Chim Việt Cành Nam           [  Trở về  ] 
Võ Quang Yến

CÂY NHÀ LÁ VƯỜN

Cây thuốc và vị thuốc

- Tập 2 -
23- Xoài cát xoài tượng
Con chim xanh xanh ăn trái xoài xanh,
Ăn no tắm mát đậu cành dâu da.
Cực lòng anh phải nói ra,
Chờ trăng trăng lặn, chờ hoa hoa tàn.
Ca dao
Trong chuyện Mahakapijakata, kiếp ngài là một chúa khỉ mạnh dạn, lãnh đạo một bầy tám vạn con ở miền núi tuyết Himavant (Hy mã lạp sơn). Trên bờ sông Ganga (Hằng hà) có một cây xoài cao lớn, quả trái sum sê mà lại ngon ngọt. Đến mùa trái chín, cả bầy khỉ mặc sức hái ăn. Hồi ấy ở Baranasi (Ba la nại) có vua Brahmadatta trị vì. Muốn chiếm lấy cây xoài, nhà vua sai lính bủa lưới trùm cây hầu bắn chết bầy khỉ. Để cứu chúng, đức Phật cắt dây làm cầu cho bầy khỉ vượt lưới. Rủi đo lầm dây thiếu một đoạn, đức Phật liền lấy thân thế dây cho bầy khỉ đạp lên chạy trốn. Trong đám tùy tùng của nhà vua có một người bà con với đức Phật tên là Devadatta (Đề bà đạt ba) thường hay ganh tỵ và có lòng căm ghét Ngài. Trèo lên cành cao, anh ta nhảy xuống giậm thân đức Phật làm Ngài rơi xuống đật, tử thương. Nhà vua theo dõi sự việc từ đầu, rất cảm kích trước hành động của chúa khỉ, cho mang lên giường săn sóc và hỏi han sự tình. Trước khi viên tịch, đức Phật nhân đó khuyến khích nhà vua phải luôn làm tròn phận sự bảo vệ hạnh phúc cho người dân bần cùng cũng như nhà chiến sĩ hào kiệt. Nhà vua truyền lệnh tổ chức lễ hỏa táng theo nghi thức một vị quốc vương và cho xây một ngôi tháp để đặt thánh tích của đức Phật. Sau đó, nhà vua sống và trị vì đúng với những lời dạy của Ngài (1).

Duyên nợ đức Phật với cây xoài không chỉ có ở đời tiền thân. Sau nầy, trong sách vở còn thấy Ngài ở Jetavana (Kỳ đà viên), lúc vua Prasenajit (Ba tư nặc) tổ chức một cuộc tranh luận giữa Ngài và 6 vị chủ trì những giáo phái cùng thời. Thấy như lần nầy, tài hùng biện của Ngài không đủ để thuyết phục các vị kia, và mặc dầu ít thích dùng đến những quyền lực siêu nhiên, Ngài cho mọc lên một cây xoài lộng lẫy đầy trái (theo các môn phái phương bắc, Ngài xuất hiện trên một toà sen một nghìn cánh), ngồi xuống gốc cây rồi vươn lên trên không, cho tỏa ra bốn phương nào lửa nào nước trước khi biến hóa thân mình ra thiên hình vạn trạng, một hiện tượng mà môn hình tượng học gọi là Phép lạ Sravasti (Xa vệ). Đằng khác, vào thời vua Bimbisara (Tần bà sa la), vị lương y Jivaka (Kỳ bà) được nhà vua cử chăm nom sức khỏe cho tăng đoàn, tặng đức Phật một công trình xây dựng to lớn gọi là " vườn xoài " Jivakambavana. Sau nữa, vào gần cuối đời, sử Phật kể Ngài ở lại trong một vườn xoài của bà Ambapali ở vùng Vaishali (Tỳ xa li). Người kỷ nữ nầy sắc đẹp vô song, thường đi lại với nhiều vị quốc vương. Truyền thuyết bảo bà đã có một đứa con với vua Bimbisara, hoàng tử nầy đã sớm theo làm đồ đệ đức Phật. Ngay bà Ambapali cũng xin thọ giáo theo Ngài. Ngay sau khi Ngài nhận lời đến dùng cơm ở nhà bà, những hoàng thân Licchavi của Hợp ban Vrji (Bạt kỳ) cũng muốn mời Ngài, Ngài nhất thiết từ chối để giữ lời hứa với bà Ambapali, bất chấp quan niệm đẳng cấp rất khắc khe thời ấy. Sau đó, bà cúng dường toàn cánh vườn xoài cho đức Phật, trở nên một nơi được hậu thế ghi chép và viếng thăm. Ngài ở đó ít lâu trước khi lên đường di Beluva Grama và mắc bệnh.... (2)

Xoài là một cây cao khoảng 15-20 m, tươi xanh suốt năm, lá nguyên, thuôn dài, rộng 5-7 cm, dài 15-30 cm, trái khá to, hình thận, thịt mọng nước, thơm, ngon, ngọt, hạch dẹt, cứng, ngoài có những thớ sợi. Cây xoài nguồn gốc ở các nước nhiệt đới Á Đông như Ấn Độ, Myanmar, Mã Lai, Việt Nam,…, nay mọc cả bên các nước nhiệt đới Phi châu, Mỹ châu và vài nước ở Âu châu. Thuộc họ Đào lộn hột Anacardiaceae, xoài mang tên La Tinh Mangifera indica L. Người Âu Mỹ gọi nó là mango, mangue, manguier, từ danh từ manga của Malabar. Tuy mang cùng tên, nó có hàng chục loại ở Á châu : Alphonso, Chausa, Safeda,…(Ấn Độ) ; Keaw, Khieo, Sawoei,…(Thái Lan); Sannian, Lusong, Martssu,…(Trung Hoa) cũng như ở Mỹ châu : Cheiro, Chana, Bacuri,…(Brazyl) ; Paheri, Adams, Zill,…(Puerto Rico) ; Kensington (Hoa Kỳ) ; Úc châu : Bowen. Swai là tên Campuchia, bên Lào gọi nó mak mouang. Ở bên ta, cây xoài trồng phổ biến khắp miền Nam, tại miền Bắc nhiều nơi như Yên Châu (Sơn La) cũng đã trồng. Bên cạnh xoài cơm, xoài thanh ca, hai loại thường gặp là xoài tượng, trái lớn, và xoài cát, trái nhỏ và dẹp hơn nhưng cũng ngọt hơn. Ngoài ra, ở ngoài Bắc, còn có cây quéo Mangifera reba và cây muỗm Mangifera foetida trái gần giống xoài nhưng vỏ dày, vị chua hơn và kém ngọt (ĐTL, LTĐ, VVC).

Xoài có mùi thơm tho, lẽ tất nhiên các phòng khảo cứu đã xem xét cấu chất của nó, chú trọng nhiều đến những hoá chất dễ bốc hơi. Song trên thế giới ngày nay có nhiều loại, theo khí hậu, đất đai, có thành phần không giống nhau, từ đấy hương vị cũng rất khác nhau. Bên Ấn Độ, trong 152 chất hương đã được xác định trong trái xoài Alphonse tươi, chín, 90% là mono và sesquiterpen. Trong trái xoài Safeda, sesquiterpen chiếm 50% gồm có humulen, caryophyllen, selinen, gurjumen,… Farnesolid và farnesendiol là thành phần sesquiterpen vỏ thân xoài Chausa. Ở Thái Lan, trái xoài Sawoei chứa nhiều nhất hexanal, hexenal, hexenol, terpinen, ocimen, còn trong xoài Keaw thì bên cạnh hexanal, hexenal, đã tìm ra được terpinolen, furanon, caren, pinen, damascenon ,…Bên Trung Hoa, nếu xoài Sannian rực mùi terpinolen, những loại ít thơm hơn như Lusong, Martssu không có chất ấy nhưng chứa đựng caryophyllen. Ở Brazyl, Venezuela, tùy theo loại, ở mỗi loại, nhiều nhất là terpinolen, caren, ocimen hay myrcen. Terpinolen cũng là chất có nhiều nhất cùng với ethyl butanoat bên cạnh những ester trong số những chất dễ bốc hơi của xoài Bowen và Kensington. Nói chung, terpinolen, caryophyllen (mùi hoa) cùng caren (mùi hắc cay), myrcen, ocimen (mùi cỏ) có mặt trong đủ loại xoài và thường là những chất nổi trội, hòa lẫn với những chất tuy số lượng ít hơn cũng góp phần vào mùi hương đặc biệt của xoài : acetophenon, phenylacetaldehyd (mùi ngọt), humulen, valencen (mùi hoa), pinen (mùi hương), trichloroethylen (mùi trái), selinen (mùi hạnh), toluen (mùi bơ, đường thắng), limonen (mùi chua), phellandren (mùi mỡ), cymen (mùi cỏ), acetylfuran (mùi nhựa), benzaldehyd (mùi gỗ), dimethyl sulfid (mùi lưu huỳnh)…(5)

Vỏ cây xoài chứa nhiều chất phenolic : mangiferin, catechin, epicatechin, những gallic, benzoic, hydrobenzoic acid cùng những ester. Bên Ấn Độ, trong vỏ cây xoài Desi có mangdesisterol, mangfarnasoic acid, mangeudesmenon, trong vỏ cây xoài Dusehri có mangsterol, manglupenon, mangcoumarin. Mangiferin cùng với isomangiferin, homomangiferin là những xanthon có nhiều nhất trong các loại xoài Ai Cập. Vỏ hạch xoài chứa sitosterol, catechin, epicatechin, leucocyanidin. Một số hóa chất đã được xác định trong thân cây xoài : mangiferin, kaempferol, astragalin, quercetin, isoquercetin trong lá ; mangiferin, quercetin isoquercetin, gallotannin, những ellagic, gallic, digallic và trigallic acid trong trái ; dihydrogallic và 6 alkylgallat trong hoa ; quercetin, isoquercetin, gallotannin, gallic và digallic acid trong chùy hoa. Nói chung nếu gallotannin tìm ra được nhiều ở trái chưa chín và hạch, mangiferin có nhiều ở lá, cành và rễ cây. Là một flavonoid chất sắc của xoài, mangiferin đã được khảo cứu nhiếu từ những thập niên 50 và một cấu tạo tetrahydroxanthon đã được đề nghị, xác nhận dưới hình thức C-glycodid. Ở Việt Nam ta đã có chiết xuất nó từ vỏ thân và lá cây (9), dùng bức xạ bảo quản trái (14) trong khi ở Trường Đại học Tổng hợp Cần Thơ đã có khảo cứu phương cách cải tiến chất lượng xoài cát Hòa Lộc trồng ở đồng bằng sông Cửu Long (26).

Về chất sắc, ngoài mangiferin, xoài còn chứa ở lá và trái anthocyanin, chlorophyl, carotenoid. Trong loại xoài Keitt, carotenoid gồm có caroten, violaxanthin và violaxanthin. Khi ép nước xoài, volaxanthin biến mất, nhường chỗ cho auroxanthin và caroten trở nên carotenoid nhiều nhất. Nói chung, caroten thường là carotenoid nổi trội nhất trong các loại xoài trước luteoxanthin và violaxanthin. Song song với caroten tức provitamin A, ascorbic là vitamin C cũng có mặt trong trái xoài, nhiều nhất khi trái chín, ở vỏ trái và phần cơm gần vỏ. Mỡ chiết xuất từ hạch xoài ở Madagascar đem phân tích cho thấy 15 acid béo, nhiều nhất là những palmitic, stearic, oleic và linoleic acid, bên cạnh những sterol. Những triglycerid phát hiện trong hạch được xem như tương đương với bơ cacao. Trong xoài Senegal, bên cạnh aglycon như terpineol, carvacol, furanol, hexanol, hexenol, .... đã được xác định các acid mỡ như những myristic, stearic acid và nhiều glycosid. Những acid béo có nhiều trong xoài Alphonso là myristic, palmitic, palmitoleic, stearic, oleic, linoleic, linolenic acid. Tỷ lệ hai palmitic và palmitoleic acid xác định hương vị của xoài, thay đổi với độ chín của trái. Stearic và oleic acid chiếm phần lớn trong hạch xoài. Trong cây xoài cũng có một số amin acid : methionin, cystin, leucin, isoleucin, glycin, histidin, aspartic acid trong hạch ; alanin, salin, threonin, tryptophan trong hoa ; alanin, glycin, leucin, tyrosin, valin, aminobutyric acid trong lá. Trái xoài ngọt nhờ chứa đựng nhiều đường như sucrose, fructose, glucose. Glucose là chất đường quan trọng nhất trong số các saccharide glucosid bên cạnh arabinose và chút ít rhamnose. Trong hoa cũng có glucose, galactose và arabinose.

Có đường, có mỡ, có protein, có sinh tố, lại có thêm kim loại và khoáng chất như Mg, Ca, Na, K, Cu, Zn, Fe, Co trong vỏ trái (12), xoài tất nhiên được xem là một thức ăn bổ ích cho con người và cho gia súc, đặc biệt ở Nigeria. Lá xoài được dùng làm thức ăn cho dê ở Ấn Độ, hạch xoài cho gà ăn ở Ai Cập, Tích Lan. Gallic acid, quercetin ở phần chiết bằng cồn từ lá có tính chất chống hoạt động trùng cúm (6). Nước sắc từ lá có khả năng hạ thấp số đường trong máu nhờ giảm bớt sự hấp thu glucose trong ruột (15). Bên Cuba, vỏ cây được cho vào nước sắc dùng làm thức ăn, trong mỹ phẩm hay y dược có tính chất phản oxy hóa, chống co thắt (25), kích thích cuộc sản xuất bạch huyết bào, ngăn cản trùng Candida albicans bám dính (16), được biến thành thuốc xức, chứa polyphenol, có tính chất chống viêm (13). Mang tên Vimang, chứa mangiferin, chống viêm, nó còn là một thuốc giảm đau, có tác dụng ức chế hoạt động của đại thực bào, được dùng trong những liệu pháp miễn dịch bệnh học (24) cho nên được đề nghị dùng làm thuốc bổ dưỡng, chống già (4). Nhờ những tính chất phản oxy hóa ấy mà phần chiết từ xoài giảm hạ số neuron bị tiêu hủy và ngăn cản cuộc oxy hóa trong não (21). Cũng nhờ chứa đựng polyphenol mà phần chiết hạch trái với cồn, có tính chất kháng vi sinh vật, mãnh liệt đối với những vi khuẩn Gram dương hơn Gram âm (17). Thử trên chuột, một phần chiết chứa đựng 2,6% mangiferin, gia tăng kháng thể thể dịch, cản trở loại tăng cảm ứng nên có thể dùng làm thuốc với những tính chất kích thích miễn dịch (20). Ở Trung Hoa, hạch xoài có nhiều lipid, được đề nghị dùng làm thế bơ trái cacao (8), vỏ trái dùng làm giấm giàu sinh tố (11) . Chất mỡ chiết từ hạch trái, với độ nhớt 44,84 P ở thể lỏng, với khả năng phóng thích mau chóng và đầy dử salicylic acid, được dùng làm thuốc đạn tốt hơn bơ cacao (11). Trong thí nghiệm chống khối u với những tế bào Raji mang bộ gen độc trùng Epstein Barr, vỏ trái có khả năng tiêu hủy những kháng nguyên (18). Nhựa cây có tính chất chống nấm, khử trùng, có hiệu lực lên Escherichia coli, Bacillus cereus và những loại Penicillum (23). Liệt kê vào bảng những cây làm ẩm, xoài được chiết dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da, tóc (19,22).

Trái xoài chín là một thức ăn ngon ngọt. Trái xoài xanh cũng được nhiều người thưởng thức với muối. Người ta đã chế mứt, đóng hộp, sấy khô để ăn, làm nước để uống. Cây xoài nói chung cũng được dùng làm thuốc. Trong dân gian, vỏ thân giả vắt lấy nước hay đem sắc dùng chữa sốt, đau răng, thấp khớp, trị sưng viêm, lở loét, bệnh ngoài da, rửa khí hạch đới của phụ nữ. Nhựa cây hòa với nước chanh dùng bôi ghẻ. Vỏ quả có tác dụng cầm máu tử cung, khái huyết, chảy máu ruột, chữa rong kinh, ho khạc, đại tiện ra máu, ly mạn tính, bạch đới. Hạch xoài tán bột chữa máu tử cung, trị giun, chữa tiêu chảy.

Duyên nợ đạo Phật với cây xoài vẫn còn tiếp tục sau khi Ngài nhập diệt ở Kusinara (Câu thi na). Huyền sử chép rằng Ayodhya (A du già) là nơi mà Asanga (Vô Trước) , người sáng lập phái Cittamatra hay Yogacara (Duy tâm) vào thế kỷ 4, mời đức Di Lặc hạ giới giáo hóa. Suốt bốn tháng liền, Asanga cứ ban đêm nghe Di Lạc giảng thì ban ngày giảng lại cho đại chúng. Di Lặc được xem là tác giả bộ Yogacarabhunisastra mà Huyền Trang dịch ra chữ Hán là Du già sư địa luận. Năm 635, Huyền Trang đến thăm tu viện nằm trong một vườn xoài, nơi mà chính Asanga lại là người giảng cho em là Vasubandhu (Thế Thân), luận sư của Sarvastivadim (Nhất thiết hữu bộ) và của Vijnanavada (Duy thức tông), được ngộ lý Duy thức. Sau khi đại ngộ, Vasubandhu định rút dao cắt lưỡi vì từ xưa đến nay luôn luôn phát biểu chống Duy thức nhưng Asanga lại là người cứu em khỏi câm. Ayodhya là quê hương tâm linh của Huyền Trang vì ông chính là người đem phái Duy thức về Trung Quốc dưới tên Pháp tướng tông (3). Cùng với sen, xoài thật là một loài thảo mộc chí thiết của lịch sử Phật giáo.
 

Nghiên cứu và Phát triển 3(41) (2003) 30-41, 
khoahoc.net 12.06.2008
Tham khảo

1-Ginette Terral, Choix de Jakata, dịch từ Pali qua Pháp ngữ, Connaissance de l'Orient, Collection UNESCO, nxb Gallimard, Paris (1958) 166-171

2-Véronique Crombé, Le Bouddha, " Biographies ", nxb Desclée de Brouwer, Paris (2000) 136-137, 155-156

3-Nguyễn Tường Bách, Mùi hương trầm, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2001) 49, 101, 546

4- S.Iseda, Mangiferin, the coloring matter of Mangifera indica. IV.Isolation of 1,3,6,7-tetrahydroxyxanthone and the skeletal structure of mangerin, Bull.Chem.Soc. Japan30 (1957) 625-9

5- A.J. MacLeod, N. Gonzales de Troconis, Volatile flavour components of mango fruit, Phytochem. 21(10) (1982) 2523-6

6- Z.Lu, H.Mao, M.He, S.Lu, Studies on the chemical constituents of the peels of Mango (Mangifera indica) leaf, Zhongcaoyao13(3) (1982) 3-6

7- H.Kundu, B.K.Sahu, N.C.Panda, Chemical composition and nutritive value of mango (Mangifera indica) leaves for goats, Indian Vet.J. 62(9) (1985) 811-2

8- H.Wang, X.Yu, The composition of fatty acids in kernel fats of 32 varieties of Mangifera indica, Yunnan Zhiwu Yanjiu 11(2) (1989) 223-6

9- Pham Xuan Sinh, Pham Gia Khoi, The extraction and determination of the flavonoid mangiferin in the bark and leaves of Mangifera indica, Tap Chi Duoc Hoc (5) (1991) 8,19

10- L.Wang, W.Su, D.Tang, Preparation of mango vinegar, Zhonguo Tiaoweipin (7) (1997) 8-9

11- C.A.Uzoho, C.N.Ejezie, S.I.Ofoefule, Physico-chemical properties of Mangifera indica sed fat used as suppository base, Nigerian J.Nat.Prod.Med. 1(1) (1997) 32-4

12- E.I.Adeyeye, F.A.Arogunjo, The nutritional value of the fruits from Pyrus communis, Irvingia gabonensis, and Mangifera indica consumed in Negeria, Riv.Ital.Sostanze Grasse, 74(3) (1997) 117-21

13- A.Boza, L.Arus, O.Garcia, A.J.Nunez-Selles, Preformulation of cream and ointment from dry extract of the bark of Mangifera indica L., Informacion Tecnologica 11(4) (2000) 125-31

14- Kieu Ngoc Lan, Nguyen Duy Lam, T.Kume, Application of irradiated chitosan for fruit preservation, JAERI-Conf. (2000) 101-6

15- A.O.Aderibigbe, T.S.Emudianughe, B.A.Lawal, Antihyperglycaemic effect of Mangifera indica in rat, Phytother.Res. 13(6) (1999) 504-7

16- A.J.Selles et al., New antioxidant product derived from Mangifera indica L., Am.Chem.Soc. (Abstr.Pap.) 220th MEDI-155 (2000)

17- T.Kabuki, H.Nakajima, M.Arai, S.Ueda, Y.Kuwabara, S.Dosako, Characterization of novel antimicrobial compounds from mango (Mangifera indica L.) kernel seeds, Food Chem. 71(1) (2000) 61-6

18- A.M.Ali, L.Y.Mooi, K.Y.Yih, A.W.Norhanom, K.M.Saleh, N.H.Lajis, A.M.Yazid, F.B.H.Ahmad, U.Prasad, Anti-tumor promoting activity of some Malaysian traditional vegetable (ulam) extracts by immunoblotting analysis of Rajis cells, Nat.Prod.Sci. 6(3) (2000) 147-50

19- T.Kawai, K.Minoura, K.Wakamatsu, Comestics containing moisturizing plant extracts, Jpn.Kokai Tokkyo Koho JP 2001031552 A2 20010206 (2001) 21 tr.

20- N.Nakare, S.Bodhankar, V.Rangari, Immunomodulatory activity of alcoholic extract of Mangifera indica L. in mice, J.Ethnopharm. 78(2-3) (2001) 133-7

21- G.Martinez Shanchez, E.Candelario-Jalil, A.Giuliana, O.S.Leon, S.Sam, R.Delgado, A.J.Nunez Selles, Mangifera indica L. Extract (QF808) reduces ischaemia-induced neuronal loss and oxidative damage in the gerbil brain, Free Rad.Res. 35(5) (2001) 465-73

22- T.Kawai, K.Minoura, K.Wakamatsu, Comestics, bath preparations, and detergents containing plant extracts as moisturizers, Jpn.Kokai Tokkyo Koho JP 2001039823 A2 20010213 (2001) 24 tr.

23- P.S.Negi, K.S.John, U.J.S.P.Rao, Antimicrobial activity of mango sap, Eur.Food Res.Tech. 214(4) (2002) 327-30

24- D.Garcia, R.Delgado, F.M.Ubeira, J.Leiro, Modulation of rat macrophage function by the Mangifera indica L. extracts Vimang and mangiferin, Int.Immunophar. 2(6) (2002) 797-06

25- A.J.Nunez Selles, H.T.Velez Castro, J.Aguero-Aguero, J.Gonzales-Gonzales, F.Naddeo, F. De Simone, L.Rastrelli, Isolation and quantitative analysis ofphenolic antioxidants, free sugars, and polyols from mango (Mangifera indica L.) stem bark aqueous decotion used in Cuba as a nutritional supplement, J.Agric.Food Chem. 50(4) (2002) 762-6

26- Tran Van Hau, T.Radanachaless, K.Ishihata, T.Shioya, Flower induction with chemicals in Cat Hoa Loc mango trees grown in the Mekong Delta in Viet Nam, Nettai Nogyo46(2)
(2002) 59-65
 

 

[ trang trước ]  /    [ trang sau ]
Hết Tập 2