Cá
nục nấu với dưa hồng
Lờ
lờ có kẻ mất chồng như chơi.
Ca
dao
Trong
Lĩnh
Nam chích quái có Truyện dưa hấu: "Về đời Hùng
vương có viên quan Mai Tiêm vốn ngườì ngoại quốc, khi lên
bảy, tám tuổi, vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc.
Kịp tới khi lớn lên diện mạo đoan chính, nhờ thuộc sự
vật, vua ban tên cho là Mai Yển, hiệu An Tiêm, lại ban cho một
người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai một gái. Vua rất
tin yêu, giao cho công việc, dần dần trở nên phú quý, bổng
lộc rất nhiều. Sau Tiêm đâm ra kiêu căng, ngạo mạn, thường
nói rằng : Đó đều do tiền thân của ta, không phải do ơn
chúa. Vua nghe nói cả giận, phán : Làm thần tử của người
mà kiêu căng ngạo mạn, không biết ơn chúa, lại nói do tiền
thân ! Nay đưa nhà ngươi ra một nơi không có người ở giữa
bể xem có còn tiền thân không ? Bèn đày ra ngoài cửa huyện
Nga Sơn, bốn bề toàn cát và nước không có vết chân người
qua lại, ban cho một số lương thực đủ ăn bốn năm tháng
để cho ăn hết thì chết. Vợ Tiêm than khóc, Tiêm cười mà
bảo : Trời đã sinh ta tất nuôi nổi ta, sống chết bởi trời,
ta đâu lo lắng. Bổng thấy một con bạch trĩ từ phương Tây
bay lại ở đầu núi, kêu lên ba bốn tiếng, sáu bảy hạt
dưa theo tiếng kêu mà rơi xuống cát, mọc lên xanh rì rồi
kết thành quả. An Tiêm mừng rỡ mà nói : Đây không phải
là dị vật mà là trời cho để nuôi ta đó. Bèn bổ ra mà
ăn, thấy vị thơm ngon, tinh thần sảng khoái, mới giữ lấy
hạt, năm sau đem trồng. Ăn không hết, lại đem đổi lấy
gạo nuôi vợ con. Tiêm không biết gọi là quả gì, nhân vì
chim trĩ ngậm hạt từ phương Tây bay tới nên gọi là quả
Tây qua. Phường chài phường buôn ăn đều cho là ngon. Những
người ở thôn xóm xa gần đều mua để lấy giống. Sau vua
nghĩ đến Tiêm, cho người đến xem còn sống hay đã chết.
Người đó về tâu lại với vua, vua thở dài mà than rằng
: Hắn nói là do tiền thân, điều đó thật không ngoa. Bèn
ra chiếu gọi về phục chức cũ, lại cấp cho nô tỳ. Bãi
cát Tiêm gọi là bãi An Tiêm, làng đó gọi là Mai Thôn. Có
người lại suy tôn nơi tổ tiên An Tiêm ở mà cho rằng nơi
đó là châu An Tiêm thuộc tỉnh Thanh Hóa " (1).
Tây
qua tức dưa hấu, dưa đỏ, còn được gọi hàn qua, mak
tành năm (Thái) là một cây dây bò sống hàng năm, thân
phủ lông dài, tua cuốn chẻ hai, ba nhánh. Cuống lá có lông
mềm. Phiến lá xanh lạt, xẻ ba thùy lông chim sâu, hai mặt
đều có lông ngắn. Hoa đơn tính cùng gốc, màu vàng, to. Quả
rất to, hình cầu hay hình trứng, vỏ ngoài màu lục đen, nhiều
khi có vằn sọc sẫm, nhẵn, bóng. Thịt quả đỏ, hạt đen
nhánh, dẹt. Cây được trồng ở các bãi cát, bãi bồi khắp
nước ta, mùa xuân ra hoa, thu hoạch vào mùa hè. Quả non gọi
là dưa hồng dùng làm rau xào, nấu canh, quả chín ăn tráng
miệng, giải khát. Ở miền Nam, dưa hấu được trồng khác
vụ, cho quả vào mùa đông, hái ăn vào dịp Tết nguyên đán
(LTĐ). Nó thuộc họ Bí hay Bầu bí Cucurbitaceae. Tên khoa
học của nó là Citrullus vulgaris Schrad nhưng cũng còn
có những tên
C. lanatus Thunb. hay Mansfeld hay (Thunb.) Mansf.
hay (Thunb.) Matsum et Nakai , C. colocynthis Schrad. hay Linn.
Anh Mỹ thường gọi là wartermelon, muskmelon, người Pháp
melon
d'eau nhưng cũng còn có tên pastèque từ danh từ Bồ
Đào Nha
pateca xuất phát từ tiếng Ả Rập baticha.
Riêng
C. colocynthis
có khi đÜợc trình bày duới tên thumba
hay egusi.
Trong
cây dưa hấu, chỉ có trái được dùng ăn, thơm ngọt, rất
được thưởng thức khi trời nóng, khát nước. Mùi vị của
C.
vulgaris
là do một hỗn hợp nhiều chất, trong số những
chất dễ bốc hơi đã được xác định nhiều aldehyd (hexanal,
heptanal, octenal, nonanal, nonenal, nonadienal, decenal, undecenal, geranial),
vài alcool (nonanol, nonenol, nanadienol) cùng ionon. Nó chứa đựng
nhiều chất đường, đặc biệt những monosaccharid, những
vitamin A, B1 (7), C (7,11), P
(10,12),
bên cạnh 18 amin acid mà nhiều nhất là aspartic, glutamic acid,
arginin, leucin, phenylalanin, ít hơn là serin glycin, alanin, threonin.
Trong nước dưa cho ủ men, số lượng alcool, ester, aldehyd tăng
dần cũng như vitamin B2 nhưng hai sinh tố C và B1 thì
lại giảm hạ như các chất đường, đặc biệt sucrose biến
mất cũng như phenylalanin, isoleucin (6). Bên nước Nigeria,
đem dưa C. vulgaris cho ủ men (ogiri), cấu chất thay
đổi rất nhiều, những chất có đạm giảm hạ vì hoạt
động các enzym như proteinase, amylase rất mạnh
(16).
Đặc biệt dưa hấu chứa đựng những chất sắc (15),
những carotenoid (11) như caroten (nguyên thủy của vitamin
A) là những hydrocarbon dài với một dãy 40 carbon và 11-12 dấu
nối đôi. Hai caroten có tính chất kháng oxy hóa, nghĩa là chống
già như những vitamin A, C, là bêta-caroten và psi-psi-caroten (còn
gọi lycopen, không có vòng trong phân tử nhưng lại có 13 dấu
nối đôi), thường nhuộm màu đỏ hồng những trái dưa hấu,
gấc, cà chua hay củ cà rốt..
Lá
và cuống lá dưa C. lanatus chứa đựng một số đường,
nhiều nhất trong lá là sucrose, raffinose và stachyose, trong cuống
lá là fructose và glucose (27). Trong lá dưa C. colocynthis
thì có nhiều đuờng, glucose, fructose và fructosan, inositol nhưng
không có acid hữu cơ. Các đường nầy cững được tìm ra
trong đọt và rễ dưa ấy cùng malonic acid và 6 amin acid. Ở
nhụy hoa cây nầy, những amin acid nhiều nhất là arginin, aspartic
và glutamic acid cùng asparagin. Người ta nhận thấy trong lá
một loại dưa nhạy cảm và có khả năng chống chỏi lại
được thứ nấm ký sinh Alternaria cucumerina, số lượng
sucrose nhân lên gấp năm, glucose chỉ còn lại một nửa bên
cạnh 9 chất phenolic cùng glutamic acid, lysin, histidin, asparagin
và đặc biệt flavonol glucosid cùng chlorogenic acid (8).
Trong sáp trên lá mầm, bên loạt một loạt alcan và alcen từ
C14 đến C34, đã được xác định pristan, phyan và isopropenoid
trong sáp lỏng, những anteiso acid cùng methyl myristic, cerotic,
montanic và behenic acid trong sáp đặc. Dầu tiết ra từ đầu
nhụy dưa C. lanatus chứa đựng đường gồm có fructose,
glucose, sucrose và polysaccharid tăng gia với tuổi cây nhưng số
lượng những chất béo lipid không thay đổi khi hoa nhận phấn
mặc dầu phấn nầy đem lại nhiều lipid. Trong số các chất
béo cấu thành lipid có nhiều nhất là linolenic acid (14).
Nhìn
chung, được khảo cứu nhiều nhất là hột dưa hấu. Nó chứa
đựng protein, chất béo, amin acid (threonin, leucin, phenylalanin,
tyrosin), những khoáng chất, kim loại. Thành phần protein dưa
C.
vulgaris là globulin, prolamin, albumin, glutelin. Trồng bên Nigeria,
hột dưa chứa đựng protein, chất béo với nhiều aspartic acid
và glutamic avid, carbohydrat, khoáng chất, kim loại nhưng không
có HCN. Đem ủ men, hột dưa nầy giảm hạ số lượng monosaccharid
nhưng lại tăng gia disaccharid và đường trở nên giàu sucrose
và galactose (21). Cho hột lên mầm 48 tiếng đồng
hồ thì protein tăng gia nhưng để lâu hơn thì lại sụt xuống
(26)
như triacyl glycerol trong lúc các chất béo lại tăng gia. Những
nhà khảo cứu Nigeria đem so sánh nhiều loại hột cây mọc
bên xứ họ thì thấy hột dưa nầy có nhiều chất béo nhất
từ đấy cũng đem lại nhiều calo nhất, nhưng đem nấu thì
chất béo cùng protein, vitamin C, các carbohydrat và các khoáng
chất giảm hạ, trừ phi sau đó đem ủ men thì chất béo và
protein lại tăng gia. Nhân tìm những chất có tính chất chống
bệnh sỏi (antilithiasis), đã được xác định urease, flavon
(rutosid), caffeic acid, coumarin, pinen, cineol (19). Đem
phân hột dưa C. vulgaris ra 3 thành phần euglubolin, nếu
glutamic acid và arginin có nhiều trong mọi phần, những aspartic
acid, cystin, methionin, valin, histidin, lysin rải rác có ít hay
nhiều ở mỗi phần.
Hột
dưa C. colocynthis
(egusi) chứa đựng nhiều dầu,
protein, carbohydrat, tro, sợi, amin acid (arginin, tryptophan, methionin)
bên cạnh vitamin B1, niacin (vitamin PP) cùng nhiều khoáng
chất và kim loại (13). Từ dưa nầy đã được chiết
xuất và xác định spinasterol, sitosterol cùng ursoloic acid, amyrin
cùng pentacyclic triterpen, tetracylic triterpen từ đấy chiết ra
những triterpenoid bốn vòng cucurbitacin. Một bản báo cáo Hàn
Quốc cho biết trong hột dưa có những acid béo : nhiều linoleic,
palmitic, oleic acid, ít hơn là stearic, linolenic acid, còn trong
số amin acid thì nhiều nhất là glutamic acid và arginin bên cạnh
những lysin, threonin, valin, methionon, isoleucin, leucin, phenylalanin.
Hột dưa trồng ở Bulgari giàu vitamin C, K và Fe. Hột dưa C.
lanatus
trồng ở Niger chứa dựng protein, tro, nhiều khoáng
chất và kim loai, lipid mà những chất béo là linoleic, oleic,
palmitic, stearic acid. Hột dưa hai loại
C. lanatus ở Hungari
(Chilien và Giza 1) chứa đựng 17 amin acid mà nhiều nhất là
glutamic, aspartic acid, leucin, arginin, tryptophan và ít hơn là methionin,
threonin và khoáng chất, kim loại. Hột dưa nầy ở miền Bắc
Việt Nam chứa đựng ngoài hydrocarbon, acid béo tự do, những
mono, di và triacyl glycerol (23).
92
% của ruột dưa là nước trong ấy khoáng chất chiếm 0,3%
mà một nửa là K2O, Na2O, P2O5,
SO2 và MgO, ít CaO. Nước dưa vẫn còn tốt sau sáu
tháng tích trử ở 12-40 độ, chỉ mất ít nhiều sinh tố C
(22).
Hột dưa hấu giàu dầu thì lẽ tất nhiên được ép nhiều.
Dầu dưa C. lanatus trồng bên xứ Ai Cập chứa đựng
protein với nhiều linoleic acid. Dầu nầy từ dưa trồng bên
Thổ Nhĩ Kỳ thì giàu vừa linoleic vừa capric acid. Ở Ấn Độ
và Pakistan, dầu dưa C. colocynthis (thumba) gồm có nhiều
nhất linoleic acid và tương đối ít hơn palmitic, stearic acid,
lysin. Linoleic và oleic acid cũng là thành phần lớn nhất trong
dầu C. colocynthis
(egusi) bên Hoa Kỳ. Bên Sudan, dầu
nầy được dùng làm thuốc, chứa đựng 24 hydrocarbon trong
ấy có pritan, phytan, phytol (9). Dầu hai giống dưa
Kongo Chillian Black và Gisa 1 cũng giàu linoleic và oleic acid. Ở
Pakistan, dầu dưa C. vulgaris được phân tích ra mono, di,
tri glycerid, sterol, acid béo tự do, alcool cùng nhiều phosphatydyl
-choline, -ethanolamin. Dưa nầy trồng bên Nigeria cống hiến một
dầu rất giàu protein, khoáng chất, đặc biệt P, trồng bên
Ấn Độ thì giàu linoleic acid. Năng suất dầu chiết ra có
thể đạt đến 41,0-56,5%
(17).
Bên
ta, có nhiều loại dưa hấu : trái tròn, trái dài, ruột đỏ,
ruột vàng, ruột cam nhờ nhuộm những chất sắc. Gần đây
còn có trái vuông nhờ công tác của anh sinh viên 23 tuổi Đinh
Trần Nguyễn ngành Trồng trọt, khoa Nông học và Sinh học
Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ. Nhờ biết sử dụng
phân bón, chọn lựa thời tiết, kỹ thuật thích hợp, sau
người Nhật, anh đã thành công lần đầu tiên ở Việt Nam
đem ra chợ Xuân Khánh, Cần Thơ bán những dưa hấu hình vuông
hạt ít, thịt nhiều từ Tết Bính Tuất và tiếp tục Tết
Đinh Hợi (4). Sau này còn thấy có bán dưa hấu hình
quả tim ! Trái chín thường được dùng ăn giải khát, ngừa
trúng nắng. Phần rắn gồm có nhiều đường (6-8%) : glucose,,
sucrose, nhất là fructose. Hột dưa đem rang cũng được dùng
để ăn chơi, phải biết tách vỏ mới ăn được nhân bên
trong. Ta đã thấy hột có nhiều chất béo, vậy coi chừng
dễ bị lên cân. Theo Đông y, dưa hấu có vị ngọt nhạt,
tính mát, không độc, tính thanh phế vị nhiệt thử, chỉ
khác, sinh tân dịch. Thịt dưa nghiền nát thành bột nhão đắp
lên mặt để dưỡng da, da mặt khỏi khô và ngừa nám da.
Dưa hấu là mỹ phẩn an toàn, không gây dị ứng (BKT). Gần
đây, hột dưa đã được đem làm thức uống bổ dưỡng cùng
với protein đậu nành và nhiều hóa chất khác (24).
Nước nấu đông dưa hấu cũng được hỗn hợp với nhiếu
cây khác như bạch chỉ, hoàng cầm, tía tô,.... làm thành rượu
uống thông máu, đở đau, chũa ho, viêm răng,.... (28).
Natri glutamat của dưa hấu cho lên men với Micrococcus glutamicus
rồi trộn với vitamin C và nhiều loại vitamin B làm thành thuốc
nêm cháo hay bất kỳ thức ăn nào (25). Những nhà
khảo cứu Nhật Bản đề nghị những người mắc bệnh thận
nên ăn dưa hấu
(4). Tuy nhiên một công tác trên chuột
chứng minh nước dưa cô đặc có khả năng gây kích thích
ở dạ dày - ruột. Cách đây hơn 20 năm, một công tác khảo
cứu Thái Lan phát hiện curcubitan B trong dưa C. vulgaris
là thành phần chính một phần chiết nước dưa hấu có tính
chất rất độc hại in vitro cho tế bào ung thư biểu
môi ở miệng người (12) cho nên thấy dưa đuợc
ngâm khỏi viêm miệng (LTĐ). Trong một tờ báo y khoa về tai,
mủi, họng Trung Quốc thấy có chỉ cách dùng dưa hấu làm
thuốc viên chửa bệnh yết hầu, thanh quản (27).
Bên ta, vỏ quả dưa vị ngọt, tính mát, dùng để làm gỏi,
sắc uống thì thanh nhiệt, lợi tiểu, đốt ra than tán bột
ngậm thì khỏi miệng lưỡi lở loét. Hạt dưa vị ngọt,
tính lạnh, cũng có tác dụng chữa đau lưng và phụ nữ hành
kinh quá nhiều, uống mỗi lần 12g, ngày uống 3 lần (LTĐ).
Gần đây một bài báo đã trích dẫn những công trình khảo
cứu bên Hoa Kỳ trong một phúc trình trình bày những ứng
dụng có hiệu quả của dưa hấu ngăn ngừa ung thư (vitamin
A,C,E), cao huyết áp (K), bệnh tim mạch, chống lượng mỡ tích
tụ trong động mạch (vitamin A), tạo hồng huyết cầu mới
(vitamin B6), giảm hạ ung thư tiền liệt tuyến, phụ
giúp sức khỏe…
(3). Từ nhiều chục năm nay ở
Hoa Kỳ đã có sản xuất dưa hấu không hạt
(5),
có lẽ đở mất thì giở gạt hạt khi ăn dưa, nhưng ta mất
một nguồn protein, amin acid, chất đường,... đồng thời một
số chất thuốc.... và các bà hết còn có dịp ngồi tách
nhân hạt để ăn trong khi trò chuyện.
Sự
tích dưa hấu rất hấp dẫn nên trong văn học nước ta, sau
Truyện
dưa hấu trong Lĩnh nam chích quái, lần lượt đã
thấy, qua sự hiểu biết có giới hạn của người viết,
Quả
dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật (1925), rồi gần đây
hơn Sự tích An Tiêm trong tập Món ăn bài thuốc
của
Bùi Kim Tùng (1993) (BKT), Trái dưa hấu của Sơn Nam - Tô
Nguyệt Đình (2002) (2) với ít nhiều biến dị nhưng
cốt truyện vẫn như nhau. Câu hỏi đặt ra là An Tiêm thành
công nhờ tiền thân, định mệnh, may mắn, hay nhờ tính bất
khuất không chịu nhận bất công, tính cần cù của người
chịu khó làm việc, tính tháo vát của kẻ không bó tay ngồi
đợi ?
Nghiên
cứu và Phát triển 1(99)2013,
khoahoc.net.23.08.2013
Tham
khảo
1-
Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Truyện dưa hấu trong Lïnh
nam chích quái, nxb Văn Hóa, Hà Nội (1960) 46-7
2-
Sơn Nam - Tô Nguyệt Đình,
Trái dưa hấu trong Chuyện
xưa tích cũ, nxb Phụ Nữ, Hà Nội - Tp HồChíMinh (2002)
140-2
3-
Việt Hải, Lycopene của An Tiêm, khoehoc.net 03.02.2004
4-
Dưa
hấu hình vuông,
ngoisao.net/news/thoi cuoc 13.02.2006 ;
VietNamNet 16.02.2007
5-
Chu Hữu Tín dịch Donald N. Maynard, Dưa hấu không hạt,
khoahoc.net
07.06.2007
6-
M. El-Akher Abd, A. Alian, A. Khalaf-Allah, Production of alcoholic
beverage from watermelon juice. II. Chemical changes during fermentation
and aging of fermented watermelon juice, Egyptian J. Food Sci. (2)2
(1974) 119-33
7-
A. Mikhov, Watermelons and muskmelons, Bulg. Ed.: A. Mikhov,
Kach. Prom. Zelenchukovu Sortove (1975) 176-94
8-
B.L. Chopra, J.S. Jhooty, K.L. Bajaj, Biochemical differences between
two varieties of watermelon resistant and susceptible to Alternaria cucumerina,
Phytopath.
Zeits. (1)79 (1974) 47-52
9-
L.K. Yankov, Ch. Ivanov, S.M. Khusein, Content and composition of the
alkanes and the primary aliphatic alcohols in unsaponifiables of Citrullus
colocynthis seed oil, Dokh. Bolgarskoi Akad. Nauk (8)28
(1975) 1065-8
10-
O.L. Oke, I.B. Umoh, Lesser know oilseeds. I. Chemical composition,
Nutr.
Rep. Intern. (3)17 (1978) 293-7
11-
M.B. Uddin, A.M.N. Swamy, Preparation of preserves and candies from
watermelon rind, Bangladesh J. Agric. Sci. (2)8 (1981)
211-5
12-
W. Silapa-Archa, P. Picha, O. Lurwongrattana, W. Kittiwongsunthorn, P.
Ungsuntnornsarit, Investigation of the triterpenes of Cucurbitaceae
prevalent in Thailand, Warasan Phesatchasat (1)8 (1981)
5-8
13-
E.N.T. Akobundu, J.P. Cherry, J.G. Simmons, Chemical, functional, and
nutritional properties of egusi (Colocynthis citrullus) seed protein products,
J.
Food Sci. (3)47 (1982) 829-35
14-
J.S. Hawker, M. Sedgley, B.R. Loveys, Composition of stigmatic exudate,
nectar and pistil of watermelon, Citrullus lanatus (Thunb.) Matsum. &
Nakai, before and after pollinisation,
Australian J. Plant Physiol.
(3)10 (1983) 257-64
15-
N.I. Valentinova, V.A. Valentinov,
Mineral compounds and free amino
acids in watermelons, Izvestiya Vysshikh Uchebnykh Zavedenii, Pishchevaya
Tekhnologiya (5) (1983) 132-4
16-
S.A. Odunfa, Biochemical changes during production of ogiri, a fermented
melon (Citrullus vulgaris Schrad) product, Plant Foods Hum. Nutr.
(1)32
(1983) 11-8
17-
T.R. Madaan, B.M. Lal, Some studies on the chemical composition of cucurbit
kernels and their seedcoats,
Plant Foods Hum. Nutr. (2)34
(1984)
81-6
18-
M.O. Basalah, M.H. Al-Whaibi, S. Muhammad, Comparative study of some
metabolites of Citrullus colocynthis Schrad. and Cucumis prophetarum L.,
J.
Biol. Sci. Res. (1)16 (1985) 105-23
19-
V. Istudor, I. Saramet, G. Bucur-Cotirlan, V. Dumitrescu, A promising
antilithiasis preparation - seeds of Citrullus vulgaris Schrad, Farmacia
(Bucharest) (4)34 (1986) 231-8
20-
R. Latztity, M.B. Abd El Samei, M. El Shafei, Biochemical studies on
some nonconventional sources of protein. Part 2. Cucurbitaceae seeds, Hung.
Nahrung (Budapest) (6)30 (1986) 621-7
21-
S.C. Achinewhu, Carbohydrate and fatty acid composition of fermented
melon seeds (Citrullus vulgaris),
J. Food Sci. Tech. (1)24
(1987) 16-9
22-
S.P.S. Saini, G.S. Bains, Process for pilot-production of seed and ascorbic
acid fortified watermelon juice, Res. Ind. (India) (3)39
(1994) 147-9
23-
A.B. Imbs, Pham Long Quoc, Lipid composition ofvten edible seed species
from North Vietnam, J. American Oil Chem. Soc. (8)72
(1995) 957-61
24-
X.Yang, Z. Guan, Method for preparing reed stem and watermelon seed
composite protein health drink,
Farming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1170540 (1998) 5tr.
25-
H. Tanaka, Seasonings with high nutritional value, medicinal effects,
and good flavor, Jpn Kokai Tokkyo Koho JP. 2000245386 (2000)
8tr.
26-
N.K.. Damayanthi Ranwala, D.R. Decoteau, A.P. Ranwala, W.B. Miller, Changes
in soluble carbohydrates during phytochrome-regulated petiole elongation
in watermelon seedlings,
Plant Grow. Reg. (2)38 (2002) 157-63
27-
J. Zou, H. Lu, Z. Pan, Clinical study of watermelon frost runhou tablet
treatment for pharynx and larynx oral cavity, J. Clin. Otorhinolaryngology
(Guilin)
(4)17 (2003) 253-5
28-
L. Xu, Alcoholic beverage with healt promoting effects, Farming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1635092 (2005) |