Vào
thời đại nầy, nhiều thức ăn đem lại khẩu vị, nhiều
chất thuốc gây ra khoái cảm đang bị lên án, hoặc vì liều
dùng quá độ, hoặc vì sử dụng lâu ngày nên phát sinh lệ
thuộc, phá hủy sức khoẻ, lắm khi thật sự chúng đã có
tác dụng phần nào lên thần kinh hệ hay các cơ quan khác trong
cơ thể : thuốc lá, cà phê, rượu, muối , và .... đường
! Thật ra, bốn ngàn năm trước đây người Ai Cập đã thích
ăn đồ ngọt trong mật ong, trái chà là. Trong lăng mộ vua
Toutankhamon đã có thấy chất ngọt glycerrhizin phát xuất từ
cây cam thảo. Ngày nay phỏng chừng trên thế giới hàng năm
khoảng 100 triệu tấn đường được tiêu thụ. Rẽ tiền,
bùi miệng, đường lại rất cần thiết cho việc phát dục
cơ thể. Tuy nhiên, nó cũng có mặt trái. Vì cống hiến nhiều
năng lượng, nó có thể làm cho cơ thể béo phì, lắm khi chẳng
phải vì do dùng quá độ. Trong miệng, các vi khuẩn có thể
dùng nó chế tạo ra acid tác dụng lên răng. Vì vậy, để
tránh lên cân, hư răng, cũng như ở các bệnh nhân mắt chứng
đái đường, người ta buộc lòng phải kiêng cử hoặc dùng
đường ít lại, kiêng kẹo, kiêng kem, bỏ chè, bỏ nước
ngọt, .... hay tốt hơn, tìm kiếm một chất thay thế. Chất
nầy cốt yếu phải cống hiến năng lượng ít hơn hoặc có
độ ngọt lớn để dùng số lượng nhỏ lại. Dù sao, nó
phải thỏa mãn những điều kiện không được phân hủy trong
miệng khi có nước miếng tác dụng vào và nhất là không
được biến hóa trong môi trường acid của dạ dày như đường.
Được
chiết xuất từ mía hay củ cải đường, đường là một
hóa chất gọi là saccharose hay sucrose, do hai phân tử glucose
và fructose liên kết với nhau mà tạo thành. Glucose phát xuất
từ danh từ Hy Lạp glukos (mềm, dịu), còn saccharose
nguyên gốc là từ chữ phạn çarkara (hột). Khi Alexandre
le Grand đi đánh giặc bên Ba Tư về, ông đã nói đến một
"một cây lau làm mật mà không cần ong !" Thời Trung cổ, mía
được trồng ở các nước Ả Rập, sau mới dần lan qua các
nước nhiệt đới. Năm 1747, ông A.S. Markgraf ở Đức tìm ra
saccharose trong củ cải đường, nhưng phải đợi đến lúc
lục địa bị Napoléon I phong tỏa, kỹ nghệ đường từ củ
cải mới được phát triển. Nếu fructose có nhiều trong trái
cây (Âu Mỹ gọi trái cây là fruit), glucose hiện diện
trong nhiều thảo mộc, từ trái qua lá, từ nhựa cây qua nhụy
hoa, nhiều khi trùng hợp thành dãy dài như cellulose, chitin,
.... đặc biệt trong tinh bột mà đem thủy phân ở môi trường
acid thì phân hủy ra glucose. Vì vậy, muốn tránh saccharose thì
theo nguyên tắc phải tránh nhiều thảo mộc, ngay cả đường
chiết xuất từ các các cây thích (érable) (Gia Nã Đại), dừa
cọ (palmier) (Thái Lan), chà là (datte) (Pakistan), bắp (Hoa Kỳ).
Vì
vậy, nhiều phòng thí nghiệp kiếm cách chế tạo những phân
tử không biến hoá trong cơ thể từ nguyên liệu saccharose
hay glucide sẵn có. Biết được cho thêm chlor vào phân tử
thì hoá chất càng ngọt hơn, hãng Tate and Lyle đã cho đăng
ký hai văn bằng sáng chế hai chất chloro desoxy saccharose và
trichloro galacto saccharose, ngọt hơn saccharose 650 lần, rất ổn
định. Những phân tử như thio fructose cũng đã được nói
đến. Mặt khác, công ty Boise Cascade Corp. cho tổng hợp các
L-glucid (fructose, arabinose, galactose) không biến hóa trong cơ
thể. Họ dùng enzym cho tác dụng lên các đồng vị D-glucid
của thú vật. Phương pháp nầy tương đối đắt tiền nên
L-glucid chưa thành thương phẩm mặc dầu hãng Biospherics đã
ghi văn bằng khai thác dưới nhãn hiệu Lev-O-Cal. Cũng dùng
enzym như Streptomyces phaechromogenes, Bracillus coegulans, người
ta chế biến fructose từ glucose. Từ 1963, ở Viện Khảo cứu
Bộ Canh nông Nhật Bản, nhờ dùng một amylase mà fructose được
chế tạo từ tinh bột gạo, bắp, mì hay lúa miến (sorgho).
Sau nầy, các enzym của Trichoderma vivide, T. longibrachiatum,
G. Geotrichum candidum còn tác dụng lên cả cellulose vải bông
đem lại fructose. Đặc biệt từ saccharose, những enzym của
Strepmyces
phaechromogenes, Bacillus coagulans, Pummularia pullulans đã được
dùng để biến hóa glucose ra fructose và điều chế một xirô
fructose, còn gọi là isoglucose. Các nhà khảo cứu ở Viện
Nghiên cứu Canh nông Pháp INRA dùng các inulase phát xuất từ
nấm men như Pichia polymorpha, Debaryomyces phaffii cho tác
dụng lên các chất trùng hợp fructose, gọi là inulin, ở trong
các cây actisô, rau diếp xoăn (chicorée), cúc vú (topinambour),
cũng sản xuất được fructose (3).
Từ
chế biến đường với các chất thiên nhiên, các phòng thí
nghiệm mạnh bước qua phương pháp tổng hợp nhân tạo các
chất ngọt không biến hóa trong cơ thể. Chất được điều
chế đầu tiên năm 1897 và hiện nay đang còn được dùng là
saccharin. Ngọt gấp 300-400 lần saccharose, ổn định ở môi
trường acid nên dùng được trong nước ngọt, thường dưới
thể natri hay calci. Nhược điểm của nó là có vị chát và
kim loại nên ở Hoa Kỳ nó được trộn lẫn với cyclamat trong
nước ngọt. Người ta nghi saccharin có thể gây ung thư vì
đã thấy ở bóng đái chuột. Chất cyclamat nầy, người ta
tình cờ phát hiện ra vị ngọt năm 1937; nó chỉ ngọt hơn
saccharose có 30 lần nhưng rất dễ hòa tan trong nước và nhất
là không để lại dư vị trong miệng như saccharin. Nhưng cyclamat
lại có thể bị phân hủy ra cyclohexamin đã từng gây ung thư
trong cơ thể chuột nên năm 1969 cơ quan kiểm ba thức ăn và
thuốc men Hoa Kỳ Food and Drug Administration FAD cấm dùng nó,
để cho saccharin mặc sức phát triển trên thị trường với
nhiều tỷ USD mỗi năm. Tuy vậy, qua năm 1977, vì có khả năng
gây ung thư trên chuột, đến lượt saccharin cũng bị đe dọa
cấm dùng.
Trong
bối cảnh nầy, aspartam ra đời năm 1965, cũng tình cờ khi
J.M. Schlatter tổng hợp chất gastrin ở hãng Searle. Ngày nay
người ta chế tạo nó bằng phương pháp hóa học hay sinh học
(dùng enzym của Pseudomonas putida, Alcaligenes faecalis hay
nấm Sporobomyces odorus) ghép nối phenylalanin vào
aspartic acid, nhưng năng suất kém và còn rất đắc (55
USD/kg) so với saccharin (10 USD/kg). Là một dipeptide, nó ngọt
hơn saccharose 200 lần, lại không để lại chút dư vị nào,
nhưng không ổn định ở nhiệt độ cao, nghĩa là không nấu
được với đồ ăn, cũng như phân hủy dần trong nước, nghĩa
là nước ngọt có aspartam không giữ được lâu. Cho trộn
aspartam với saccharin thì hỗn hợp ngọt hơn và ổn định
hơn khi hai chất đứng riêng một mình. Khi aspartam bị phân
hủy, nó tách ra làm hai phân tử nguyên gốc aspartic acid và
phenylalanin. Chất sau nầy rất độc cho ai không có một enzym
gọi là phenyl hydroxylase để chuyển hóa nó ra tyrosin (chứng
phenylketonuria) cho nên bên Hoa Kỳ trên nhãn những thức ăn
có chứa aspartam bắt buộc phải có ghi rõ (3). Vừa
rồi, cơ quan Ramazzini bên Ý đưa tin aspartam có khả năng gây
ung thư nhưng nhìn kỹ thì chỉ là mới có kết quả trên chuột
cái với liều lượng tương đối lớn. Thị trường aspartam
hiện nay lên tới nhiều tỷ USD mỗi năm. Chất ngọt khám
phá sau cùng và có nhiều triển vọng là kali acesulfam, cũng
tình cờ mà Clauss và Jensen ở hãng Hoechst bên Đức tìm ra
được năm 1973. Ngọt gấp 200 lần saccharose, ổn định hơn
aspartam ở nhiệt độ cao và môi trường acid, lại cũng rẽ
tiền, nay mai nó sẽ cạnh tranh với cả sacharin lẫn aspartam.
Hỗn hợp acesulfam aspartam vừa nâng cao khẩu vị vừa rất
ổn định, chắc rồi đây sẽ được dùng nhiều khi biết
acesulfam chỉ giá có 50 USD/kg.
Ngoài
hai lối biến chế từ chất thiên nhiên và nhân tạo tổng
hợp, phương cách thứ ba là tìm kiếm các loài thảo mộc
chứa sẵn chất ngọt khác với saccharose. Chất ngọt thiên
nhiên đầu tiên được nói đến năm 1855 nằm trong trái cây
Thaumatococus
daniellii (vì người miêu tả đầu tiên là một bác sĩ
phẫu thuật người Anh tên là M.W.F. Daniell), mọc bên xứ Soudan,
nhưng mãi đến 1968 mới thấy xuất hiện trong bản thống
kê của Sở Canh nông Hoa Kỳ trong loại các cây nhiệt đới
có khẩu vị bất thường. Năm 1973, Van der Wel (Công ty Unilever)
chiết xuất 5 dạng chất thaumatin, ngọt hơn 5000 lần saccharose
và hãng Tate and Lyle đem bán dưới nhãn hiệu Talin (16.500 USD/kg).
Rất ổn định, các protein nầy để lại vị ngọt hơi lâu
trong miệng. Đằng khác vì năng suất sản xuất kém nên nó
không được đưa ra kỹ nghệ. Ngày nay nó chỉ được dùng
nhiều bên Nhật Bản trong đồ ăn, canh cháo qua tên Sun Sweet
T1. Để rút ngắn thời gian vị ngọt lưu lại, người
ta thường trộn nó với các amin acid hay acid hữu cơ (2).
Đồng thời với thaumatin, trái của cây
Dioscorophyllum cunminsii
cũng cống hiến một protein ngọt, gọi là monellin vì được
hãng Monell Chemical Sences Centre bên Hoa Kỳ chiết xuất năm 1972
song song với phòng Unilever Research bên Hòa Lan. Ngọt gấp 2500
lần saccharose, chất nầy không có tương lai vì chất ngọt
khó chiết xuất, ít ổn định, cây lại khó trồng, trái khó
trữ (3).
Trước
các chất ngọt đủ thứ, thiên nhiên cũng như nhân tạo, cạnh
tranh kinh tế thấy ra không dễ dàng, cây cỏ ngọt trồng ở
Việt Nam, còn g†i cÕ mÆt hay cúc ng†t, sẽ chiếm địa vị
nào ? Thật ra, nó không phải là một cây mới được khám
phá, chất ngọt chiết xuất cũng không phải mới được bán
ra thị trường. Ở Paraguay, người ta gọi nó là cây Caá-êhê,
Azucá-caá hay Kaá-hê-e. Tên khoa học của nó lúc ban đầu là
Eupatorium
rebaudianum vì O. Rebaudi là người đầu tiên đã nói đến
nó. Năm 1899, một nhà thảo mộc người Paraguay, M.C. Bertoni,
xác định nó là cỏ thuộc loại stevia, qua năm 1905 miêu tả
rành mạch và đổi tên nó thành Stevia rebaudiana Bertoni
(Hemsl ở Việt Nam) (11) thuộc họ Cúc Compositae
(còn
có tên Asteraceae). Sau đó, P. Rasenack (1908), rồi đến
lượt K. Dieterich (1909) chiết xuất hai chất trong cỏ ngọt
: eupatorin (từ chi Eupatorium), một chất rắn kết tinh
tan hòa trong nước và rượu, và ribaudin, một chất khoáng
vô định hình không tan vào dung dịch nào cả (1).
Năm 1915, R. Robert tìm ra được trong cỏ hai chất saponin, một
chất trung hòa là eupatorin, chất kia có tính chất acid. Sau
khi Bertoni đề nghị sửa tên eupatorin thành estevina hay stevin
(từ stevia). Liên hiệp Quốc tế Hóa học nhóm ở Copenhague
năm 1924 chỉ định tên steviosid cho chất nầy.
Công
trình khảo cứu đầu tiên sâu rộng là do R. Lavielle, trước
với M. Bridel, sau với M. Pommaret, thực hiện năm 1931 (4).
Dùng rượu ở 70 độ, từ một kilô cỏ, họ chiết xuất
được 4,5g steviosid và nghiên cứu những tính chất vật lý,
hóa học, sinh lý học của nó. Họ cũng có thử tìm công thức
của steviosid nhưng với những phương tiện phân tích hồi
đó, chẳng đạt được hoàn toàn mục đích tuy biết steviosid
gồm có một phần không phải glucosid liên kết với ba phân
tử glucosid. Trong kỳ thế chiến thứ hai, Melville đề nghị
Vườn Bách thảo Hoàng gia Royal Botanic Garden đem trồng stevia
bên Anh. Năm 1945, chiến tranh chấm dứt, đến lượt Gattoni
muốn thuyết phục Phân khoa Cây thuốc của Viện Nông học
Quốc gia Instituo Agronomico National xứ Paraguay trồng cỏ nầy
ở mức kỹ nghệ để xuất khẩu thay thế saccharin (3).
Cả hai dự án đều không được thực hiện nhưng bắt đầu
từ đây cuộc khảo cứu trên cỏ ngọt được thúc tiến
mạnh mẽ. Ở Việt Nam, chất ngọt đã được chiết xuất
(9,43%) từ cỏ trồng ở Lâm Đồng và, nhắm mục đích tăng
gia năng suất và chất lượng, Cu2+ đã được dùng để trồng
cỏ ở Bạch Thái (11).
Tuy
vậy, phải đợi đến những năm gần đây, với máy móc phân
tích tối tân, hiện đại, người ta mới biết rõ cặn kẽ
công thức các hoá chất trong cỏ ngọt. Ngày nay, ai cũng đồng
ý chất ngọt chính trong cỏ là steviosid, ngọt gấp 300 lần
saccharose. Bên cạnh steviosid là rebaudiosid, số lượng ít hơn
nhưng ngọt hơn steviosid 1,2-1,5 lần. Cả hai chất nầy đều
gồm có một phân tử cơ sở nối liền với ba hoặc bốn
phân tử glucose. Số glucose nầy có thể lớn hơn, cách liên
kết cũng có thể thay thế : dần dần 5 chất rebaudiosid được
khám phá ra. Có khi một phân tử rhamnose thay thế glucose đem
lại là 2 chất dulcosid. Nếu steviosid và ribaudiosid mất tất
cả các phân tử steviosid thì chúng trở thành steviol, và tùy
theo các nhóm thay thế, chúng làm thành một nhóm 8 sterebin.
Người ta cũng có tìm ra những chất jhanol (trước kia đã
được chiết xuất từ cây Eupatorium jhanii), austroinulin
(hiện diện trong cây Austroeupatorium inulaefolium) và dẫn
xuất của nó. Ngoài ra, tuy số lượng rất nhỏ, các nhà khảo
cứu cũng xác định được trong cỏ cấu tạo của 3 sterol
(stigmasterol, sitosterol, campesterol), 8 flavonoid, bên cạnh cosmosiin
và 2 chất dễ bốc hơi caryophyllen, spathuienol. Đấy là
chưa nói đến kim loại, theo thứ tự nhiều ít : Ca, Mg, Fe,
Mn, Sr, Cu, Cr, Cd. Cuộc khảo cứu hoa cỏ ngọt cũng phát hiện
ra được steviosid, rebaudiosid, jhanol, austroinulin và hai dẫn
xuất acetyl của nó.
Về
mặt sinh vật học, sự hiện diện của gibberellin A20
trong cỏ ngọt (một trong số năm gibberellin mà người ta biết)
chứng minh steviol có thể biến hóa thành gibberillin (5).
Kỳ lạ nhất có lẽ là việc khám phá ra trong lá cỏ ngọt
hai chất kháng sinh : chúng có tác dụng lên Pseudomonas aeruginosa
và Proteus vulgaris (8). Phần chiết stevia có tính
chất ức chế rotavirus (16), chống vi khuẩn Helicobacter
pylori nên được đề nghị đem dùng trị u khối (17).
Phần chiết hay những hoạt chất của stevia có thể dùng để
uống giảm hay chữa viêm tế bào (26). Những flavonoid
trong cỏ (4,57%) có tính chất chống những vi khuẩn Bacillus
subtilus, Staphylococcus aureus, Escherichia coli (10).Những
người bị bệnh đái đường không những có thể dùng steviosid
mà chất nầy còn có khả năng hạ đường trong máu (25),
giảm huyết áp trên chuột (13), trên chó (23)
nhÜng không ch"a lành bŒnh Çái ÇÜ©ng. Cũng ở trên chuột,
nó ức chế sự phát triển ung thư trên da. Cho trộn trong thuốc
đánh răng, nó có tác dụng lên vi khuẩn Streptococcus mutans
kết dính lên răng và cấu thành các mảng răng (18,19,24).
Nó đã được dùng làm thuốc kích thích tóc mọc (12,22),
khử dioxin trong đất (20,21). Lá và cành có tính chất
chống histamin nên có thể dùng để kiềm chế những triệu
chứng như ngứa ngáy, đau đớn (14). Lá, cành và
rễ cây stevia được trộn lẫn với nhau làm sợi dệt áo
quần, khăn bàn, mùng màng,.... và giấy chống vi khuẩn
(15).
Nói
tóm lại, lược đọc các báo chí khoa học, thấy ra cỏ ngọt
được rất nhiều hãng kỹ nghệ, nhiều phòng thí nghiệm
kể cả ở Việt Nam, chú ý đến. Trong khoảng trên dưới
500 bản báo cáo, bên cạnh một số lớn các bài khảo cứu
thuần túy, phân tích và xác định cấu tạo, những năm gần
đây còn có một số lớn bàn về các phương cách chiết xuất,
làm tinh khiết, những ứng dụng chất ngọt vào kỹ nghệ,
đặc biệt khoảng một trăm văn bằng sáng chế mà ba phần
tư là của Nhật Bản. Trong số 184 cây stevia đã được khảo
sát (9), 18 loại đã cống hiến chất ngọt nhưng
không có loại nào cho chất ngọt nhiều bằng Stevia ribaudiana.
Ngày nay, người ta thường dùng nước để chiết xuất chất
ngọt trong cỏ, nhưng cũng thấy có nhiều trường hợp dùng
rượu (methanol, ethanol hay butanol) pha lẫn với nước. Còn có
một phương pháp chiết xuất dùng CO2 lỏng ở trạng
thái siêu tới hạn (supercritic) cống hiến những hoá chất
rất ròng sạch sau khi xử lý khoan quay, ly tâm và nhiều cuộc
lọc qua màng lọc, cột trao đổi ion,… Để loại trừ dư
vị, ngoài cách dùng màng lọc nửa thấm (semipermeable), những
phương pháp đề nghị có thể chia làm hai loại : sử dụng
hoặc sắc phân hoặc kim loại, khoáng chất. Cột sắc phân
thường là silicagel, amberlite, duolite zeolite (đủ cỡ), các
chất trùng hợp metaphenylenediamin formaldehyd hay styren divinylbenzyl,
.... Kim loại, khoáng chất được dùng là Al, Fe, Ca dưới các
thể oxid, chlorid, sulfat, sulfat, carbonat, thường thấy nhất
là calcium dihydroxid. Năng suất chiết xuất nằm trong vòng 5-7%
nhưng cũng có văn bằng đưa ra số 11-26% (7).
Những
năm gần đây, cỏ ngọt được trồng thành cây kỹ nghệ
ở các nước Brazyl, Hàn QuÓc, Đài Loan. Để thử tăng năng
suất chất ngọt, đã thấy có dùng enzym của Aspergillus
oryzae biến hoá steviosid ra thành rebaudiosid A vì chất nầy
ngọt hơn (6). Bên Nhật Bản, hãng Toyo Sugar refining
bán một chất ngọt mang tên Stevia, ngọt hơn 150 lần saccharose
với ít nhiều dư vị : chất nầy được dùng trong canh, cháo,
xirô, nước chấm. Công ty Toyo Soda dùng một enzym khác, glycosyl
transferase, cho tác dụng trực tiếp lên stevia và tinh bột
đem lại một chất chỉ ngọt hơn 120 lần saccharose nhưng mất
được phần lớn dư vị. Từ 1983, hãng Jefco cho biết đã
dùng một phương pháp chiết xuất rất hiện đại và có hiệu
quả để chế biến một chất ngọt hơn 300 lần saccharose,
loại bỏ được mọi bất tiện lúc ban đầu của steviosid
: vị đắng, ít ổn định. Để cạnh tranh với công ty nầy,
hãng Tama Biochemical dùng phương pháp cấy mô để cho tăng số
lượng steviosid trong cỏ. Cũng nên biết thêm ở Viện Đại
học Jerusalem, người ta khảo cứu cách thích ứng cỏ ngọt
vào điều kiện nóng nực, thiếu đất, thiếu nước của
Israel (3).
Nhìn
chung, mặc dầu việc tìm kiếm chất ngọt thay thế đường
đang tiến hành mạnh mẽ, đường mía và củ cải đường
vẫn còn được dùng nhiều và khắp nơi. Nếu có cạnh tranh
chăng thì là giữa saccharose và isoglucose (xirô fructose), nghĩa
là giữa kỹ nghệ mía - củ cải đường và kỹ nghệ tinh
bột. Các chất ngọt khác, thuộc về kỹ nghệ dược phẩm,
hiện chỉ giữ vai trò thứ ba, chờ đợi một dịp để tấn
công. Trong các chất ngọt nầy đứng đầu là aspartam. Nếu
các hãng chế tạo Nhật Bản chưa kình địch lại nỗi aspartam
thì steviosid sợ e rồi cũng chẳng có đủ sức lên đài đánh
vật. Trừ phi chỉ nhắm bán hàng nội địa, các nhà kinh doanh
Việt Nam từng theo dõi tình hình quốc tế chắc đã thấy
mọi khó khăn để xuất cảng một một món hàng thoạt xem
tưởng như đầy tương lai hứa hẹn .
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 4 1995,
khoahoc.net
28.12.2006
Tham
khảo
1-
F. Bell, Stevioside : A unique sweetening agent, Chem. Ind. 17
(1954)
897
2-
J.D. Higginbotham, A la recherche de nouveaux édulcirants, L’acualité
chimique (5) (1980) 21
3-
J. Roque, Les édulcorants, Biofutur (3) (1984) 19
4-
M. Bridel, R. Lavielle, M. Pommaret, Le pricipe à valeur sucrée du
Kaá-hê-é (Setevia rebaudiana Bertoni), Bull. Soc. Chim. Biol.
(13)
(1931) 636, 781 ; (13) (1976) 1248
5-
L.M. Alves, M. Ruddat, The presence of gibberellin A20 in
Stevia rebaudiana and its significance for the biological activity of steviol,
Plant
Cell Physiol. (1) 20 (1979) 123
6-
N. Kaneda, R. Kasai, K. Yamasaki, O. Tanaka, Chemical studies on sweet
diterpene-glycosides of Stevia rebaudiana : conversioin of stevioside into
rebaudioside A, Chem. Phar. Bull. (9) 25 (1977) 2466
7-
R. Kato, Y. Sakaguchi, N. Motoi, Extraction and purification of stevioside,
Japan
Kokai 77,136,200 (1977) 6 tr.
8-
Koshiro Chujiro Shaten K.K., Stevia components as sweeting agents as
antibiotics, Jpn. Kokai Tokkyo Koho 80 92,323 (1980) 3 tr.
9-
D.J. Soejarto, A.D. Kinghorn, N.R. Farnsworth, Potential sweetening
agents of plant origin. III . Organoleptic evaluation of stevia leaf herbarium
samples for sweetness, J. Nat. Prod. (5) 45 (1982) 590
10-
Dao Kim Nhung, Le Viet Hong, Biological properties of flavonoids from
Stevia rebaudiana Bert. Tap Chi Duoc Hoc (2) (1995) 17
11-
Nguyen Thanh Hong, Nguyen Thi Minh, Determination and extraction of
sweetener substance from Vietnamese Stevia rebaudiana, Tap chi Hoa
hoc (1) 31 (1993) 39 ; Nguyen Van Ty, Influence of theconcentration
of copper sulfate solution on some physicobiochemical parameters and yield
capacity of Stevia rebaudinana Hemsl. Planted on hill land in Bac Thai
province, Tap Chi Duoc Hoc (7) (1996) 28
12-
E. Takeoka, C. Hamada, O. Suzuki, M. Tajima, Hair growth period extended
agent, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10265347 (1998) 12 tr.
13-
P. Chan, D.E. Xu, J.C. Liu , Y.J. Chen, B. Tomlinson, W.P. Huang, J.T.
Cheng, The effect of stevioside on blood pressure and plasma catecholamines
in spontaneously hypertensive rats, Life Sci. (19) 63
(1998) 1679
14-
M. Sato, M. Takeuchi, N. Sato, Antihistaminic substance of stevia origin,
U.S.
US
5958419(1999) 7 tr
15-
K. Saito, M. Date, S. Ogawa, Antibacterial stavia paper manufactured
by pulping pulverized stevia with alkali solutions and forming paper from
the pulp and antibacterial stevia fibers therefrom andmanufacture thereof,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2000290890 (2000)7 tr.
16-
K. Takahashi, S. Shigeta, N. Sato, Stevia extracts for the inhibition
of rotavirus, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001106635 (2001) 3
tr.
17-
K. Takahashi, S. Shigeta, N. Sato, Stevia rebaudiana Bertoni extraction
as antibacterials against Helicobacter pylori, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2001122793 (2001) 4 tr.
18-
S. Sugiyama, N. Doi, S. Ejiri, Y. Ishii, Dentifrices containing apatite
and polymers, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001131041 (2001) 8
tr ; JP 2001131042 (2001) 11 tr.
19-
Y. Suzuki, T. Yokoo, Liquid dentifrice compositions containing cationic
bactericides, polyoxyethylene alkyl ethers, and cationic polymers,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2001139433 (2001) 8 tr.
20-
B.E. Kim, M.K. Kim, K.T. Kim, R.W. Chang, J.W. Jong, Y.G. Kim, Study
on the degradation of dioxin by the Stevia extract, Organohalogen
Comp.54 (Dioxin 2001) 251
21-
Y.G. Kim, A method for preparing dioxin decomposers from Stevia, a dioxin
decomposer prepared by the method and a method for decomposing dioxins
using it, PCT Int. Appl. WO 2001040495 (2001) 27 tr.
22-
H. Takada, K. Teraoka, B.H. Kim, Hair growth stimulants containing Stevia
and Udo extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003040790 (2003)
5 tr.
23-
J.C. Liu, P.K. Kao, P. Chan, Y.H. Hsu, C.C. Hoi, G.S. Lien, M.H. Hsieh,
Y.J. Cheng, J.T. Cheng, Mechanism of the antihypertensive effect of
stevioside in anesthetized dogs, Pharmacol. (1) 67 (2003)
14
24-
H. Hanada, H. Senpuku, M. Arakawa, T. Ishizaki, S. Sakuma, Dental drug
delivery system agents containing hydroxyapatite, and control of cariogenic
bacteria using them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2004035416 (2004)
18 tr.
25-
S. Gregersen, P.B. Jeppesen, J.J. Holst, K. Hermansen, Antihyperglycemic
effects of stevioside in type diabetic subjets, Metab., Clin. Exp.
(1)53
(2004) 73
26-
B. Bogicevic, Oral application of extract of Stevia rebaudiana or its
active substances for the elimination of cellulite, Pct Int. Appl.
WO
29005048973 (2005)
|