Ghét
cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận
chùm mây nối khuất vành trăng.
Ưng
Bình Thúc Giạ Thị
Tục
truyền vào thế kỷ XII, thời nhà Lý, sư ông Khổng Minh Không
một hôm gánh bèo dâu đi ngang qua sông Hồng vô ý đánh rơi
mấy bó. Những dân quanh vùng, ở các làng Búng, Bích Du, La
Vân, tỉnh Thái Bình, ngày nay được xem như là "quê hương"
bèo dâu, lượm về đem trồng làm phân bón ruộng, kết quả
vô cùng mỹ mãn. Nhớ ơn nhà sư, từ thế kỷ XVII họ lập
đền thờ phụng, ngày nay ở làng La Vân vẫn còn (7).
Họ còn bán bèo qua các làng lân cận. Thấy vậy nhiều làng
khác cũng muốn sản xuất nhưng không làm được. Có người
nông dân cuốc bộ hơn trăm cây số để mua cho được một
bó. Chủ nhân một nguồn lợi tức đem lại khá nhiều tiền,
dân các làng may mắn nầy kiếm đủ mọi cách để giữ độc
quyền. Các cô gái làng khác về làm dâu phải thề không tiết
lộ cho bất cứ ai biết bí mật nuôi trồng. Còn các cô gái
trong làng, nay mai sẽ đi làm dâu làng khác, thì không được
phép biết một chút gì về kỹ thuật sản xuất. Hơn nữa,
để tránh mọi hớ hên, hở chuyện, họ còn đặt bày ra một
thần bèo rất nghiêm khắc, có quyền lực vật chết bất
cứ ai tiết lộ bí mật nuôi trồng bèo (5).
Tuy
nhiên, bí mật có giữ kín bao nhiêu rồi cũng có ngày bị
phát giác. Câu chuyện bắt đầu với một sinh viên nông học
trẻ tuổi, anh Nguyễn Công Tiễu, quê người Hưng Yên, cạnh
Thái Bình. Năm 1921, anh lấy bèo dâu làm đề tài khảo cứu.
Mất nhiều công của, thì giờ, cuối cùng anh biết được
nguyên tắc phân bón của bèo dâu và qua năm 1929, đem trình
bày kết quả ở Hội nghị Khoa học lần thứ 4 vùng Thái
Bình Dương ở Java. Hơn nữa, như là phần thưởng dành cho
người có chí, một nông dân làng La Vân, nơi có tiếng giữ
gìn kín đáo bí mật nhất, lại kể cho anh nghe những chi tiết
kỹ thuật nuôi trồng bèo dâu. Anh liền cho đăng ngay trên
báo Khoa học (số 32,1932). Sách báo của nhà khoa học
Nguyễn Công Tiễu (1) trên những đề tài dân dụng
như dầu cà cuống, bèo hoa dâu ngày nay đã được phổ biến
(5).
Cộng
sinh bèo dâu-rong lam
Qua
Nguyễn Công Tiễu, người ta biết được bèo dâu làm phân
bón ruộng tốt nhờ khả năng cố định chất đạm N2
mà tính chất nầy lại do một vi khuẩn sống cộng sinh với
nó thực hiện. Cộng sinh (symbiose, ghép hai danh từ Hy
Lạp sun : với, bios : sống) là trạng thái hai sinh
vật khác loại sống kết hợp chặt chẽ và thăng bằng với
nhau để đôi bên đều có lợi. Trong trường hợp nầy, rong
đem lại chất đạm cho bèo, trái lại bèo cung cấp chất dinh
dưỡng nhu glucid cho rong. Nhỏ li ti, trông giống hoa cây dâu,
lá kết với nhau trên mặt nước thành hình tam giác, bèo hoa
dâu hay bèo dâu Azolla pinnata R. Brown gồm có hai chi A.
pinnata imbricata và A. pinnata pinnata. Thuộc họ Bèo
tai chuột Salviniaceae (Tự điển Larousse) hay họ Bèo dâu
Azollaceae
(theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ), nó là loại bèo được khảo
cứu nhiều nhất trong những Azolla được biết : A.
africana, A. anabaena, A. caroliniana, A. filiculoides, A. imbricata, A.
japonica, A. mexicana, A. mycrophylla, A. nilotica, A. rubra. Công
lao của bèo là mang trong cục bướu ở rễ một loại rong
lam (algue bleu-vert) nửa vi khuẩn nửa thực vật, gọi
là Anabaena azollae Strasb., vi khuẩn vì cấu trúc, thực
vật vì có khả năng quang học tổng hợp. Trong số hơn ba
chục Anabaena thường được miêu tả, A. variabilis
là
loại được khảo cứu tường tận nhất.
Rong
lam có khả năng cố định đạm khí, chế tạo protein từ
khí quyển, quang hợp thán khí CO2 và nước ra glucid.
Dưới hình thức những sợi nhỏ, dài, quấn quít nhau, nó
là một dãy tế bào cá thể nằm trong một cái bao mỏng, xung
quanh bao bọc một lớp chất nhầy. Xen lẫn trong dãy nầy,
ở những khoảng cách đồng đều, là những tế bào có bao
tương đối dày hơn, gọi là những dị bóng (heterocyste).
Chính ở trong các dị bóng nầy mà nhiệm vụ cố định đạm
khí được thực hiện. Nhờ những dẫn xuất của cuộc chuyển
hóa các glucid như pyruvat, isocitrat, glucose-6-phosphat, .... rong
lam có đủ khinh khí H2 để chợp lấy đạm khí N2
ở thể tự do làm thành khí ammoniac NH3 qua các tác
dụng của một enzym gọi là nitrogenase. Ở ngay trong dị bóng,
khí ammoniac được biến hóa thành glutamin để chuyển qua các
tế bào thực vật dưới dạng glutamat và amin acid (6).
Một điều đáng chú ý là rong lam không thể nuôi trồng ở
thể tự do. Nhiều phòng thí nghiệm đã thành công tách chiết
nhiều mẫu từ bèo dâu tán nghiền nhưng không có mẫu nào
thực hiện được công cuộc cộng sinh. Giả thuyết được
nghĩ đến là mỗi khi ra khỏi môi trường đặc biệt trong
lòng bèo dâu, rong lam mất hết những tính chất cộng sinh
(9).
Nói một cách khác, rong lam chỉ đạt đuợc những tính chất
ấy một khi xâm nhập vào lòng bèo dâu.
Hai
câu hỏi làm bận lòng các nhà khảo cứu : Tại sao những
vi khuẩn chỉ cộng sinh với một loại cây nào đó thôi ?
Khảo xét cặp Rhizobium-rau đậu, họ nhận ra một tác
động qua lại giữa những glycoprotein phát tiết từ các rễ
rau đậu và những polysaccharid màng vi khuẩn. Chắc chắn những
polysaccharid ở Rhizobium tự do trong chất thừa nhận những
glycoprotein ấy (gọi là lectin) tuy người ta chưa biết cơ chế
rõ ràng. Hướng khảo cứu những năm gần đây là cặp đôi
những vi khuẩn và rau đậu hay cây cối trong thiên nhiên chưa
hề cộng sinh với nhau. Câu hỏi thứ nhì là nitrogenase ở
Rhizobium
chẳng
hạn chỉ vận dụng ở môi trường nồng độ dưỡng khí
CO2 kém, làm sao có tác động trong bướu ấy là nơi
tiêu thụ nhiều dưỡng khi ? Người ta có thể giải thích
sự kiện kỳ lạ nầy khi tìm ra được trong bướu một hóa
chất có nhiệm vụ đem dưỡng khí lại cho vi khuẩn đồng
thời điều hòa dưỡng khí làm sao cho có áp lực nhỏ trong
bướu. Vì cấu trúc và nhiệm vụ gần giống huyết bào tố
trong máu, người ta gọi nó là leghemoglobin (leg như légumineuse,
rau đậu). Cũng mang nguyên tố Fe trong mình như hemoglobin, nó
nhuộm bướu màu hồng đỏ, nhưng cấu trúc khác nhau tùy loại
rau đậu (8).
Cuộc
cộng sinh thao diễn theo chu kỳ phát triển bèo dâu và rong
lam. Khi lá bèo còn non, ở đỉnh lá đã thấy lơ thơ vài sợi
rong tí hon nằm cạnh, chưa có dị bóng. Khi lá bèo lớn dần
lên, những hốc nhỏ cũng dần dần được tạo ra trong lá
để nắm giữ rong. Trong hốc, một số lông gồm có nhiều
tế bào nhỏ, gây nên một sự cọ xát liên gục giữa bèo
và rong. Những sợi rong cuốn lại thành cuộn, nhờ một màng
chất dính bao bọc bên ngoài, bám vào thành hốc. Dị bóng
thành hình, tăng số và lớn lên. Khi lá bèo đến độ trưởng
thành, dị bóng đạt 30% (sau cùng có thể lên đến 45%) những
tế bào ở sợi. Vào lúc nầy, rong lam chiếm toàn diện tích
hốc, nhưng cũng là lúc nó bắt đầu chấm dứt phận sự
tổng hợp quang học, không phát triển nữa và bước vào một
trạng thái im lìm, bất động cho đến ngày lá bèo vàng úa
rơi xuống đáy ruộng, thoái hoá, phân hủy để cống hiến
chất đạm cho cây lúa.
Trong
20 năm gần đây, giới khoa học chú trọng nhiều đến bèo
dâu và rong lam. Về măt cấu trúc, amin acid, protein (23)
đã được xác định trong bèo, lectin trong rong, trong bèo. Trong
số 18 amin acid tìm thấy, nhiều nhất là glutamic và aspartic
acid, theo sau là leucin, ít nhất là methionin, tryptophan và cystein
(19).
Các amin acid giảm hạ trong bóng tối và môi trường nitrat
NO3, tăng gia với ánh sáng và môi trường ammonium
NH4. Rong chứa đựng chất sắc phycocyanin (12),
allophycocyanin, phycoerythrocyanin (17,22) tương quan với
hoạt động cố định chất đạm, caroten một nguồn provitamin
A cho đồ ăn gia súc (27). Ngoài ra, bèo biết tổng
hợp gibberellin, cytokinin như isopentenyl adenin, isopentenyl adenosine,
cis- và trans-ribosyl zeatin, polyphenol, ferredoxin. Người ta biết
phân tử ferredoxin mang thêm nguyên tố Mo là một trong hai protein
cấu thành nitrogenase.
Từ
lâu, ngay cả trước lúc người ta hiểu biết cơ chế cố
định chất đạm, bèo dâu đã được dùng làm phân bón, nhưng
chỉ ở một địa hạt giới hạn là Đông Nam Á, vùng ruộng
lúa nước. Bên Trung Quốc, bèo dâu được trồng từ thế
kỷ 17, đặc biệt ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông. Ở
Việt Nam, người ta phỏng chừng bèo dâu đã có mặt từ nhiều
thế kỷ hay lâu hơn nữa nếu tin ở huyền thoại. Thường
người nông dân đi lượm bèo hoang ở ruộng, đem về trồng
trong các ao sâu không quá 1m, đã dọn sạch từ mùa xuân trước
và chứa toàn nước mưa. Các bờ ao phải được cào quét
mọi rác rưới, lắm lúc có hàng rào tre chống gió và ánh
nắng gao gắt mùa hạ. Mẫu bèo được ươm trong các khuôn
tre nhỏ, nới rộng dần theo cuộc sinh trưởng của bèo. Thường
bèo được nuôi với phân heo khô, tán bột, trộn với tro
rơm. Bèo lớn lên trong lúc người nông dân sửa soạn, cày
bừa ruộng. Cấy xong là bèo được thả vào ruộng. Bèo dâu
là một loại cây mảnh dẻ, phải thận trọng khi vận dụng
để khỏi nát và cũng không nên để khô héo ngoài nước.
Không được vứt nó xuống ruộng bừa bãi mà phải nghiêng
rổ trong nước rồi lấy tay khẻ quậy cho bèo nhẹ nhàng rời
rổ trôi vào ruộng (5).
Rong
lam cố định chất đạm
Có
nhiều cách rải bèo nhưng phương pháp chắc chắn nhất là
đặt nó ở trung tâm thửa ruộng, xung quanh dựng một cái
đê nhỏ làm bằng rạ trộn với đất để bèo khỏi phân
tán trước khi bám vào nước. Những đê nhỏ nầy, như khuôn
tre truớc đây trong ao, được nới dần theo mức bành trướng
của bèo. Ở Hải Dương, năm 1927, 120kg bèo (khoảng 6 triệu
cây) phủ kín sau 46 ngày một diện tích lớn gấp 250 lần
diện tích lúc đầu là 580 m2. Cuộc nảy nở theo
chiều ngang của bèo không quấy rầy chút nào sự phát triển
thẳng đứng của cây lúa. Trái lại, khi bao trùm mặt ruộng
một lớp dày, bèo ngăn cản nước bốc hơi, đỡ mất công
dẫn thủy nhập điền, đồng thời làm trở ngại việc phát
triển dòi muỗi cùng các loài tảo có hại, từ đấy đỡ
mất công nhặt tảo, diệt trùng. Cũng như ở mọi cuộc nuôi
trồng khác, ngoài chuyện bảo vệ lượng nước đầy đủ
(rễ bèo phải chạm đáy ruộng nhưng đừng quá nhiều để
khỏi vướng vào bùn), nhiệt độ vừa phải (trung bình giữa
16 và 22°), còn cần phải tiêu diệt các loài sâu bọ như
muỗi đỏ (chironome), bướm ống (pyrale), .... Ở
Thái Bình, vì thiếu những chất diệt trùng như DDT, sau khi
rải tro lên mặt bèo, người ta thường dùng lưới cho ngập
bèo xuống nước một đêm (5,6). Viện Sinh vật học
Tp Hồ Chí Minh kiếm cách dùng vi khuẩn sanh bệnh như Bacillus
thuringensis để khử trùng (4). Suốt mùa đông,
bèo tiếp tục sinh trưởng. Qua xuân, khi nhiệt độ lớn dần,
bèo đổi từ màu xanh qua hồng, xám, đen rồi thối nát, phân
tán dưới đáy ruộng thành phân, lúc bông lúa bắt đầu chớm
nở. Trung bình, năng suất lúa tăng 53% mỗi ha, 27% nhờ phân
chuồng, 26% nhờ bèo dâu. Tính trong một năm, bèo dâu cống
hiến 300-350 kg chất đạm / ha (6), hay mỗi ngày gần
1kg chất đạm / ha (2) tương đương với số lượng
chất đạm thu lượm được với các rau đậu khác như đậu
tằm, đậu răng ngựa. Một ưu điểm của bèo so với phân
chuồng là qua vụ sau, lúa còn được hưởng chất đạm còn
lại của cuộc cộng sinh.
Trong
những thập niên 60-70, phong trào làm bèo dâu ở Thái Bình,
phục vụ thâm canh năng suất lúa đã phát triển khá mạnh
: trên 70% diện tích lúa chiêm xuân, liên tục qua nhiều năm,
đều được phủ kín một lượt bèo, 100% riêng ở hai huyện
Hưng Hà và Đông Hưng, đặc biệt được phủ hai lượt bèo
ở hợp tác xã Vũ Thắng, lá cờ đầu về thâm canh tăng năng
suất lúa của tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, theo tác giả bài
báo (2) nhận thấy, nhìn chung phong trào sản xuất
bèo dâu các tỉnh miền Bắc nước ta tiến triển còn chậm
chạp, mặc dù bèo dâu là một giải pháp cần thiết trong
vụ sản xuất đông-xuân. Một bài tính dễ chứng minh : tỉnh
Thái Bình với 175.000 ha trồng lúa nước, nếu không có bèo
dâu thì hằng năm phải dùng ít nhất 2 triệu tấn phân chuồng,
tức phải có 2 triệu con lợn mà ở thời điểm nầy chỉ
đếm có 4 vạn con ! Trong nhiều chủ trương kỹ thuật đã
được đề nghị để đáp ứng những đặc tính sinh vật
của bèo dâu, đáng để ý là một lực lượng lao động chuyên
môn làm bèo vì thấy rõ bèo dâu làm dễ nhưng không phải
ai cũng làm được.
Đằng
khác, tuy tỉnh Thái Bình hồi đó đã có 9 trại chuyên môn
nhân giống bèo ở 7 huyện và 60 trại ở các vùng trong huyện,
miền Bắc vẫn thiếu một trại giống, ruộng giống chuyên,
lượng lao động chuyên, vật tư - kỹ thuật chuyên phục vụ
cho sản xuất bèo nên phong trào làm bèo dâu không khả quan.
Môt số kinh nghiệm kỹ thuật cũng đã được tổng kết và
nâng cao. Vụ tốt nhất của bèo dâu là tháng giêng, ít sâu
bệnh, nhưng cũng là tháng có nhiệt độ thấp nhất, cần
áp dụng hai biện pháp để khắc phục tình trạng : "đổ
ải đến đâu, thả bèo dâu đến đó", nhờ thế bèo dâu
có thể lợi dụng được chất màu dễ tiêu và một nhiệt
lượng lớn do đất ải tỏa ra ; dùng tro mộc rắc phủ kín
lên mặt bèo trong những ngày có sương muối và gió bấc mạnh
để tăng cường chống rét cho bèo (2). Ngoài ra, những
thời gian phơi ải, kế hoạch đổ ải, kỹ thuật nuôi bèo
cũng đã được học hỏi và áp dụng, góp phần nâng cao diện
tích bèo dâu toàn tỉnh. Sau nhiều năm, tiến bộ kỹ thuật
nầy có được áp dụng rộng rãi trong cả nước như mong
muốn chưa ? Vào lúc vấn đề môi trường sinh thái đang được
đặt ra khắp nơi, phải chăng nên nghĩ lại việc dùng bèo
dâu làm phân bón thay cho hóa chất.
Phân
xanh thay thế hóa chất
Trên
mặt đất, rong lam không phải độc nhất có khả năng cố
định đạm khí. Từ lâu, người ta đã biết hàng chục vi
khuẩn, nấm tia có tính chất ấy, sống một mình trong đất
hay cộng sinh với cây cỏ. Rhizobium là vi khuẩn thuộc
loại độc bào kết hợp với các cây rau đậu. Ở đậu nành,
vi khuẩn mang tên Rhizobium japonicum. Trong phòng thí nghiệm
Sinh hóa hữu cơ và Sinh học công nghệ ở Paris, một thời
chúng tôi đã bỏ công thử tổng hợp rhizobitoxin, một chất
phytotoxin thiên nhiên hiện diện rất ít trong bướu rẽ cây
đậu nành, có khả năng ức chế enzym cystathionase, mở đường
dẫn tới những chất kháng sinh, chống nấm, trị ung thư.
Bên cạnh Rhizobium, một vi khuẩn khác cũng đã được
nói đến là Frankia (8), hình sợi, thuộc loại
nấm tia, cộng sinh với những cây có hoa, trong những cục
bướu như Rhizoboium. Cách thức xâm nhập phát triển
của vi khuẩn nầy ở cây có phần khác hơn chút ít. Bên Rhizobium,
tế
bào vi khuẩn theo đường dây hình ống xâm nhập vỏ rễ cây,
dính vào các mô phân sinh của rễ, biến hoá cả về mặt
hình thái lẫn sinh lý thành một hình thể gọi là
bacteroid,
nơi diễn biến cuộc cố định chất đạm. Với Frankia,
vi khuẩn tiến vào vỏ rễ cây dưới hình thức những sợi,
có khi cấu tạo thành bọng, túi hình cầu hay hình trứng là
hình thể tương đương với bacteroid.
Đặc
sắc những bướu của Frankia là có thể xuất hiện
ở rễ cũng như ở thân, ở các rau đậu như Sesbania rostrata,
S. grandiflora (cây so đủa), Pueraria phaseoloides (loại
có củ lớn), Aechynomene afraspera phần lớn bên châu Phi,
cũng như trên các cây lớn loại phi lao như Casuarina rumphiane,
C. curinghaminane bên Senegal, C. esquisetifolia, cây dương
bên nước ta. Ông Hoàng Gia Diêm, nghiên cứu sư ở cơ quan
khảo cứu vi khuẩn Frankia chiết xuất từ bướu cây
C.
junghuniane gốc Thái Lan (8). Ngoài ra, các loại
Leucaena,
Acacia, Prosopsis, .... cũng đã được chú ý đến. Cuộc
cộng sinh Frankia - S. rostrata (9) cống hiến chất
đạm chỉ kém chút ít cặp A. pinnata - A. azollae, khoảng
50-150 kg / ha một mùa. Bên phần những cây phi lao Casuarina,
qua
lá rụng thành phân, trồng 3.000 cây / ha, mỗi năm cũng thu
lượm được 150-200 kg chất đạm. Chúng còn cống hiến một
lợi ích khác là làm màn chắn gió và gắn chặt cồn đồi
bị xói mòn. Ở Senegal, nhiều cồn biển đã được cây nầy
bảo vệ. Còn bên Trung Quốc, dọc một bờ biển dài 3.000
km, rộng 0,5-5 km, cây trồng đã chiếm một triệu ha cồn cát.
Nhiều phòng thí nghiệm, đặc biệt của cơ quan khảo cứu
Pháp ORSTOM bên châu Phi đang xúc tiến cuộc khảo cứu về
vi khuẩn Frankia (8).
Bên
phần bèo dâu thì cuộc khảo cứu cũng được mở rộng. Một
mặt, các cây Azolla khác được đem thử nghiệm : A.
caroliniana, A. filiculoides, A. mexicana,…thường được xem
như rau hoang vô dụng, có khi nguy hại, bây giờ được đem
ra thử không những với lúa mà còn với nhiều cây khác như
những khoai đậu (tarot) bên đạo Hawai chẳng hạn (6).
Mặt kia, nguời ta tìm những ứng dụng khác của bèo dâu và
rong lam. Vì chứa đựng protein trong lá, bèo dâu là một thức
ăn tốt cho cá (24), gà con (11,26), động
vật nhai lại (23). Đem ủ kị khí, bèo dâu cống
hiến khí methan (21,14). Sinh khí có thể đạt đến
189 l / kg và xác bèo dùng làm phân bón. Trong số kim loại có
mặt trong bèo, nếu Fe và Mn không có ảnh hưởng đáng kể,
Cd và Ni tăng gia năng suất khí khi nồng độ không quá cao,
Pb có tác dụng tai hại lên bèo ủ (28). Những nhà
khảo cứu Trung Quốc còn tìm ra vàng Aụ(III) trong nhân rong
lam (26). Bèo dâu là một nguyên liệu để sản xuất
quang học khinh khí, dưỡng khí và khí ethylen (25).
Khinh khí cũng có thể chế tạo từ bèo dâu qua một vi khuẩn
tách chiết từ rễ, Rhodopseudomonas, nuôi cấy trong khoai
tây (20). Bên phần rong lam, đem cố định trên polyvinyl,
polyurethan, hay alginat thì không những ổn định được tác
động nitrogenase mà còn tăng cường tốc độ cố định đạm
khí, tốc độ sản xuất khinh khí và khí ammoniac (13,15).
Rong lam tách chiết từ bèo còn có khả năng kết dính máu
nhờ các lectin nhưng tính chất nầy bị trypsin phá hủy và
cũng có thể bị fucose, rhamnose, fructose, galactose ức chế.
Năm
1980, trong chiếc tàu vũ trụ Soyouz 37, Phạm Tuân, nhà du hành
và nghiên cứu Việt Nam đến nay độc nhất, cùng Victor Gorbako,
bạn đồng hành Liên Xô, đem ra không gian một mớ bèo hoa
dâu trong số nhiều loại thực vật khác đã được chọn
lựa như chlorella, spirulin, lúa mì, bắp cải, cà chua,…theo
những tiêu chuẩn : có cường độ quang hợp cao để bảo
đảm nhu cầu khí của người, có hệ số trao đổ khí phù
hợp với hô hấp của người ; có năng suất cao, có khả
năng sinh trưởng và sinh sản nhanh ; có khối lượng cơ thể
bé để tránh gây mất cân bằng sinh thái lúc bị chết đi,
có bộ phận sử dụng làm thức ăn chiếm tỷ lệ lớn ; có
thành phần sinh hóa phù hợp với khẩu phần thức ăn của
người và không quá phức tạp về mức độ công nghệ chế
biến thức ăn ; và có khả năng thích nghi với điều kiện
sống trong con tàu vũ trụ, thích hợp với phương pháp trồng
trong vũ trụ như trồng trong nước theo phương pháp công nghiệp.
Song song với những mục tiêu khoa học, kinh tế, trong ấy tìm
cách thực hiện một hệ thống sinh thái hoàn toàn khép kín
trong môi trường nhân tạo của con tàu vũ trụ là một điểm
quan trọng, đem bèo dâu ra không gian trong tầm mắt các nhà
khoa học ta là một dịp thuận lợi để thu lượm các dòng
bèo có năng suất cao, cố định đạm tốt, chịu nhiệt độ
cao, chống chịu với sâu bệnh. Các nhà khảo cứu Việt Nam
chắc đang tiếp tục nghiên cứu về quang hợp, hô hấp, cố
định đạm, thành phần sinh hóa môi trường dinh dưỡng, hệ
vi sinh vật, siêu cấu trúc dưới kính hiển vi điện tử,
.... của bèo dâu (3). Sách, báo đã thấy xuất hiện
(14,18).
Như vậy ta cùng hòa mình với thế giới đang xúc tiến tìm
kiếm những phân xanh thay thế hóa chất trong một phong trào
lớn mạnh được mệnh danh "cuộc cách mạng xanh".
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 4(26) 1999,
vietsciences
11.2008
Tham
khảo
1-
Nguyễn Công Tiễu (theo thư tịch của Kim Phan) (5)
-
Bèo hoa dâu dùng làm phân bón, Imp. Thần Nông Báo, Hà Nội
(1930)
-
Sách làm ruộng, Imp. Tonkinoise, Hà Nội (1928)
-
Những điều bí mật về bèo hoa dâu, một thứ cây dùng làm
phân bón, Imp. Ngô Tử Hạ, Hà Nội (1934)
-
Khảo cứu về bèo hoa dâu, Khoa Học số 9, 13, 14,
20, 85, 86, 87, 88, 89
-
L’azolle cultivée comme engrais verts, Bull. Econ.Indochine
, Série B, th.4 (1930)
-
Conservation de l’azolle en saison chaude, Bull. Econ.Indochine
(1934) 1318-20 ; th.1-2(1936)
2-
Nguyễn Xuân Tuân, Mấy kinh nghiệm về phát triển bèo dâu,
phục vụ thâm canh lúa của tỉnh Thái Bình, Tạp chí
Hoạt động Khoa học 9 (1979) 6-7,19
3-
Nguyễn Hữu Thước, Thí nghiệm bèo dâu trong vũ trụ,
Đoàn
Kết trích báo N.D. 8 (1980)
4-
V. Labeyrie,
Azolla pinnata, Bull.Infor.Doc. AAFV th.6 38
(1981) 11
5-
Kim Phan,
L’Azolla pinnata, plante miracle des rizières du Vietnam,
Biofurur
th.5
(1982) 11-17
6-
Pernette Langley-Danysz, Recherches sur l’azolla, Biofutur
th.5
(1982) 19
7-
Đào Thế Tuấn, Un engrais vert : l’azolle, Pour la Science
th.3
65
(1984)
22-3
8-
Y. Dommergues, B. Dreyfus, Hoang Gia Diem, E. Duhoux, Fixation de l’azota
et agriculture tropicale, La Recherche th.1 (16) 162
(1985) 22
9-
Catherine Allais, Sesbania rostrata, l’africaine à la conquête du
monde, La Recherche th.5 (19) 199 (1988) 672
10-
Claudine Franche, Azolla, une orientale plusieurs fois centenaire,
La recherche, th.5 (19) 199 (1988) 674
11-
B.P.R. Subudhi, P.K. Singh, Nutritive value of the water fern Azolla
pinnata for chicks, Poult. Sci. (2) 57 (1978) 378-80
12-
J.H. Becking, M. Donze, Pigment distribution and nitrogen fixation in
Anabaena azollae, Plant Soil (1-2) 61 (1981) 203-26
13-
M. Brouers, D.O. Hall, Hydrogen production, ammoniac production and
nitrogen fixation by free and immobilized cyanobacteria, Comm.
Eur. Communities [Pep.] EUR 10024, Energy Biomass (1985) 387-92
14-
Vu Van Vu, W.F. Sang, Wong Fong, J.W. Kijne, K. Planque, R. Kraayenhof,
Effects
of temperature, pH and bound nitrogen on photosynthesis and nitrogen fixation
of Azolla pinnata (Xanh, Vietnam) and Azolla filiculoides Lam, Photosynthetica
(1)
20
(1986)
67-73
15-
M. Brouers, D.O. Hall, Ammonia and hydrogen production by immobilized
cyanobacteria, J. Biotechn.(5-6) 3 (1986) 307-21
16-
L.J. Querubin, P.F. Alcantara, A.O. Princesa, Chemical composition of
three Azolla species (A. caroliniana, A. microphyllia, and A. pinnata)
and feeding value of azolla meal (A. microphyllia) in boiler ration II.
Philipp.
Agric.
(4A) 69 (1986) 479-90
17-
O.D. Bekasova, A.A. Mutuskin, S.V. Zore, Content and structural organization
of phycobilin pigments in the nitrogen-fixing of cyanobacterium, Anabaena
azolla, Biofizika (2) 33 (1986) 270-4
18-
Nguyen Huu Thuoc, Photosynthesis and nitrogen fixation in the Azolla-Anabaena
azollae symbosis, Nauka : Moscow, USSR (1988) 152 tr.
19-
H. El-A.Weam, A. Khogali, Protein amino acid composition in six species
of Azolla, Delta J. Sci. (4) 11 (1987) 2059-69
20-
S.P. Singh, S.C. Srivastava, K.D. Pandey, Photoproduction of hydrogen
by a non-sulfur bactarium isolated from root zones of water fern Azolla
pinnata, Int. J. Hydrogen Energy (6) 15 (1990) 40-6
21-
S.A. Abbasi, P.C. Nipaney, G.D. Schaumberg, Bioenergy potental of eight
common aquatic weeds, Biol. Wastes (4) 34 (1990) 35-66
22-
L.G. Erokhina,
Composition and content of phycobiliproteins in the symbiotic
nitrogen-fixing cyanobacterium Anabaena azollae from various Azolla
fern species, Fiziol. Rast. (4) 38 (1991) 742-53
23-
A. Dewanji,
Amino acid composition of leaf proteins extracted from some
aquatic weeds, J. Agric. Food Chem. (8) 41 (1993) 1232
24-
D. Das, K. Sikdar, A.K. Chatterjee, Potential of Azolla pinnata as biogaz
generator and as fish-feed, J. Environ. Health (3) 36 (1994)
186-91
25-
E. Tel-Or, A. Rozen, E. Bar, H. Arad. Hydrogen photoproduction by Azolla
and Anabaena azollae, J. Mar. Biotechnol. (1) 34 (1996)
52-6
26-
J. Zhao, D. Shi, Y. Zhang, Bioaccumulation of Au (III) by cyanobacteria
Anabaena azollae, Chin. Sci. Bull. (13) 43 (1998) 1119-24
27-
A. Lejeune, J. Peng, E. Le Boulenge, Y . Larondelle, C. Van Hove, Carotene
content of Azolla ands its variations during drying and storage treatments,
Animal Feed Sci. Technol.(3-4) 84 (2000) 295-301
28-
A. Arora, A. Pabby, P.K. Singh, Heavy metal accumulation by Azolla spp.,
Contaminated Soils 8 (2003) 39-47 |