibacterial and anthelmintic compound, from Acorus calamus from South
Africa, South African J. Botany (1) 68 (2002) 31-5
27-
C. Sun, A healthful Chinese traditional medicinal preparation optimizing
the brain, PCT Int. Appl. WO 2003059367 (2003) 23 tr.
28-
Gerent Biotech. Co, Taiwan, Herb composition for avoidance and/or treatment
of conditions in connection with depression, Ger. Gebrauchmusterschrift
DE
202004018534 (2005) 22 tr. |