Công
anh gánh đất đắp cội cây đào,
Công
anh rào dậu để cho ai vào hái hoa.
Cây
lê, cây lựu cây đào,
Ba
bốn cây đứng đó, cây nào còn không ?
Ca
dao
Trong
thế giới đa sắc, muôn màu của các loài hoa, nếu hoa đào
biểu tượng mùa xuân, hoa lựu tượng trưng cho mùa hè. Nếu
hai hoa đào và mận quấn quít như tình yêu đôi lứa,
Muốn
cho mận ở với đào
Tình
ở với tính lúc nào chẳng vui.
hai
hoa đào và lựu không khi nào gặp nhau : khi xuân tàn, hoa đào
rụng, hè vừa đến thì hoa lựu mới nở ra, hai hoa nầy mang
trong đôi lứa mối tình trắc trở, mãi mãi xa nhau,
Sen
xa hồ sen khô hồ cạn
Lựu
xa đào lựu ngả đào nghiêng.
Lựu
là một cây được nói đến từ thời thượng cổ. Tục truyền
bên xứ Ba Tư có anh chàng Farhad mê muội nàng Shirin trong cung
cấm vua Khosrô. Vào lúc hạn hán, dân tình khổ sở vì thiếu
nước, vua ban chiếu thưởng bất cứ ai tìm ra nguồn nước,
riêng Farhad sẽ được ân huệ tặng nàng Shirin. Sau nhiều
ngày tháng tìm kiếm, Farhad may mắn tìm ra được một ngọn
suối ngầm. Trong khi mọi người sung sướng với nguồn nước,
Farhad xin vào yết kiến vua để lãnh giải thì được báo
cho biết Shirin đã từ giả cõi trần. Farhad buồn phiền ném
rìu xuống đất và gục xuống chết luôn. Nơi rìu chạm vào
đất mọc lên một cây lựu thân lá sum sê, hoa tươi đỏ
thắm, trái cũng rực rỡ lại là một chất thuốc chữa trị
muôn bệnh. Lẽ tất nhiên Shirin luôn vẫn còn sống.... Màu
đỏ của lựu trở nên biểu tượng của sức khoẻ, thịnh
vượng, bất tử. Ở vùng Lưỡng Hà, Babylone gọi lựu là
nuarmu trong ngôn ngữ akkadien, armunta phía đông,
romuno phía tây trong ngôn ngữ assyrien mới, tên được ghi
trong những văn bảng chữ hình góc. Người ta thường bảo
nếu nước Chaldée hãnh diện với những cây thông tuyết (cèdre),
vùng Lưỡng Hà nổi tiếng với những cây lựu. Qua thời đại
Trung Đế chế (- 2003 đến -1786), không biết nhờ ai, lựu
vượt Địa Trung Hải nhập vào Ai Cập. Nhiều dấu vết lựu
được tìm ra trong ngôi mộ những nguời hầu cận của vua
Thutmose I, của nữ hoàng Hatshepsout, rồi ở Karnak, màu lựu
đỏ chói còn tồn tại giữa những hình vẽ thảo mộc đã
phai màu. Nhưng mẫu được xem đẹp nhất là một bình hình
lựu tìm ra trong ngôi tháp chôn vua Toutankhamon (-1354 đến -
1346).
Qua
Hy Lạp, trên Thiên đình, khi thừa lệnh thần Zeus, Diêm vương
Hades bắt cóc con gái đẹp của chính Zeus là Persephone, bà
mẹ Demeter buồn rầu tức giận ngừng mọi việc sinh sản
ở thế gian. Thấy dân tình khổ sở, Zeus cho phép Demeter xuống
âm phủ đem Persephone về với điều kiện là trong thời gian
ở dưới ấy cô gái không được ăn bất cứ gì. Hades là
một người xảo quyệt, đem biếu Persephone một trái lựu
ngọt ngào, nàng không tránh được cám dỗ, hậu quả là mỗi
năm nàng phải ở dưới âm phủ sáu tháng, chỉ về được
với mẹ những tháng gieo mạ và gặt hái. Những thủy thủ
Phenicien cũng là những nhà nông, mỗi chuyến đi không quên
đem theo hạt giống. Công chúa Elissa tức Didon, quả phụ của
Sichée bị Pygmalion giết chết, chạy trốn trên thuyền, không
quên đem theo giống hột lựu. Khi họ chiếm Carthage ở Bắc
Phi, Didon trở thành nữ hoàng, cho trồng cây lựu trong vườn.
Enée, con của Aphrodite và Anchise, trên đường đi đánh giặc
ở Troie về, ghé ngang Carthage, thấy trái lựu đẹp hái tặng
Didon, từ đấy đôi trai trẻ yêu nhau đắm đưối. Nhưng theo
lệnh của Zeus, Enée phải rời Carthage đi Latium. Didon không
chịu nỗi cuộc chia ly, dùng thanh kiếm Enée tặng đâm mình
tự tử. Dân chúng gào khóc, tiếng than lên đến Thiên đình.
Sau nầy người Romain đến Carthage đặt tên cây lựu là pomma
punica,có người cho là có hình phạt đã đỗ lên
đầu dân chúng. Theo nhà thảo mộc Pline ở đầu Công nguyên
trong lưu vực Địa Trung Hải có đến bảy giống lựu. Ngày
nay trên thế giới cũng có đến 2000 loại.
Người
Hê brơ gọi lựu là rimmon, một trái quý, được dùng
để trang hoàng mũ miện rimmonim đặt trên cuộn kinh
Do Thái và quyết định lựu có 613 hột như số giới luật
Thượng đế đã ban cho cùng với đất lành. Trong bài thánh
ca, lựu được ca tụng là xinh đẹp, đa tình. Người Hồi
giáo cho chà là và lựu là những cây của Thiên đàng, hột
lựu đỏ chói tượng trưng những giọt nước mắt của Mahomet
và của cô con gái Fatima khi được tin con là Hussein từ trần
ở Kerbala. Trong kinh thánh, lựu có đức tính xa đưổi đố
kỵ, hằn thù. Sách truyền thống hadith về cử chỉ
và lời giảng của đấng Tiên tri dạy nên ăn lựu vì không
có một hột nào vào dạ dày mà không soi sáng tâm can và bịt
miệng quỷ sứ Xa tăng. Theo những tín đồ khổ hạnh soufi,
lựu là hình ảnh tính đa dạng của Tạo hóa, là "Ngôi vuờn
của Bản thể". Cụ thể hơn, lựu đã được dùng làm mực
viết, nhiều bản chép tay hiên còn giữ ở viện bảo tàng
British Museum bên Anh. Lưu cũng được làm thuốc nhuộm. Còn
bên Tây Ban Nha thì lựu là tên của một thành phố ở miền
nam. Khi người Ả Rập lại đấy thì đổi tên của người
Do Thái thường dùng là Abaicin thành Granat-al Yahoud. Tuy người
Ả Rập gọi lựu là romann, tiếng La Tinh chỉ định
tên cây là malum granatum hay granatum punica (punica
chỉ định Carthage, granatum có nghĩa đầy hột), còn là một
bí ẩn chuyện đặt tên thành phố Grenada sau khi lần lượt
được gọi Iliberis (tên bán đảo Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha)
và Florentia (tên La Tinh). Mang tên pume grenate từ thời
Trung Cổ, lựu được nói đến ở Pháp từ năm 1314 qua tên
grenade. Như nho, lựu nhập cảng vào Trung Quốc vài thế
kỷ trước Công nguyên, thường được biếu tặng cho vợ
chồng mới cưới vì là xem như là biểu tượng cho thịnh
vượng và đem lại khả năng sinh sản. Trong đông y, vỏ lựu
được dùng để chữa kiết lỵ kinh niên, xuất huyết, khí
hư. Nhưng dưới đời Tống (960-1279), lựu lại được biết
đến dưới một danh từ ít dễ thương hơn : lựu đạn !
Lựu
không phải là một cây đòi hỏi nhiều : nó chỉ muốn nắng
mùa hè để trái mạnh chín và chút lạnh mùa đông để hoa
dễ nảy nở. Nó chịu đựng dễ dàng vừa khô hạn tuy phải
tưới nhiều nếu muốn có trái nhiều, lớn, ngay cả khi nhiệt
độ thấp xuống -15 độ. Tuy vậy, ở nhiều nước như Ấn
Độ, thiếu nước, thường được sử dụng phương pháp "định
chỗ" hay "nhỏ giọt" tưới vào ngay rễ câ, vừa tiết kiệm
nước, vừa tăng gia năng suất. Vỏ trái dày giúp trái chống
lại sâu bọ và bệnh tật, đồng thời giúp trái giữ được
lâu nước bên trong mặc dầu nắng nóng ngoài trời, từ đấy
bảo quản được nhiều ngày, có khi đến sáu tháng nếu đặt
ở chỗ khô và mát mẻ. Đằng khác, trong thời gian bảo quản,
trái tiếp tục chín mà tính chất dinh dưỡng và dược liệu
không bị phá hư. Còn gọi thạch lựu, bạch lựu, tháp lựu,
lựu mang tên khoa học Punica granatum L., thuộc họ
Lựu Punicaceae. Cao chừng 3-4m, cây lựu có lá dài, nhỏ,
mềm, đơn, hoa nở mùa hạ màu đỏ tươi, có khi màu trắng,
trái to bằng nắm tay, vỏ dày, ngoài da sắc xanh, khi chín màu
vàng, đỏ, trong có tám ngăn xếp thành hai tầng, tầng trên
năm ngăn, tầng dưới ba ngăn, giữa có màng mỏng phân cách,
nhiều hột sắc hồng trắng. Mỗi hột bao quanh một lớp cơm
là phần ăn được, chiếm khoảng 55% trái. Vị ngọt, hơi
nhôn nhốt chua của trái lựu phát xuất từ một sự cân đối
hài hòa giữa những glucid và những acid hữu cơ. 100g phần
cơm chứa 0,4g lipid, 14g glucid gồm có một nửa fructose, một
nửa glucose (có rất ít saccharose), cống hiến 1g protein, 62kcal,
ngang hàng với trái xoài. Vị nhôn nhốt chua là do citric acid
chiếm phần lớn trong trái, malic acid cũng cho cùng vị nhưng
số lượng ít hơn. Những acid hữu cơ khác là : punicic, oleic,
palmitic, stearic acid. Lựu thường được trồng khắp nơi để
lấy trái và làm cảnh. Vỏ rễ, vỏ cành, vỏ thân chứa đựng
một số hóa chất alcaloid, trong 1kg vỏ : peletierin 0,7-1g, pseudopeletierin
1,5-2g, isopeletierin 1,3-15g, methylpeletierin 0,04g, bên cạnh các
galantanic, punicotanic acid và 22% tanin (28% trong vỏ trái), tỷ
lệ thay đổi tùy theo phân bón, cách chăm sóc và bảo quản.
Trong số các sinh tố, trái lựu chứa đựng nhiếu nhất vitamin
C (20mg mỗi 100g), nhiều nhất trong các trái tươi, và một
loạt vitamin B : B3 (0,3mg), B5 hay pantothenic acid (0,6mg), B6 hay
piridoxin (0,2mg), rất ít vitamin E, vitamin F hay linolenic acid, provitalin
A (0,04mg). Trong trái lựu cũng có các khoáng chất (700mg mỗi
100g), nhiều nhất là K (250mg), P, Ca, Mg và kim loại : sắt (1mg),
kẽm (0,4mg), mangan (0,13mg), đồng (0,12mg).
Song
song với sách thánh các đạo nêu cao tính chất của lựu,
trong dân gian từ lâu lựu là một chất thuốc được dùng
để bài trừ giun, sán, chữa những chứng ỉa chảy, kiết
lỵ, nói chung những cơn đau bụng, dựa lên tác dụng làm
se của tanin lên màng ruột bị dịch vị phá hư. Hột trái
thường được dùng làm thuốc chống viêm nhờ chứa đựng
một acid mỡ omega-5 hiếm có là punicic acid. Những phytostyrol
trong hột có tính chất làm êm dịu, yên lòng nên được cho
vào các thuốc bảo vệ chống da nhăn, tóc khỏi hư. Những
flavonoid và những vitamin C, E chống oxy hóa là những chất
có tác dụng chóng già, phòng ngừa chứng nhồi máu. Những
tính chất kiềm hóa và khử lọc có thể đưa lựu vào các
môn thuốc chữa thống phong liên quan đến những vấn dề
uric acid. Ngày nay, những cuộc khảo cứu thăm dò và dịch
tể học cho thấy ăn nhiều trái cây nói chung, lựu nói riêng,
thì thấy giảm bớt các bệnh tim mạch, ung thư cùng những
bệnh kinh niên. Vài cơ chế đã được đề nghị để giải
thích tính chất ấy và những chất phản oxy đã đóng một
vai trò quan trọng. Phản oxy hóa là tính chất những chất
bảo vệ các tế bào chống lại những gốc tự do khởi đầu
sự phát triển các bệnh tim mạch, ung thư cũng như lão hóa.
Trong một cuộc khảo cứu trên 40 loại trái cây, lựu đứng
hàng đầu về số lượng các chất oxy hóa. Nỗi trội trong
số nầy là những flavonoid, đặc biệt những anthocyanin, những
tanin và ellagic acid. Những anthocyanin (cyan có nghĩa xanh đậm)
nhuộm màu từ đỏ qua đen cho trái lựu còn tanin thì cống
hiến vị chát cho nước lựu ép và màng trắng bao bọc các
hột. Chính các màng nầy, cũng như tanin, mang nhiều chất phản
oxy nhất nên khi ép trái lựu thì cũng ép luôn các màng nầy,
kết quả là nước ép lựu chứa nhiều chất phản oxy hóa
hơn trái lựu, hơn cả trà và rượu đỏ từng có tiếng có
nhiếu các chất ấy. Những flavonoid có khả năng bảo vệ
máu chống oxy hóa, giảm hạ tỷ lệ các cholesterol, đặc biệt
LDL là những cholesterol xấu. Kết quả rất rõ ràng trên các
bệnh nhân bệnh đái đường sau 8 tuần uống mỗi ngày 40ml
nước lựu ép, hay trên các bệnh nhân huyết áp cao sau 2 tuần
50ml mỗi ngày. Đằng khác, những bệnh nhân uống trong một
năm mỗi ngày 50ml nước lựu ép thấy giảm hạ những thương
tổn xơ cứng động mạch, cũng như những bệnh nhân mắc
chứng động mạch vành uống trong ba tháng mỗi ngày 240ml thì
thấy máu chảy rất lưu thông.
Để
trị tiêu chảy hoặc tiêu ra máu, di tinh, bạch đới, lỵ trực
khuẩn
:cho 15g vỏ quả lựu vào nước, sắc 3 lần, mỗi
lần với một bát nước, cô lại còn 250 ml, chia làm 3-4 lần
uống trong ngày cho đến khi khỏi bệnh. Để chữa giun, sán
: cho 250g vỏ lựu vào 1250g nước (125cl) rồi đun sôi 10 phút
trong một cái son bằng inox (tránh son bằng sắt, đồng, thiết,
nhom hay bạc), cho hãm 15 phút rồi lọc qua một cái rây. Uống
mỗi ngày 4 tách 6cl cách nhau 2 tiếng đồng hồ. Giữa hai lần
nước sắc vỏ lựu, phải uống thuốc nhuận tràng : những
alcaloid tách rời giun, sán khỏi màng ruột và được nước
đào thải ra ngoài. Có thể uống luôn một lần 20g nước
sắc. Cũng có thể ăn trái luôn 1 hay 2 ngày, nhưng đừng ăn
hột khó tiêu, dù sao phải nhai thật kỹ. Một phương pháp
hơi khác là cho hột 8-10 trái lựu vào máy ly tâm, lấy nước
chứa cơm hột cho vào 1l rượu trắng (hay 900ml nước nhưng
phải cho thêm vào 100ml nước chanh ép) rồi đem sắc. Uống
nhiều lần trong mỗi ngày. Đừng quên uống thuốc nhuận tràng
ngay sau đấy. Về mặt ung thư, chưa có nhiều khảo cứu về
lựu. Tuy nhiên trong các cuộc thử nghiệm in vitro, nước
lựu ép có khả năng ngăn chận sự tiến triển của những
loại ung thư vú, ruột kết, tiền liệt tuyến. Tuy cần phải
đón nhận với tất cả thận trọng cần thiết vì không có
đối chứng, một cuộc thử nghiệm trên những bệnh nhân
ung thư tiền liệt tuyến uống trong nhiều tháng mỗi ngày
250ml nước lựu ép thấy thuyên giảm cuộc sinh trưởng những
tế bào ung thư, đồng thời tăng gia cuộc oxy hóa các lipid.
Đằng khác đáng để ý là nước lựu ép có kết quả khả
quan hơn các thuốc chống oxy hóa, như vậy là vì có thể có
những tác dụng đồng vận với một hay nhiều chất khác
trong nước lựu ép. Một cuộc thử nghiệm trên chuột mở
đường cho những tác dụng bảo vệ thần kinh, chẳng hạn
nước lựu ép bảo vệ não bào thai chống những thương tổn
do thiếu dưỡng khí, có tác dụng tốt lên những dấu hiệu
thần kinh liên quan đến bệnh sa sút trí tuệ Alzheimer.
Trái
lưụ nhờ ngọt lại có nhiều nước nên rất được ưa chuộng.
người ta bảo trái phải nặng mới có nhiều nước. Trái
nhỏ, khô thì chẳng ăn được. Vỏ trái cần phải nhẵn và
láng, trái ăn mới ngon. Khi gõ vào trái chín phải nghe như
âm thanh kim loại. Ngoài trái ăn, lựu được ép ra nước uống,
làm thành xi rô : nhãn hiệu grenadine màu đỏ rất được thông
dụng và trở nên thông thường. Có một dạo, để tránh bị
cho chứa chất thuốc nhuộm, người ta chế biến xi rô grenadine
trắng không có lựu thì không bán chạy, lập tức xi rô trở
lại đỏ (có lẽ cũng chẳng có lựu !). Cũng như xi rô bạc
hà thì phải là màu lục (có lẽ cũng chẳng có bạc hà !).
Ở vùng Địa Trung Hải, lựu được đưa vào các món ăn.
Ở nước Liban nước mật lựu gọi là raber'remane, gồm
có nhiều acid cống hiến một vị dịu và nhôn nhốt chua.
Nước mật nầy dùng để nêm nhiều món như baba-ghannouj
là cà tím nghiền nướng với tỏi, lachmacun là một
loai pizza có thịt. Ở vùng Punjab bên Ấn Độ, nơi trồng
lúa bismati, hột lựu được dùng để đem lại vị chua
trong những món ăn chay. Có lẽ ở nước Iran, trái lựu có
vai trò quan trọng nhất trong ngành ẩm thực. Nước ép lựu
được cô lại để nêm nhiều món, đặc biệt nhất là fessenjan,
một món thịt vịt xào với hột hồ đào bằm nhỏ. Ở Thổ
Nhĩ Kỳ, muhammara là một nước xôt gồm có ớt bột
nướng, ớt bột cay, hành, tỏi, hồ đào xay, vỏ bánh mì
tán vụn, nước chanh, yoghurt, cumin, muối và nước mật lựu
hay nước ép lựu cô đặc trộn với nhau trong dầu ô liu,
dùng để ăn với rau sống, bánh quy giòn hay bánh mì. Một
loại nước xôt khác là cho trộn bạc hà, tiêu, muối, mùi
tây persil với nước chanh, dầu ô liu và nưóc ép lựu ăn
với cà tím nướng. Trong món kisir miền Ấn Độ,
trộn
ớt, cà chua, hành, bạc hà, mùi tây persil, boulghour (một loại
mì) và nước ép lựu, dọn trên những lá nho đã trụng nước
sôi. Còn có cách nấu cháo đậu lăng (lentille) : tao hành trong
chão, cho vào gạo, đậu lăng, tiêu, muối, nghệ, nấu 15 phút,
cho thêm mùi tây persil, hành xanh và nước ép lựu (một chén
cho 10 chén cháo), nấu thêm 10-15 phút, cho thêm bạc hà, nho
khô. Chúc ăn ngon !
Những
năm gần đây, trái lựu trở nên một nguyên liệu đắc, quý.
Ở Pháp người ta nói đến một sự kiện xem như một "cuồng
loạn" : từ nước ép đến da trái lựu, ngay cả hột lựu
đua nhau làm rộn các phòng thí nghiệm mỹ phẩm. Hãng Weleda
đã cho bán từ năm ngoái dầu tái sinh cơ thể nhãn cuối cùng
của một loạt đầy đủ những thương phẩm lấy hột lựu
làm gốc. Sau đó lần lượt hãng Onagrine cho ra một kem bóp
da, hãng Nivea một nước sửa thoa mình, hãng Biotherm một chất
thuốc bảo vệ cơ thể,…luôn từ phần chiết hột lựu.
Những hãng khác như Colibri cho nhập cảng từ Thổ Nhĩ Kỳ
nước Elite Naturel (400.000 chai mỗi năm), hãng Petrossian từ
Caucase nước Yablok (20.000 chai mỗi tháng !). Trước những thành
công rõ rệt trong lãnh vực mỹ phẩm, ngành ẩm thực không
thể đứng yên nhìn. Để bắt đầu, nhà làm kem Philippe Faur
cho chế ra một sorbet lựu màu hồng, cam đoan "92% trái
cây" có măt trong thực đơn các tiệm ăn lớn. Sự kiện nổi
bật nhất là sự hiện diện trong các siêu thị nhãn hiệu
một nước lựu Pom Wonderful nhập cảng từ Cali, nghe nói đã
chiếm 90% thị trường Hoa Kỳ. Đặc biệt chai nước có hình
chữ 8, vòng trên là một trái tim như để tỏ bày nước lựu
là một nước uống gợi tình…Bên Cận Động, nước lựu
chua được xem như là một vị thuốc thụ tinh nếu không là
một chất kích dục, nhưng vượt biển qua Mỹ, nó trở thành
một "món ăn bài thuốc" cường dương, chống tiểu đường
cùng các bệnh tim mạch, ngay cả ung thư, đặc biệt ung thư
tiền liệt tuyến. Chính Giáo sư niệu học François Desgrandchamps
ở Bệnh viện Saint-Louis tại Paris cũng khuyên bệnh nhân uống
mỗi ngày một ly nước lựu ngày nào chưa cần đến thuốc.
Cơ sở khoa học của sự chỉ dẫn nầy là kết quả một
cuộc khảo cứu bên Hoa Kỳ cho thấy chỉ số PSA (Prostate
Specific
Antigen) xác định mức bệnh ung thư ở tiền liệt tuyến,
không thay đổi sau một thời gian uống nước nước lựu.
Măc dầu lời cảnh cáo : "một ly nước lựu mỗi ngày là
cơ thể tăng thêm một kilô mỗi tháng", tin tưởng ở những
tính chất chữa bệnh của lựu, bà Lynda Resnick, Giám đốc
hãng Pom Wonderful, vừa mới đóng 50 triệu Mỹ kim vào cuộc
khảo lợi ích của lựu lên sức khỏe. Còn ở Pháp, nhà nông
Jean-Claude Peretto đầu tư vào 10ha trồng cây lựu ở vùng Gard
.....
Hoa
đỏ, trái đỏ, tuy đã biết đến từ thuở xa xăm, gần đây
mấy ai đoán thấy phát triển của nó trên thị trường.
Cây
gì lá nhỏ cành mềm,
Hoa
như đốm lữa thắp bên vườn nhà.
Hè
về, cây đỏ rực hoa,
Sang
thu, quả chín như là sơn son.
Nghiên
cứu và Phát triển 6-7(104-105) 2014
Tham
khảo
-
Christèle Guinet, La Grenbade, le fuit médicament, Nexus
51 07-08.2007
-
J.A .Dipage, Fleur et fruit du grenadier, Sainte-Liberté,
29.06.2009
-
M. Fischer-Zom, M. Ara, Jus de grenade - Composition chimique et frelatages
possibles, Science et recherche I- 09.2009 ; MedicatriX.co.uf
-
Eve Roger, L'explosion de la grenade, le Nouvel Observateur,
1-07.07.2010
-
Paulette Vanier, Le grenade au fil des temps, Fiche Grenade
05.10.2010
-
Marie-Noelle Delaby, Les ‘'superfruits" sont-ils si riches en antioxydants
? Sciences et Avenirs 11.2011 |