Sầu
riêng, măng cụt Cái Mơn,
Nghêu
sò Cầu Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.
Câu
hát dân gian
"Mùa
đông về dằng dặc trong tiếng động nghìn trùng của mưa
trên lá. Tưởng không còn gì để trông ngóng ở khu vườn
trước lúc sang xuân, thì đến tháng mười một, măng cụt
chín, như một quả vui đột xuất cuối năm. Đây là mùa thu
hoạch chính của những khu vườn vùng Kim Long. Quả măng, người
Huế còn gọi là trái giáng châu, lúc chín màu tím sẫm, ở
rốn quả nổi lên một hình hoa nhỏ, nhìn hoa có bao nhiêu
cánh thì biết bên trong có bao nhiêu múi. Hình như nó chẳng
có tác dụng gì cả ngoài việc khiến người ta ưa nhìn đến
nó, giống như hạt cúc giả trên áo phụ nữ, vì thế bà
Lan Hữu tạm giải thích rằng đó là cái bản năng tự trang
sức của thiên nhiên ở nơi cây măng cụt" (1).
Cây
măng cụt người Tàu gọi là sơn trúc tử tuy nó không mọc
bên Trung Quốc, người Huế gọi gọn nhẹ cây măng, mang tên
khoa học
Garcinia mangostana L., thuộc họ Bứa
Guttiferae.
Người
Phápgọi nó mangoustanier, Anh Mỹmangosteen, có khi
manggis.
Cách gọi nầy của người nước ngoài có ảnh hưởng gì
đến tên của ta không vì phần lớn các cây
Garcinia
khác đều mang tên bứa : bứa lửa, bứa nhà, bứa mọi, bứa
núi (PHH) ? Còn tên gọi đài các ở Huế là giáng
châu, như ngọc trên trời ban xuống, thì có lẽ từ cung đình
mà ra. "Thiết nghĩ cây măng cụt sống được trên đất Kim
Long phải có từ lâu, có lẽ từ thời Hiền Vương Nguyễn
Phúc Tần khi mở đất tới xứ Đồng Nai, nếu không cũng
phải thời Gia Long lên ngôi nhận sản vật hai miền cung tiến
ra kinh đô. Bởi tương truyền giống măng cụt do bà Từ Dũđem
từ trong Nam ra .... " (2). Giáng cũng còn có nghĩa đỏ
tía, châu chỉ định một cây có lòng đỏ, một màu đỏ
thắm như trong châu sa, châu tử, châu thần thì cách lấy tên
nầy đặt cho măng cụt cũng dễ hiểu thôi.
Cây
măng cụt nguồn gốc Mã Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku,
ngày nay bắt gặp khắp Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Miến Điện
cũng nhưở Tích Lan, Phi Luật Tân, được các nhà truyến giáo
đạo Gia tô di thực vào miền Nam nước ta (ĐTL), rồi trồng
nhiều ở các tỉnh Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ởđây
khí hậu cũng nóng ấm nên cây dễ mọc, nhưng nó không tiến
được xa lên miền Bắc lạnh lẽo, xa lắm là đến tận Huế.
Có người đã từng ngạc nhiên : "Cây măng cụt chẳng hạn,
từ miền Đông Nam Bộ nó nhảy qua suốt một dải miền Trung
rồi xuất hiện trở lại ở những khu vườn Huế" rồi thắc
mắc "Riêng tôi vẫn thấy một điều lạ chưa giải đáp được
về cây măng cụt ở Huế, sao chịu về đây để chín bằng
mưa dầm gió bấc, sao chín được bằng sức đông lạnh của
Huế ? Dầu sao, nhờ có mùa măng, vườn An Hiên vẫn giữ được
phong độ qua buổi vạn vật tàn phai" (1). Cách thức
thích ứng nầy của cây măng cụt với thời tiết đã gây
ra một hiện tượng khá lạ. "Mùa măng cụt ở Huế lại so
le với mùa măng cụt ở Nam Bộ. Vì vậy khi măng cụt miền
Nam hút trái, giống trái cây nầy được nhiều người ưa
chuộng, măng cụt Huế đang mùa trổ quả lại được buôn
ngược vào trong Nam. Riêng người Huế thì ăn được cả hai
mùa trái cây của hai miền đất nước. Có được điều đó
hẳn do phong thổ ở Huế khác hơn. Hiện nay vườn măng cụt
ở Huế sai quả nhất Kim Long phải kể đến vườn ông Lê
Tự Thái, mỗi gốc cây có tuổi đời già hơn tuổi của mấy
đời chủ nhân... Măng cụt Nguyệt Biều trồng nhiều song
người Huế vẫn chuộng trái của vườn Kim Long " (2).
Măng
cụt là một loại cây to, có thể cao tới 20-25m. Lá dày, dai,
màu lục sẫm, hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc.
Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to bằng
quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ
tươi như rượu vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía
đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh
hạt có áo hạt trắng, ăn ngọt thơm ngon (LTĐ). Như các loại
quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường : sucrose,
fructose, glucose và có thể cả maltose. Nó thơm nhờ một số
lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng tinh dầu chiết
xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số ấy
hơn 30 chất đã được xác định
(5). Nhiều nhất
là (%) hexenol (27,27), tương đối ít hơn là octan (14,76) đứng
trước hexyl acetat (7,87), copaen (7,28), aceton (5,65), furfural (4,89),
hexanol (4,38), methyl butenon (4,34), toluen (2,80). Những chất khác
đều dưới 2% nhưng góp phần với các chất trên cấu thành
hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat
đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal,
hexanol, alfa bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với alfa-copaen,
mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi huệ dạ hương với
phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với
pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd,
mùi hồ đào với delta cadinen. Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp
tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, alfa-terpinol đem lại mùi
đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu, valencen đặc biệt
mùi mứt cam. Đáng để ý là nếu furfurl methylceton cống hiến
hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi
hôi khó ngửi. Qua ví dụ một trái măng cụt, ta thấy hương
vị thiên nhiên quả là phức tạp.
Áo
hạt măng cụt không thấy được khảo cứu. Phần lớn các
công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần chính đã được
xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là những
mangostin, những isomangostin, normangostin bên cạnh trioxyxanthon,
pyranoxanthon, dihydroxy methyl butenyl xanthon, trihydroxy methyl butenyl
xanthon, pyrano xanthenon. Những garcinon, mangostinon, garcimangoson,
gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc
Việt Nam (8), benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng
đã được tìm ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày
thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8%),
tanin (11,2%), đã được xác định những trihydroxy methoxy methyl
butenyl xanthon, ethyl methyl maleimid glucopyranosid, cùng những triterpenoid
như cycloartenol, friedlin, sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic
acid, cyclolanostendiol, hydroxy cyclolanostenon. Từ ruột thân cây,
tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy
xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra. Còn tử y thì chứa
đựng mangostin, những calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy dimethyl
allyl xanthon.
Trái
măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ
lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống khoa học đời sống
ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc
biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dịứng, làm giản
phế quản trong cuộc điều trị hen suyển. Nó cũng được
xem như là những thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ, kháng vi
khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch. Người
Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da (ĐTL). Người
Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng,
đi tiêu lỏng, bệnh vàng da. Theo Đông y, vỏ quả măng cụt
có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng,
có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu
chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi,
dùng lâu sinh táo bón (BKT). Cách thức dùng tương đối dễ
: bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể
thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ
cho cạn chừng một nữa, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần
120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc
phiện (ĐTL). Những công tác khảo cứu mới cho biết những
tính chất của vỏ trái : nhờ chất epicatechin, nó chống oxi
hoá (25) ; nhờ những flavonoid, nó ức chế hoạt động
sản xuất acid của trùng
Streptococcus mutans GS-5 (26).
Trong
số các xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất
là những mangostin. Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn
Staphylococcus aureus
ở nồng độ 7,8 microg/ml (5,6)
, lên các nấm
Fusarium oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis,
Dreschlera oryzae
(15),
Trichophyton mentagrophytes,
Microsporum gypseum
(6,7),
Epidermophyton floccosum ở
nồng độ 1 microg/ml (22), Mycobacterium tuberculosis
ở nồng độ 6,25 microg/ml (22) . Đem thử trên
heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ
tế bào bám dính miễn dịch (4). Đặc biệt mangostin
ức chếBacillus subtilis ở nồng độ 3,13 microg/ml,
Staphylococcus
aureus NIHJ 209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57 microg/ml,
tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin
(11).
Mangostin thì chống sự oxi hóa lipid (14), ức chế
sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do các tế bào đại
thực gây ra (24) . Cả hai mangostin đều có tính chất
chống dịứng ; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh
nhân bị chứng sổ mũi mùa (16). Cả hai ức chế
sự co của động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin
và serotonin tác động
(13). Nói chung, cả hai đều
là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin,
tức là những tác nhân điều trị đắc lực những bệnh
biến dị ứng
(17). Hai chất nầy, chiết xuất từ
măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc,
kháng oxi hóa (18). Một phần chiết măng cụt gồm
có mangostin ức chế VIH-1 protease (IC50=5,12 và 4,81
microM) (10) .
Đứng
về mặt ứng dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy,
thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất kháng vi sinh vật
(23).
Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay ergonol ức chế
Helicobacter
pylori đã được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ
dày. Mangostin có công hiệu trên Helicobacter pylori ở nồng
độ 1,56 microg/ml (12). Nó ức chế glucosyl transferase
phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và collagenase
do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi
nên được dùng trong thuốc đánh răng
(21), có khả
năng ngừa chặn sâu răng và mảng răng
(19). Nó cũng
được trộn với nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl
phosphat, dimethicon, eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen
glycol, triethanolamin, .... để làm một loại thuốc bảo vệ
chống ánh nắng mặt trời (18). Nhờ tính chất ức
chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50 microg/ml trong
một dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc
kích thích tiêu mỡ(20).
Một
cô gái Huế sống tha hương bên chân trời Đức băng giá,
không có cây măng cụt trong vườn và chắc cũng không có nhiều
quả măng cụt trong tủ lạnh, một lần về thăm thành phố
quê nhà đã đặc biệt rung cảm thưởng thức trái cây với
tị triết lý : "Hãy lắng nghe tiếng động của quả Giáng
Châu đang rơi trong vườn, đểđừng hất hủi không về với
Huế nghèo nàn trong buổi cuối đông. Giáng châu trên cành
dù cho chín tới vẫn chưa phải là giáng châu, phải đợi
một thời điểm nống ấm vừa tầm - như tiếng nhắc nhở
của nắng sớm qua hương hoa mộc - giáng châu rơi xuống, chạm
đất - phải "rơi và chạm" như một nghi lễ hành thâm, như
sự cúi xuống của giọt nắng đầu tiên - đó là bí mật
vị ngọt thanh khiết vô song của những múi giáng châu trinh
nguyên, hái trên cành không chạm đất giáng châu vẫn còn
giữ một vị chua chưa đủ xứng danh là viên ngọc của trời
riêng tặng cho đất .... Nếu chín trong lòng nắng không ấm
không nồng làm sao giáng châu trở thành một giáng tiên trong
mùa đông ở Huế ? "
(3). Trong giấc mơ nơi đất
khách nghe tiếng giáng châu "rơi và chạm" vào đất, giật
mình thức giấc, thế nào cô gái kia không nhớđược về
vườn nhà sai quả êm dịu trong ánh nắng mùa thu !
Nghiên
cứu và Phát triển 4(38)2002,
khoahoc.net
29.09.2005
Tham
khảo
1-
Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoa trái quanh tôi trong Huế,
Di
tích và con người, nxb Thuận Hóa, Huế (1995)
2-
Nguyễn Hoài Hương,
Kim Long - Vườn xanh xứ Huế,
Nhớ
Huế 8 - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000)
131
3-Thái
Kim Lan, Nắng Phú Xuân,
Diễn Đàn forum, Paris (2)
(2002) 4
4-
C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, L. Kameswaran, S.K. Nazimudeen,
Effect of mangostin, a xanthone from Garcinia mangostana Linn, in immunopathological
and inflammatory reactions,
Indian. J. Exp. Biol. 18(8)
(1980) 843-6
5-
W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, C. Jansakul, P. Wiriyachitra, Screening
of antibacterial activity of chemicals from Garcinia mangostana, Warasan
Songkhla Nakkharin5(4) (1983) 337-9
6-
W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, P. Wiriyachitra,
Screening of antifungal
activity of chemicals from Garcinia mangostana,
Warasan Songkhla
Nakkharin 5(4) (1983) 341-2
7-
W. Mahabusarakam, P. Wiriyachitra, S. Phongpaichit,
Antimicrobial activities
of chemical constituents from Garcinia mangostana Linn.,
J. Sci.
Soc. Thailand, 12(4) (1986) 239-43
8-
M. Yoshikawa, E. Harada, A. Miki, K. Tsukamoto,
Antioxidant constituents
from the fruit hulls of mangosteen (Garcinia mangostana) originating in
Vietnam, Yakugaku Zasshi114(2) (1994) 129-33
9-
F. Asai, H. Tosa, T. Tanaka, M. Iinuma, A xanthone from pericarps of
Garcinia mangostana, Phytochemistry39(4) (1995) 943-4
10-
S.X. Chen, M. Wan, B.N. Loh,
Active constituents against HIV-1 protease
from Garcinia mangostana,
Planta Med.
62(4) (1996) 381-2
11-
M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, F. Asai, Y. Kobayashi, R. Shimano, K.I.
Miyauchi, Antibacterial activity of xanthones from guttiferaeous plants
against methicillin-resistant Staphylococcus aureus, J .Pharm.Pharmacol.
48(8) (1996) 861-5
12-
H. Hasegawa, S. Sakai, N. Aimi, H. Takayama, T. Koyano, Helicibacter
pylori inhibitors containing xanthones from Garcinia mangostana,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08231396 A2 19960910 Heisei (1996) 5tr.
13-
N. Chairungsrilerd, K.I. Furukawa, T. Ohta, S.Nozoe, Y. Ohizumi, Histaminergic
and serotonergic receptor blocking substances from the medical plant Garcinia
mangostana, Planta Med.
62(5) (1996) 471-2
14-
M. Yoshikawa, T. Yoshizumi, Natural antioxidant g -mangostin isolation
from mangosteen,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08225783 (1996) 6tr.
15-
G. Gopalakrishnan, B. Banumathi, G. Suresh,
Evaluation of the antifungal
activity of natural xanthones from Garcinia mangostana and their synthetic
derivatives, J. Nat. Prod. 60(5) (1997) 519-24
16-
K. Oizumi, K. Furukawa, , N. Chiranshilart, T. Ota, S. Nozoe, Antiallergic
agents containing extracts of Garcinia mangostana pericap or magostin,
and antiallergic foods containing them,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
10072357 A2 19980317 Heisei (1998)6tr.
17-
Y. Ohizumi, Search for receptor blocking substances from natural resources
and their pharmacological studies,
Int. Congr. Ser. (1998) 1157
(Towards Natural Medecine Rexsearch in the 21st Century) 103-112
18-
J. Gedouin, R. Vallee, Sunscreen composition containing mangostin,
Fr. Demande FR 2754447 A1 19980417
(1998) 12tr.
19-
K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyl transferase inhibitors from plant
extracts for dentifrice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11343247 A2 19991214
(1999) 9tr.
20-
J. Gedouin, R. Vallee, Use of cosmetic compositions containing a substance
with a pyrone group,
Fr. Demande FR 2 7774 905 (1999) 18tr.
21-
K. Miyazaki, K. Osawa, Food and dentifrice containing anticaries and
anti-pyorrhea agents, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001247469 A2 2660911
(2001) 8tr.
51-
C.K. Ho, Y.L. Huang, C.C. Chen,
Garcinone E, a xanthone derivative,
has potent cytotoxic effect against hepatocellular carcinoma cell lines,
Planta Medica 68(11)(2002)975-9
22
- S. Suksamrarn et all., Antimycobacterial activity of prenylated xanthones
from the fruits of Garcinia mangostana,
Chem. Pharm. Bull.(Bangkok)
51(7) (2003) 857-9
23-Y.
Kato, S. Hosoda, Mangosteen extracts, their preparation, and antimicrobial
deodorant agents containing them,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003231607
A2 20030819 (2003) 9tr
24-
C.C. Wang, L.G. Chan, I.H. Lin, L.L. Yang,
Inducible nitric oxide synthase
inhibitors of Chinese herbs IV : Garcinia mangostana,
Abstracts
of Papers, 228th ACS National M2- J. Feng, T. Yamakuni,
E. Katoh, S. Hosoda, Y. Ohizumi,
Potent oxidative activity of unripe
fruits of Garcinia mangostana L.,
Nat. med. (Tokyo)
58(4)
(2004) 156-9
26-
Nguyen Thi Mai Huong, Phan Tuan Nghia, Nguyen Thi Ngoc Dao, Do Ngoc Lien,
Polyphenolic component of fruit skin of Garcinia mangostana L. and inhibitory
effect on acid production by Streptococcus mutans GS-5, Tap Chi
Duoc Hoc 44(6) (2004) 18-21
|