Khát
uống trà mai hương ngọt ngọt,
Giấc
nằm hiên nguyệt gió hiu hiu.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Tục
truyền đức Bồ Đề Lạt Ma, người Ấn Độ đã du nhập
Phật giáo dyana vào Trung Hoa khoảng 520 qua trường phái
chan
(đầu tiên được gọi chan na), sau nầy trở nên seon
bên Hàn Quốc, zen bên Nhật Bản, thiền ở Việt
Nam, một hôm ngủ gật nhân lúc ngồi định tâm. Thức giấc,
hổ thẹn, ngài cắt hai mí mắt vứt xuống đất. Hai mí nầy
mọc rễ, đâm chồi lớn lên thành một cây lá hình mí mắt
mà người đời hái về dùng để giữ trí óc luôn được
tỉnh táo. Mặt khác người ta tin tục uống trà được truyền
lại từ thuở Thần Nông ! Sau một loại tên : tu,
she, chuan, jia, ming, .... ngày nay nó được gọi
cha bên
Tàu, cha hay sa bên Nhật, tchai bên Nga, tea
bên
Anh, tee bên Đức, thé bên Pháp, ....toàn những
chữ đồng âm. Lúc ban đầu, cách dùng trà có phần rắc rối
: lá được ẩm hơi nước, cán nghiền nát, vo thành viên rồi
đem nấu với hành, gừng, cam, sửa và nhiều gia vị khác gọi
là bánh trà hay đoàn trà. Thêm vào bơ, kem sữa,
lối ăn nầy hiện còn được thông dụng bên Tây Tạng. Trên
thế giới ngày nay ít thấy có nơi khác dùng ăn trà như vậy.
Ở
Á Châu, trà liên quan mật thiết với Phật giáo. Tăng lữ
khi ngồi thiền "cần tịnh tọa, điều tâm, quán chiếu tự
tánh, tiêu từ tạp niệm, để đạt trạnh thái khinh an, minh
tịnh, .... Trà lúc thức uống để thần tỉnh não, xua đuổi
ma ngủ ...." Từ đấy trong tu viện sinh ra trà đường,
nơi thảo luận, trà cổ, nơi đánh trống chiêu tập
tăng ni, trà đầu, vị tăng coi việc nấu trà (Tảo chữ
phàm phu, Triệu Châu : "uống trà đi", Giác Ngộ số 31,
1999). Dần dần, thú uống trà rời chùa chiền lan qua cung đình,
quan lại, sĩ phu, thương gia. Song song với Phật giáo, Lão giáo
lấy trà làm thuốc trường sinh, góp phần phổ biến tục
dùng trà vào quần chúng.
Bên
Trung Quốc, ở thời Khổng Tử đã thấy biết uống nước
cây tu, một loại trà đắng. Bắt đầu từ các thời
đại Tam Quốc, Lục Đại, thuật dùng trà dần dần trở nên
thịnh hành. Qua đời Đường, nghệ thuật trà chiếm một
chân quang trọng trong giới uyên bác, bên cạnh văn thơ, hội
họa, thư pháp, âm nhạc, võ thuật, .... Trà kinh, cuốn
sách đầu tiên thảo luận về trà, đưa tác giả Lục Vũ
lên bậc trà sư đầu tiên, sau nầy còn được tôn là
trà
thần (Đỗ Trọng Huề, Trà, lược sử và ý nghĩa,
Bách
Khoa số 169, 1964). Cũng vào thời ấy, Lư Đồng viết bài Trà
ca cùng Lục Vũ để tên lại hậu thế trong thế giới
trà. Sau nầy còn ra đời nhiều cuốn khác mà có tiếng nhất
là cuốn chuyên khảo xuất bản đời Tống, Trà luận
của vua Huy Tông, lúc nghệ thuật dùng trà đạt đỉnh tối
cao. Đồ gốm uống trà thời ấy còn giữ tiếng vang (John
Blofekd, Thé et Tao).
Nghệ
thuật trà theo Phật giáo nhập vào Nhật Bản, từ một thức
uống trở thành một dụng cụ truyền bá trường phái zen.
Cũng như ở những nơi khác, trà đạo thoát khỏi nhà
chùa, lấn vào địa hạt văn hóa, tổng hợp những lý tưởng
cao siêu thuộc về đạo giáo, luân lý, mỹ học, cùng triết
lý, kỷ luật, quan hệ xã hội. Tiếp tay các tu sĩ Ikkyu, Murata
Shukô (thế kỷ XV), Takeno Jô-ô (thế kỷ XVI) phát minh một
phong cách mới, nghệ thuật wabi, dùng trà trong một ngôi
nhà nhỏ, vẻ khiêm nhường, không phô trương, kết hợp thiền
định và nguyên tắc bình quân của nền dân chủ. Đồ đệ
ông ta, Sen Rikyu, là người khai triển trọn vẹn nghệ thuật
nầy, nhận diện trà đạo với bốn nguyên tằc căn bản hòa
hợp, tốn kính, thuần khiết và bình tâm. Hậu duệ của ông
15 thế hệ sau còn là trà sư có tiếng. Ngày nay, trong
nghi lễ dùng trà Nhật Bản chanoyu, sự kiện cho là đơn
giản pha trà và uống trà chỉ nhắm một mục đích : đạt
đến thanh thản tâm hồn, thông cảm với đồng loại trên
thế giới (Soshitu, Vie du thé, vie de l’esprit).
Rửa
lòng tục, tỉnh mộng trần
Âu
châu chỉ tiếp xúc với trà từ thế kỷ XVII qua Công ty Ấn
Độ thuộc Hòa Lan. Hảng buôn nầy chiếm độc quyền nhập
cảng trà vào nưóc Anh và Mỹ châu. Bửa dùng trà vào năm
giờ chiều, thêm đường, thêm sữa là một tục lệ mà ít
người Anh có thể bỏ qua. Ấm trà samovar giữ nóng suốt
ngày bên Nga nhắc ta nhớ đến om chè luôn đặt trên bếp
quê ta. Tuy nhiên ở phương Tây, cạnh tranh cà phê khá mạnh
nên, trừ ở những nước Đông Âu, tập quán dùng trà ít
được phát triển cho đến gần đây, bắt đầu thấy được
kêu trong các tiệm cơm Tàu Việt Thái sau hoặc ngay trong bữa
ăn.
Ở
Việt Nam, chúng ta thường phân biệt chè xanh và trà tàu. Tuy
nhiên, một hôm ở quận 13, Paris, khi tôi gọi ấm nước trà
sau bửa ăn, anh dọn bàn lễ phép hỏi lại : chè đậu hay
hay chè khoai ? Không có những đồn điền mênh mông như ở
các nước Ấn Độ, Tích Lan, Nam Dương, thường ở nước
ta vườn nào cũng có vài ba góc chè đủ dùng trong nhà. Lá
chè tươi nấu nước sôi là thức uống bình dân rẻ tiền.
Tuy vậy, ngày nay nó đang bị những nước ngọt Pepsi, Cola
nhập cảng hay các các rượu bia đủ loại lấn át. Nhà văn
Võ Phiến, cách đây gần 30 năm, đã luyến tiếc cái om chè
Huế ngày xưa : "Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ nước
vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức
chế thêm tí nước lã vào để trấn nó xuống. Một chốc
nó lại sôi lên lại tí nước lã nữa. Ba bốn bận như thế
.... Cần phải kiên nhẫn : lửa không nên cháy hỗn quá, nước
chế thêm không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có
thế chè pha ra bát mới tắt bọt được" (Hạt bọt trà
trong
Tùy
bút ). Bên các xứ Ma rôc, Tunidi thì người ta cố ý rót
thật cao cho có nhiều bọt một loại nước chè thật nóng,
thật ngọt lại rặt mùi bạc hà thơm ngát.
Trà
tàu bên ta nếu không dùng theo kiểu Trung Quốc xưa : trảm
mã (trà ủ trong bụng ngựa), trùng diệp (trà ủ
trong ruột sâu chế với búp trà), bạch mai hầu (trà
do khỉ lông trắng hái), .... thì các cụ lại ướp hoa (lài,
sen, hồng, sói, ....) không chỉ để có trà thơm. "Nhưng đặc
biệt nhất thì lại là lấy gạo sen dùng để ướp trà. Những
gia đình nền nếp, dù túng bấn cũng không thế nào dừng
được việc này. Việc này không còn là một sự a dua theo
thời, mà đã là một cần dùng về lễ nghi tôn giáo và cần
dùng trong việc xã giao, ngoài cái thú thưởng thức hương
vị đặc biệt của trà sen" (Lê Văn Siêu, Trà ướp sen
trong
Văn
minh Việt Nam). Dọn trà lại là một nghệ thuật. "Pha cho
mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy
bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi,
nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một
chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý" (Nguyễn Tuân,
Chén trà trong sương sớm trong Vang bóng một thời).
Thanh hương, hậu vị, ấm chén chưa đủ để gây cái thú
uống chè. "Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương
nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng thanh, với
bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm
chè tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần,
rửa được lòng tục" (Phạm Đình Hỗ, Cách uống chè
trong Vũ trung tùy bút). Ôi, cả một quá khứ biết bao
thanh cao, thuần khiết !
Ngày
nay, khi lại thăm nhà ai, vẫn còn có bình trà tiếp khách,
nhưng lễ nghi không quá điếu thuốc, miếng trầu. Thời đại
kinh tế, khoa học, ít thì giờ mà lại cần hiệu lực. Trên
thế giới, bốn nước đặc biệt sản xuất số lớn. Đứng
xa hàng đầu là Ấn Độ (mỗi năm 870.000 tấn), theo gót là
Trung Quốc (665.000 tấn), sau đó mới đến Kenya (294.000 tấn),
Tích Lan (281.000 tấn) rồi Nam Dương, Pakistan, Đài Loan, ....
Số sản xuất thế giới hàng năm xấp xỉ 2 triệu tấn. Ở
Ấn Độ, đồn điền trồng trà rải rác khắp nơi và chất
lượng trà mỗi vùng khác nhau, phụ thuộc vào loại đất
và khí hậu. Ở Trung Quốc, phần lớn những tỉnh trồng trà
nằm ở miền nam. Bên Kenya, xứ mới trồng trà so với các
nước Á châu, trà có hương vị nồng đậm đặc biệt của
miền núi. Tích Lan, nơi được mệnh danh là "đảo trà", gồm
có sáu vùng trà đều ở miền nam. Về mặt tiêu thụ, ngoài
các nước Á Đông dùng nhiều nhưng không có thống kê, nước
Anh nhập cảng nhiều nhất (trung bình mỗi người mỗi năm
uống 5kg), theo sau là New Zeland, Gia Nã Đại, .... Được thưởng
thức nhiều nhất là trà Ấn Độ, đặc biệt sản xuất ở
các vùng Darjeeling, Jalpaiguri, sau đến trà Tích Lan, Java, Trung
Quốc,....
Quốc
tế lúc đầu đặt tên cây trà là cây Thea, theo Linn.,
thuộc họ Trà Theaceae. Dần dần danh từ Camellia lại
thế vì lá trà giống lá cây hoa trà camelia. Có nhiều
loại Camellia : C. assamica, C. macrophyllia, C. rosea, C. viridis,
thông
dụng nhất là C. japonica và C. sinensis. Sách thuốc
xưa đã biết dùng trà để giảm đau, đở mệt, tăng sức,
gia cố nghị lực, phục hồi thị giác. Ngày nay, vì trà được
dùng nhiều nơi trên thế giới lại là một nguyên liệu dễ
kiếm, rẻ tiền nên rất nhiều phòng thí nghiệm ở các viện
Đại học cũng như ở các xí nghiệp dược phẩm đổ xô
vào khảo cứu và hàng ngàn bản báo cáo hàng năm chiếm đầy
các sách báo khoa học, trước để tìm hiểu tính chất, sau
hầu mong phát hiện được ứng dụng những hoạt chất tiềm
tàng đoán biết trong một thức uống rất thông thường.
Trên
thị trường thế giới, trà xuất hiện dưới ba thể : chè
tươi hay trà xanh là trà không lên men, mạt trà (matcha)
Nhật Bản, một loại trà bột dùng trong nghi thức chanoyu,
thuộc về thể chè nầy ; trà đen là trả ủ hay ngâm, nước
trà màu đậm, hương nồng, nặng mùi tannin ; trà ô long là
trà ủ lanh, đặc tính nằm giữa hai thể trà kia. Thường
được hái là ngọn đọt thêm một, hai hay ba lá tùy theo chất
lượng trà muốn sản xuất. Cũng có khi hái thêm bốn hay năm
lá nhưng là để chế tạo trà hạng tồi. Lá đưa về được
đem phơi hay sấy khô rồi cho kẹp lăn để chiết xuất tinh
dầu. Thao tác nấy bẻ gãy một số lá, đem sàn chia làm ba
loại : lá toàn vẹn dùng làm các trà Orange Pekoe, Flowery Orange
Pekoe, Golden Flowery Orange Pekoe, .... ; lá gãy một phần dùng
trong các trà Broken Orange Pekoe, Golden Broken Orange Pekoe, .... ;
và lá nghiền nát thành mụn dành cho các trà Dust, Fannings,
.... Để ủ, trà được thêm nước đưa độ ẩm lên 90% và
đặt trong môi trường không khí giữ giữa 22 và 280C.
Phản ứng hóa học làm tăng nhiệt độ khối lá. Khi nhiệt
độ hạ xuống là lúc cuộc lên men chấm dứt : chuyên viên
có kinh nghiệm biết rõ lúc nào cần cho ngừng thao tác. Ủ
trà cần thiết để gây hương vị trong trà nhưng kéo dài
phản ứng thì có hại cho chất lượng trà. Sau đó, lá được
đem sấy ở 800C để hạ độ ẩm xuống 12%. Trà
bây giờ có thể cho vào hộp kim loại chống ẩm, chống ánh
sáng, nhưng trước đó còn phải qua tay một viên giám định
kiểm tra màu sắc, hương vị và ngay cả tính đàn hồi của
lá trà khô.
Tính
chất, hương vị, chất lượng loại trà là do hơn 200 hóa
chất trong lá chỉ định, qua máy sắc ký, một phần lớn
đã được chiết xuất và xác định cấu trúc. Chúng thuộc
đủ loại chức : từ alcan qua alcanal, alcenal, từ acid qua ester,
ceton, oxid, rượu, .... đến những phân tử phức tạp hơn
như ở trong nhóm tanin. Hương trà thường được cho là từ
các chất hexenal, octadienon, norleucin, .... mà ra, mùi hoa hồng
từ alanin, phenylalanin, glutamic acid, mùi trái từ arginin, lysin,
mùi rượu từ threonin, còn tyrosin, tryptophan thì cho phảng phất
một mùi thúi, trong khi dimethyl octatrienol cống hiến một hương
hoa dịu ngọt. Trà Darjeeling được thưởng thức nhờ các
linalool, linalool oxid, geranol, haxanoic acid, benzyl alcool, phenylethyl
ethanol, geranic acid, hexanoic acid, dimethyl octadiendiol, .... Trà
Trung Quốc, từ Vân Nam, Phú Kiến qua Quảng Đông, Quảng Tây,
khác với trà Ấn Độ nhờ có nhiều benzyl alcool, phenylethyl
ethanol. Trà Tích Lan cũng được hưởng ứng nhiều nhờ hai
chất chính : methyl jasmonat có mùi hoa lài, jasmin lacton có mùi
trái mơ, trái đào, bên cạnh dimethyl nonenolid, octanolid, nonanolid,
decanolid, hai chất sau nầy có mùi cần tây, thơm như trái hồ
đào kèm theo mùi sữa dịu, phảng phất đằng sau hương trái
cây.
Diệt
khuẩn, trị nấm, khử độc
Ở
Việt Nam ta, trong số hơn một trăm chất đã được xác định
trong trà, nhiều nhất là pentanal, linalool, phenylcetat và ít
nhất là benzaldehyd, geraniol. Một công tác khảo cứu trên hai
loại trà đen và trà sen thì lại tìm ra được nhiều nhất
linalool, linalool oxid, dimethyl octatrienol, dimethyl pyrazin, ethylformyl
pyrrol bên cạnh anethol và dimethoxy benzen. Chất sau nầy có nhiều
nhất trong trà sen. Các hóa chất trong trà thay đổi với tuổi
cây trà, vị trí lá trên cây, thời gian hái lá trong năm, ....
cũng như cách xử lý, chế biến, tích trử trà. Ví dụ khi
giữ trà lâu ngày thì số lượng propanal tăng gia trong khi hexanal
giảm hạ. Đặc biệt, trong thời gian lên men, trừ những aspartic,
glutamic acid, glutamin, arginin, threonin, serin, theanin còn nguyên
vẹn, tất cả các amin acid dần dần biến hóa thành những
aldehyd tương ứng, góp phần nâng cao hương vị trà. Đáng
để ý là nếu ascorbic acid ngăn chận cuộc biến hoá nầy,
dehydro ascorbic acid có phản ứng ngược lại. Đằng khác, khi
đem trà đốt nóng thì thường thấy hiện ra những chất pyrazin
: methyl pyrazin, ba chất đồng phân dimethyl pyrazin, trimethyl pyrazin.
Màu
sắc trà là do những chất thuộc nhóm tannin mà ra. Những chất
sắc thường thấy là những xanthin, theaflavin, theaflagallin,
.... nhuộm trà đủ màu hồng, đỏ, nâu, .... Đặc biệt, những
amin acid như arginin làm tăng màu nâu, cystein cống hiến màu
hồng. Tanin là một hỗn hợp có tính chất bảo vệ gỗ, da,
chống thối rữa, mục nát. Nó cũng có thể gây ung thư ở
thực quản. Tỷ lệ trong lá thường quanh 12-13%, khi lá hái
cuối mùa có thể lên đến 18%. Tám chất polyphenol nổi trội
chiếm 40-60mg/g trà (có nhiều trong lá trà non hơn lá trà già)
: catech in (C), epicatechin (EC), gallocatechin (GC), epigallocatechin
(EGC) và bốn dẫn xuất gallat của chúng : catechin gallat (CG),
epicatechin gallat (ECG), gallocatechin gallat (GCG) và epigallocatechin
gallat (EGCG). Khi trà lên men, các chất catechin giảm hạ. Khi
trà bị đốt nóng, những polyphenol cũng thay đổi : epicatechin
biến thành catechin, epigallocatechin biến thành gallocatechin, ....
còn epicatechin gallat, epigallocatechin gallat, ... thì phân hủy
ra gallic acid cùng các mảnh hoá chất nhỏ khác. Một thành
phần quan trọng của tanin là tanic acid có tác dụng bóc vãy
tế bào biểu mô ở ruột, thoái hóa tế bào gan, thêm nhiểm
ngoài tiểu cầu và ngoài mạch tế bào bạch cầu đơn nhân
thận. Tanic acid trong trà pha là (mg/ml) 55-59 từ lá, 80-95 từ
mụn ; trong trà nấu, số lượng lên đến 85-95 từ lá, 102-118
từ bụi trà. Vì tanin có tính chất hóa học và dược lý
có ích nên cuộc chiết xuất nó đã được khảo cứu, đặc
biệt để phân tách các catechin.
Thường
người không quen uống trà bị mất ngủ. Thật vậy, trong
trà có cafein, nhiều hơn cả trong cà phê. Nói chung, trà chứa
đựng một số alcaloid dẫn xuất của purin. Ba chất chính
của nhóm nầy là ba dẫn xuất của xanthin : cafein (trimethyl
xanthin), theobromin, theophyllin (hai chất đồng phân dimethyxanthin).
Cafein có nhiều nhất (2-4%). Theobromin ít hơn (dưới 0,2%), thường
được chiết xuất từ hột cây Theobroma cacao. Theophyllin
còn ít hơn (khoảng 0,01%) chỉ có ở lá trà. Ngoài nhóm xanthin,
còn có adenin, (aminopurin), guanin (aminohydro purin), xanthin (dihydro
purin), .... đều dưới 0,01%. Cafein được chiết xuất từ
năm 1820 từ hột cà phê (chứ đựng 1-2%) và qua năm 1885 được
nhà hóa học Fisher nhân tạo tổng hợp. Cả ba xanthin đều
dược xem như là những chất kích thích hệ thần kinh. Tác
dụng của cafein mạnh nhất : nâng cao hoạt động não, tăng
gia ứng lực trí tuệ, nhưng thời gian hưng phấn thường có
kèm theo một trạng thái suy thoái.
Dùng
ít, cafein có tính chất hạ huyết áp, dùng nhiều thì tác
dụng ngược lại. Trong hệ thống tim mạch, theophyllin hiệu
nghiệm nhất : tăng gia biên độ tần số tim đập và tác
dnụg lên sợi tim. Dùng nhiều, nó có thể thúc tim đập lanh.
Đằng khác, có tính chất thã duỗi sợi cơ trơn nên nó được
dùng để chữa bệnh suyễn cũng như các chứng thông khí kinh
niên, để tháo giải co thắt phế quản, đồng thời cải
tiến sự tuần hoàn động mạch vành. Cả hai theobromin và
theophyllin đều có tác dụng lợi tiểu lớn. Ba chất xanthin
đều không độc dù dùng liều lượng lớn. Tuy vậy, chúng
có khả năng gây nôn mửa vì kích thích niêm mạc dạ dày
và nhất là gây mất ngủ. Chúng không gây ra thói quen, nhất
là cafein, thiếu thì sinh ra bực dọc, bồn chồn, nếu không
là bị kích thích, nổi cáu. Vì vậy ngày nay có bán nhiều
loại trà bột, khuấy nước uống liền, được khử cafein
hoặc bằng phương pháp tinh lọc, hoặc bằng chiết xuất với
dung dịch hữu cơ hay, theo số lớn những văn bằng sáng chế,
với thán khí tới hạn (super critic carbonic gaz).
Người
Âu Mỹ thường uống trà với đường. Thật ra trong trà đã
có fructose, glucose, arabinose, sucrose, maltose, raffinose, stachyose
(từ 0,1 đến 0,7 %) dưới thể tự do hay kết thành glycosid
với rhamnose, galactose, xylose, galacturonic, mannuronic acid. Ít được
biết là sinh tố trong trà. Bên cạnh các vitamin C, E, cả một
loạt vitamin B đã được xác định : B1, B2,
B3, B5, B8, (tức H), B9 (vài
mg% mỗi thứ) nên trà đã được dùng làm thuốc bổ sức,
trương lực. Một tính chất rất quang trọng của trà là nó
có khả năng chống oxi hóa nhờ những chất như ascorbic acid,
tocopherol và nhất là những polyphenol, đặc biệt những catechin.
Một văn bằng dùng nước chiết xuất rồi phân tích qua máy
sắc ký lỏng cao áp đã xác định được phân suất các catechin
ấy : trong 12g trà chiết có EC (rất ít), GC (0,85), EGC(1,44),
ECG (1,24), EGCG (4,87g) *. Tác dụng chống oxi hóa tăng theo thứ
tự EC<ECG<EGC<EGCG.
Tính
chất dược liệu của trà được thấy rõ ràng nhất là diệt
khuẩn đủ loại, một số gây bệnh trong rau, trái, thức ăn
: những Agrobacterium, Bacillus, Clitidium, Clostridium, Escherichia,
Plassiomonas, Porphyromonas, Pseudomonas, Salmonella, Staphylococcus, Vibrio,…Nhờ
vậy, trà chiết được dùng làm thuốc khử nấm *, chữa dị
ứng *, chống đau *, trị viêm *, làm bánh chống tinh thần
bại hoại *, chữa các chứng dương liễu *, tẩm khăn khử
trùng *, khử độc những trùng Vibrio paraha emolyticus, V. cholerae
*
hay Clostridium botulinum *. Trà chiết chứa đựng polyphenol
được dùng để chống những loại trùng như Staphylococcus
aureus, Clostridium botulinum kháng cự lại methycillin *, có
khi đồng vận với bêta-lactam. Bên phần thảo mộc, polyphenol
xúc tiến cây cỏ chóng mọc *, xua đẩy tạp trùng *, chống
bệnh trùng cầu *, với liều lượng rất nhỏ <100ppm *.
Saponin * cũng như polyphenol còn có tác dụng lên các virus gây
cúm *, ỉa chảy *, viêm vị tràng *.
Khử
hơi mồm, thơm hơi thở
Trong
số các vi khuẩn bị polyphenol diệt có những loại Streptoccocus
mutans là sâu răng, Bacteroides gingigalis gây bệnh tạo
keo, Porphyromonas gingivalis gây viêm khớp răng. Polyphenol
còn tác dụng lên enzym chuyển đường glucotransferase, tăng
sức chống đở acid của men răng đồng thời chống sự cấu
tạo mảng răng. Vì vậy trà chiết đã được cho vào thuốc
đánh răng *, chống mảng răng *, hay vào các hỗn hợp làm
nước súc miệng ngừa sâu răng *, chữa răng hư *, chống viêm
khớp răng *, khử hơi mồm, thơm hơi thở *, có khi cho ngay
vào thức ăn để phòng ngừa răng hư *. Polyphenol cũng như
saponin có tính chất chống dị ứng, ức chế hyaluronidase,
phản vệ trên da, phóng thích histamin trên tế bào màng ngoài
bụng chuột.
Đi
vào trong máu, polyphenol, nhất là EGCG cũng như theaflavin galat,
flavol, flavonol, saponin có tính chất chống đông tụ, ức chế
sự kết tụ tiểu cầu * do collagen *, adrenalin hay arachidonic
acid * gây ra. Tiềm lực EGC có thể so sánh với tác dụng của
aspirin, còn saponin thì có hiệu lực từ 50mg/kg, kết quả giữa
2 và 24 giờ. Bên phần huyết áp, polyphenol cùng saponin, apigenin,
camellianin có khả năng giảm hạ *, đồng thời ảnh hưởng
lên cuộc chuyển hóa lipid khi thử trên chuột. Những catechin,
polysaccharid, diphenylamin thì lại giảm hạ cholesterol ở dịch
tương. Polysaccharid, trọng lượng phân tử giữa 20.000 và 200.000,
gồm có ribose, arabinose, glucose được phân tách qua phương
pháp sắc ký *. Những catechin như C, ECG, EGCG được cho vào
thức ăn, nước uống hay thuốc men *, có thể trộn thêm với
linolenic và eicosapentaenoic acid *. Polyphenol, polysaccharid còn có
tính chất ức chế những enzym loại amylase, lipase *, ức chế
tinh bột thoái hóa ra đường *, từ đấy có khả năng điều
hòa đường trong máu *, chống béo *, phòng ngừa bệnh đái
đường *. Một hỗn hợp tan>in-kim loại cũng đã được chế
tạo và đem thử chữa bệnh đái đường trên chuột *.
Một
tính chất dược liệu vô cùng quan trọng nữa của trà chiết
là khả năng chống lại ung thư, nhờ những flavanoid như quercetin,
kaempferol, myricetin, các chất thơm như nerolidol, ionon, cadinon,
carophyllin, các polyphenol *. Nhiều cơ quan trong cơ thể súc vật
và người đã được đem thử nghiệm : u khối đã được
hoặc tia tử ngoại mặt trời, tia phóng xạ xuất phát từ
các cuộc chữa bệnh hoặc các hoá chất gây ra. Trong số nầy,
đứng hàng đầu là benzopyren đã có sẵn trong trà tuy rất
ít trong trà khô (51,5-70,7 µg/kg), còn ít hơn trong nước trà
(<0,01 microg/l). Ngoài ra còn có chất độc đủ loại, đáng
kể là aflatoxin B1, các chất amin (nitroso methyl, nitroso
methyl benzyl, nitroso diethyl), dimethyl hydrazin, methyl dinitro guanidin,…
Kết quả là trà chiết đã ức chế được cuộc phát triển
ung thư ở da, phổi**, thực quản, dạ dày, ruột tá, ruột
kết,… Song song với một cuộc khảo cứu về dịch tể học
dễ thực hiện ở vùng có nhiều người uống nước trà,
dùng trà chữa bệnh còn cống hiến nhiều tiện lợi : an toàn,
không độc, rẻ tiền, dễ chế biến… Trong lãnh vực nầy,
tuy còn ít, đã thấy vài văn bằng sáng chế * dùng nước
* và dung dịch hữu cơ chiết xuất *, tinh lọc các hoạt chất
qua lignocellulose gỗ * gồm có theaflavin, theaflavin monogalat, theaflavin
digalat và các catechin galat vì thấy ra hoạt động mạnh lớn
của polyphenol là do nhóm galat mà lại.
Bên
ta có thường lệ đi đôi mời uống trà, hút thuốc lá, có
thể hiểu như không phải là một chuyện tình cờ. Trong thuốc
lá đặc biệt có methyl nitroso amino pyridyl butanon là một chất
có khả năng gây ung thư ở phổi mà trà lại có tính chất
khử được chất độc nầy. Vì vật có văn bằng cho trộn
trà * hay cafein * vào thuốc lá. Khói thuốc cũng độc vì có
tác dụng oxi hóa trong microsom gan, tế bào phổi, tăng gia tính
lưu tế bào phổi. Polyphenol trong trà cũng chống được phản
ứng nầy nhờ có khả năng ức chế cấu tạo gốc lipid. Bên
cạnh ung thư cũng thấy có vài bản báo cáo dùng polyphenol
hay những chất camelliatanin ngăn cản cuộc sinh sản VIH trong
bạch huyết bào.
Bên
lề dược phẩm, trà còn được dùng để làm thuốc khử
mùi * phun trong phòng *, giữ được lâu trong bếp *, phòng vệ
sinh *, khử mùi tỏi, mùi thuốc lá *, mùi thối các chất có
lưu huỳnh, ammoniac, amin *, formaldehyd *, làm thơm nước *, dung
dịch hữu cơ dầu đốt *, thuốc chùi nhà *, thuốc tẩy da
* dùng cho con trẻ, thuốc nhuộm đồ ăn. Cùng trong lãnh
vực, trà được dùng trong các thuốc gội đầu *, chống ngứa,
kích thích tóc mọc, phòng ngừa tóc bạc *, thuốc nhuộm tóc
râm, thay sắc bạc *, thuốc tắm *, thêm enzym loại pectinase,
hemicellulase, amylase chữa viêm da *, xà phòng rữa sạch mùi
cá *, chất tẩy vật liệu bằng gỗ, da, đồ gốm, chất dẻo
*. Hơn nữa, nhờ khả năng trừ khử những gốc tự do tác
hại lên tế bào làm cho cơ thể mau hư, chóng già, trà được
dùng trong các mỹ phẩm bảo vệ da **, chống các tia tử ngoại
mặt trời *, các gốc tự do *, thêm vitamin E * ức chế tia
tử ngoại oxi hóa dầu mỡ *, ức chế tyrosnase * của collagen
*, bảo vệ mỹ phẩm *, thêm vitamin C làm ổn định dược
phẩm * giữ lâu không hư màu sắc, tính chất * ....
Mấy
ai trong chúng ta ngày nay uống trà mà ý thức được những
ứng dụng phong phú và lợi ích của một loại cây thường
thấy trong vưòn, một thức uống biết bao bình dân ở nước
ta cũng như ỏ một phần lớn các nước châu Á. Các cụ ngày
xưa chắc còn kém ta hơn ta trong kiến thức khoa học về cây
trà, lá trà, nhưng các cụ lại biết hơn ta nhiều trong cách
thưởng thức trà. Có ai chịu khó sai người nhà đi xa để
xin cho được chút nước giếng chùa về pha nước ? "Biết
đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế
giới ba nghìn, sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt
của một ông già năng lên chùa xin nước ngọt về để uống
trà tàu. Mô Phật ! " (Nguyễn Tuân, Những chiếc ấm đất
trong Vang bóng một thời). Mà không phải chỉ vào lúc
trà dư tửu hậu !
Thông
tin khoa học và Công nghệ 1(27) 2000,
vietsciences
Tết Bính Tuất 2006
Tham
khảo
Tài
liệu khảo cúu về cây chè, lá chè về mặt phân tích, cấu
tạo các thành phần cũng như bên phía tính chất, ứng dụng
trong dược liệu, mỹ phẩm rất phong phú. Trong số hàng ngàn
bài bao, 500 bản bảo cáo đã được sử dụng làm căn bản
cho bài viết thô sơ nầy, trong số ấy dấu (*) trong bài dẫn
100 văn bằng sáng chế tiêu biểu trong lĩnh vực ứng dụng
: bổ sức, tương lực (4), diệt khuẩn, khử trùng (21), đánh
răng, súc miệng (14), chống béo, đái đường (11), ung thư,
u khối (6), trà trộn thuốc lá (3), gội đầu, nhuộm tóc (25),
mỹ phẩm, chống già (16). |