Canh
rau cũng thể canh rau,
Để
ai cậy thế ỷ giàu mặc ai.
Ca
dao
Trong
bữa cơm của ta, bát canh rau không những ngon miệng mà còn
là cần thiết. Mùa hè trời nóng, món canh chua lại càng được
chờ đợi, thưởng thức. Trong Nam, thường bạc hà được
dùng để thêm vị chua. Ở Huế, me đất là rau vừa dễ tìm
vừa đem lại khẩu vị thích hợp. Cũng như mọi nhà nội
trợ đảm đang khác, vào mùa xuân cũng như mùa hè, khi gấp
gáp, đi ra vườn vài phút là mạ tôi hái đủ lá me để dùng.
Cô Hoàng thị Kim Cúc đề nghị món canh cá cơm nấu me đất
vào thực đơn mùa xuân : "Cá cơm rửa sạch, xé hai con cá,
lấy tay tước xương và đầu vứt đi, rửa lại nước muối
cho cá cứng, vớt ra, dầm cá vào hành giã nhỏ, tiêu, nước
mắm, ớt trộn lại để đó. Nấu nửa soong nước sôi, đổ
cá vào nấu, nếu có tôm xào thêm càng ngon. Sôi vài lần cá
chín, nhắc xuống bỏ me đất lặt rửa sạch vào, thêm lá
hành ngò xắt nhỏ". Cô cũng chỉ cách nấu me đất với tép
: "Đổ mỡ quánh để nóng ; bỏ hành giã nhỏ xào chín, cho
tép, ớt, tiêu, muối, nước mắm vào xào. Tép thấm, đổ
một bát nước nấu sôi, nếm vừa, nhắc xuống, bỏ me đất
lặt rửa sạch vào, trộn me cho chín đều" (1).
Ấn
tượng bát canh me đất tồn tại lâu dài trong trí óc người
Huế sống xa quê. "Chan nước canh me chua vào cơm, bỏ thêm
một nhúm rau sống tươi xanh, va vào miệng, chưa chi các hạch
nước miếng đều đổ ra, có thể mọi sự phiền não, chán
nản trên đời đều tan biết trên bát canh độc đáo đó"
(2a).
Làm sao quên được cảnh tượng gia đình cả thời tuổi trẻ
: "Đứa nào cũng thử chan vào cơm và húp canh. Lũ nhỏ thì
chê chua đắng. Tôi lớn hơn mấy tuổi, bắt đầu biết thưởng
thức mấy món cay nên thấy hay hay. Chan thêm canh và rắc thêm
một ít khuyết lùa cơm vào miệng. Ôi thấm thía ! .... Có
lần mẹ tôi đố các con :
Xăm
xăm cầm búa nhìn quanh
Thợ
rèn thợ bạc thảy đành ngồi không.
Là
cây gì ? - Cây me đất (vì mất đe là me đất) " (2b).
Me
đất thường dùng là chua me đất hoa vàng hay tím lạt, thường
gặp ở những nơi ẩm ướt, bờ ruộng, đồng cỏ hoang. Nó
là một loại cỏ mọc lan bò trên mặt đất, thân đỏ nhạt,
lá cuống dài, gồm ba lá chét, mỗi lá chét có một vết hõm
trên đầu thành hình tim ngược. Hoa mọc thành tán, cuống
gầy, nhị hai vòng, nở vào các tháng 5-7. Tên khoa học của
nó là Oxalis corniculata L. hay O. repens Thunb., thuộc
họ Chua me đất Oxalidaceae như cây khế. Tên thông thường
là me đất, chua me đất, chua me hoa vàng, trong Nam có tên chua
me ba chìa (LQN-TNñ), người Tày gọi sỏm hèn, người Nam Dương
semanggi. Từ Trung Hoa có thêm những tên thố tương thảo, toan
tương thảo, tạc tương thảo, toan vị thảo, toan vị vị,
tam diệp toan. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ (PHH) phân biệt me đất
nhỏ O. corniculata L. me đất hường là O. corymbosa D.C.,
me đất đỏ O. deppel, me đất chua O. acetosella).
Cây me còn mang tên O. martiana Zucc., một loại cỏ không
có thân, lá ở gốc, hoa màu hồng nên còn được gọi hồng
hoa tạc tương thảo. Cũng có hoa cùng màu hồng là cây chua
me đất đỏ O. deppei Sw., còn gọi rau bợ, thân ngầm,
lá chét hình tím ngược, hoa năm cánh, nhị hai vành, mọc hoang
dại. Ngoài ra có một loại cỏ mọc ở vùng khí hậu mát
như Sapa, Hoàng Liên Sơn gọi là chua me núi O. acetosella
L. (tức la me đất chua) hay sơn tạc tương thảo, không có
thân, lá kép, hoa trắng hay hồng. Có bản báo cáo ghi tên chua
me đất nầy là wood sorrel (15). Ở báo chí khoa học,
cây rau sorrel (hay surelle, oseille, rau chút chít) thường được
khảo cứu về dung lượng kim loại trong cuộc tìm hiểu và
đo lường ô nhiễm môi trường. Giáo sư Đỗ Tất Lợi (ñTL)
còn có ghi cây chua me đất hoa vàng O. corniculata L. khác
với chua me hoa đỏ O. corymbosa, tức là me đất hường,
cũng cùng họ Chua me đất, thân cao hơn, nhiều lá dài, hoa
màu vàng, có vị chua mát, thường được nấu với rau muống.
Rau
có vị chua vì thân và lá chứa đựng vài acid hữu cơ. Sắc
ký giấy cho phát hiện tartric acid và chút ít citric acid trong
lá me đất (4), ascorbic acid tức vitamin C bên cạnh
dehydroascorbic, pyruvic và glyoxalic acid trong me núi (6).
Số lượng ascorbic acid được xác định qua phép so màu là
183 mg/100g trong me núi tươi (14). Trong toàn thân cây
me đất có một chất bảo vệ ascorbic acid khỏi bị oxi hóa
(3).
Chất phylloquinon tức vitamin K1 đã được phát hiện
qua phép đo độ nhạy cảm so với 2,4-dichloro phenoxy acetic acid
(15).
Một phần oxalic acid trong me đất (7,0%) hiện diện ở thể
hòa tan (4,0%) (5). Những flavonoid như vitexin, isovitexin
có mặt trong me đất (8). Dùng hexan chiết xuất, người
ta đã phát hiện được octacosanal và sitosterol (12)
trong toàn thân cây. Trong số 17 hoá chất tách từ me đất,
heptanal-2, pentylfuran-2, phytol-tetramethyl-3,7,11,15 hexadecenol-2 đã
được xác định (9). Phytol có tác dụng ức chế
enzym lipoxygenase đậu nành với chỉ số IC50 ở nồng
độ 0,22 microM (11). Những lipid (1,47%) chiết xuất
từ lá me đất với một hỗn hợp CHCl3-MeOH phân
tích qua cột sắc ký silicagel cho thấy gồm có phần lớn lipid
trung hòa cạnh những glycolipid và phospholipid (10).
Về mặt kim loại và khoáng chất, me núi chứ đựng Ca, Mg,
Na (16), còn vỏ tế bào me đất qua kính hiển vi điện
tử cho thấy khối ferritin là nguồn sắt ở phôi cây (7).
Theo
Đông y, chua me có tính chất chua (toan), lạnh (hàn), thường
được dùng làm thuốc thanh nhiệt, khát nước, mát máu, an
thần, điều kinh, giảm huyết áp, thông tiểu tiện, chữa
sốt lỵ, cảm ho, viêm gan, viêm ruột, viêm niệu đạo, xích
bạch đới, suy nhược thần kinh, bệnh đường tiết niệu.
Thường khi khát nước, người ta lấy một nắm giã nát chế
nước nguội vào vắt lấy nước cốt uống. Chữa đại tiểu
tiện không thông thì hòa thêm một thìa đường vào nước
cốt. Để chữa hậu môn sưng đau hay lở nẻ, cho giã nhỏ
me đất với rau săm, bồ kết, nấu nước ngâm rửa. Bong gân
sưng đau thì giã me đất chưng nóng xoa bóp hay giã vắt lấy
nước dội vào. Ở Ấn Độ, Philippines, nhân dân dùng nó chữa
bệnh scorbut nhờ có ascorbic acid. Một phấn chiết me đất
có tính chất chống tăng đường huyết và chống tăng huyết
áp, được đề nghị cho vào thức ăn (13). Đằng
khác, một hỗn hợp gồm có oxalic acid rất hiệu nghiệm khi
đem khử các trùng Escherichia coli và Staphylococcus aureus
(20).
Oxalic
acid là một phân tử diacid (hai acid) nhỏ nhất HOCO-COOH (chỉ
có hai nguyên tố carbon), có phần độc, được nhà hóa học
kiêm dược sư Carl Wilhelm Scheele (1742-1786) người Thụy Điển
khám phá ra năm 1776. Nó hiện diện trong thiên nhiên ở thể
muối. Ở Pháp, kali oxalat được gọi là "muối chút chít"
(sel d'oseille). Còn calci oxalat không tan hòa trong nước thì cấu
thành những thể kết trong cây cỏ, những sỏi sạn trong cơ
thể. Vì vậy người có sỏi sạn trong bàng quang không nên
dùng me đất. Để chữa chứng thiếu máu vì thiếu sắt, người
ta dùng muối ferreux oxalat. Trong cơ thể sinh vật, khi oxalat
-OCO-COO- được enzym biến hóa ra format HOCO-
để cấu thành khí CO2 thì phát ra năng lượng cần
thiết cho những phản ứng khác.
Trong
kỹ nghệ, dựa lên tính chất có khả năng di chuyển những
ion kim loại và kiềm thổ (cấu thành oxalat), người ta dùng
oxalic acid để xử lý mặt kim loại, đánh sạch và mài nhẵn
cẩm thạch, tẩy trắng bột giấy, sợi vải, da thuộc, làm
thuốc cắn màu trong ngành nhuộm lông len. Nó cũng được dùng
trong việc chế tạo các chất trùng hợp hay các chất dẻo.
Trước kia, ở Âu châu, oxalic acid được chiết xuất từ me
núi. Ngày nay, nó được nhân tạo tổng hợp bằng phương
pháp oxi hóa với nitric acid những carbohydrat lấy từ bắp (Hoa
Kỳ), đường (Ấn Độ), sắn (Brazyl) hay những olefin như propylen
(Pháp), ethylen glycol (Nhật Bản). Trong dân gian, lá me đất
thường được dùng để đánh bóng đồ đồng. Ở kỹ nghệ,
lá me đất hay phần chiết được pha lẫn với nhiều chất
khác chiết xuất từ thực vật như nhựa thông, hạt dẻ hay
nguồn gốc khoáng vật như monmorilonit, vermiculit để tẩm thấm
những lớp nền xốp màng lọc có khả năng ngăn chặn methylamin,
methanthiol (17), hay những chất có mùi đạm như ammoniac,
ngay cả mùi khói thuốc lá (19). Nói chung vận dụng
áp suất thấm lọc một màng lọc tẩm me đất, người ta
có thể phân ly nhiều chất lỏng hay hơi khí như ammoniac, đạm
khí từ khí trời, hay khinh khí từ hỗn hợp khí phát xuất
trong phản ứng khử lưu huỳnh (18). Loại màng lọc
nầy rất hiện đại và rồi đây sẽ phát triển mạnh.
Nhân
đi dạo miền nam nước Pháp, một hôm lang thang trên một sườn
núi vùng Haute Provence, tôi gặp một cụ già lom khom đi tìm
nhặt một cây rau có ba lá chét hình tim ngược như me đất,
gọi là anémone hépatique, không phải để nấu canh chua
vì trong thực đơn Pháp không có canh. Trả lời câu hỏi của
tôi, ông bảo mỗi buổi sáng, thay vì uống cà phê, ông sắc
uống rau nầy thì thấy con người thư thái ra. Tuy nhiên cây
rau nầy không được phổ biến rộng rãi như me đất của
ta. Trong ký ức người Huế, me đất là cả một kỷ niệm
êm đềm. Vừa là món ăn quen thuộc, nó lại hiến một cảnh
tượng quê nhà khó quên : "Lá me đất màu xanh lục gồm có
ba cánh hình trái tim, xếp châu đuôi lại với nhau rất đều
đặn. Tôi nhớ hồi còn bé, chúng tôi nhổ những cọng rau
me đất nầy, cầm trong hai ngón tay, xoay xoay như những chiếc
dù xanh tí hon. Bây giờ tôi lại phát hiện thêm hoa me đất
rất đẹp. Màu hoa hồng tươi năm cánh, ở giữa là nhị vàng
cam. Hoa nở rộ lên khi ánh nắng chan hòa trong vườn. Búp hoa
hình bình hoa, máu trắng ngà, khi hàm tiếu chúm chím mà tím
hồng ở giữa và khi nở ra, màu tím hồng tươi của hoa xen
lẫn giữa những đám lá màu xanh lục trông thật đẹp" (1).
Nghiên
cứu và Phát triển 3(37) 2002,
vietsciences
12.2006
Tham
khảo
1-Hoàng
Thị Kim Cúc, Nghệ thuậ nấu món ăn Huế, nxb ,Đà Nẵng
(1996) 31-32, 40-41
2a-
Phong Sơn, Bát canh me đất, trong Hương Sen Huế - Nhớ
Huế 6, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 67-68
2b-
Trương Văn Ngọc, Bát canh me đất, trong Người Huế
- Nhớ Huế 7, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000)
126-127
Oxalis
corniculata
3-
K. Ishimaru, Distribution of scorbic acid oxidase in plants, Shokuyô
no Kagaku 1 (1946) 77-8
4-
V.S. Govindarajan, M. Sreenivasaya, Papyrographic micromethod for the
study of organic acids in plants, Current Sci. (India) 20
(1951) 43-4
5-
R.H. Mathams, A.K. Sutherland , The oxalat content of some Queensland
pasture plants, Queensland J. Agr. Sci. 9 (1952) 317-34
6-
K.K. Patnaik, N. Samal, Identification of keto acids in three different
species of Oxalis, Pharmazie 30(3) (1975) 194
7-
Ferritin
in the integumentary cells of Oxalis corniculata, P.Gori,
J. Ultrastrut.
Res. 60(1) (1977) 95-8
8-
R. Gunasegaran, Flavonoids and anthocyanins of three Oxalidaceae,
Fitoterapia63(1)
(1992) 89-90
9-
B.B. Lin, Y.S. Lin, K.J. Chen, F.C. Chen, Constituents of Oxalis corniculata
L., Zhonghua Yaoxue Zazhi 44(3) (1992) 265-7
10-
R. Sridhar, G. Lakshminarayana, Lipid classes, fatty acids, and tocopherols
of leaves of six edible plant species, J. Agric. Food Chem.
41(1)
(1993) 61-3
11-
B.B. Lin, Y.S. Lin, Selective inhibition activity on 15-lipoxygenase
of trans-phytol isolated from Oxalis corniculata L., Chem. Express8(1)
(1993) 21-4
12-
M.U. Ahmad, M.A. Hai, M. Sayeduzzaman, T.W. Sam, Chemical constituents
of Oxalis corniculata Linn., J. Bangladesh Chem. Soc. 9(1)
(1996) 13-7
13-
Y. Kamata, T. Toyokawa, M. Teruya, T. Ichiba, K. Kuniyoshi, Antihyperglycemia
and antihypertensive agents containing Okinawan plant products, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 200220821 (2004) 19tr.
Oxalis
acetosella
14-
E. Jorma, The colorimetric determination of vitamin C with 2,6-dichlorophenolindophenol,
Suomen
Kemistilehti 19A (1946) 21-5
15-
O.Jansson, Phylloquinone (vitamin K1) levels in leaves
plant species differing in susceptibility to 2,4-dichlorophenoxyacetic
acid, Physiol. Plant. 31(4) (1974) 323-5
16-
J. Bednarova, V. Bednar, Calcium, magnesium and sodium levels in the
above ground biomass of some plant populations from the Tatra National
Park, Acta Univ. Palacki Normuc. Fac. Rerum Nat. 63(Biol.19)
(1979) 71-80
Công
dụng
17-
M. Mizobuchi, Y. Saihara, H. Date, Deodorants for air conditioning,
Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 88 42857 (1989) 5tr.
18-
M.J. Campbell, Process for flow control using permeable wood sorrel
membranes, Braz. Pedido PI BR 88 04,223 (1980) 30tr.
19-
Y.Saihara, H. Date, T. Yamauchi, Deodorizing filters, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 62 45312 (1987) 4tr.
20-
M.A. Chernyavskaya, A.S. Belova, Antibacterial mechanism of hydrogen
peroxide preparations, Z. Gesamte Hyg. Ihre Grenzgeb. 36(2)
(1990) 86-8
|