Ớt
nào cà ớt chẳng cay,
Gái
nào là gái chẳng hay ghen chống.
Vôi
nào là vôi chẳng nồng
Gái
nào là gái có chồng chẳng ghen.
Ca
dao
Ở
miền nam nước Pháp, Xứ Basque nằm dài dưới chân dãy núi
Pyrénées phía Đại Tây Dương, quanh thung lũng sông Adour, nguyên
từ ba vùng Soule, Labourd, hạ-Navarre, trong bốn thế kỷ XIV-XVII
dần dần bị nước Pháp láng diềng thôn tính. Ngày nay, thuộc
tỉnh Pyrénées-Atlantiques, Xứ Basque là một vùng chuyên về
chăn nuôi trồng trọt ở miền núi, đánh cá (Saint-Jean-de-Luz),
kỹ nghệ, thương mãi (Bayonne), du lịch (Biarritz) ở miền biển.
Người Basque không chỉ có trên đất Pháp, một phần lớn
sống bên Tây Ban Nha, bên kia dãy Pyrénées. Họ cùng nói một
thứ tiếng đặc biệt không giống một ngôn ngữ nào kề
cạnh. Họ rất nổi tiếng với thuật đấu bò (tauromachie),
đánh bóng cầu (pelote basque), những ca sĩ có giọng nam cao
(ténor) như Louis Mariano, Rudi Hirigoyen, .... và cái mũ nồi béret
vượt trùng dương qua tồn tại trên đất nước Việt Nam
ta.
Xứ
Basque ngày nay còn nổi tiếng với một gia vị quen thuộc của
ta là ớt ở làng ớt cạnh Bayonne. Ai đi ngang qua Espelette (tiếng
basque : Ezpeletako), không sao quên được những dãy nhà sơn
đỏ suốt thị trấn trang hoàng trên tường, ngoài hiên,
từ trên đến dưới, những chuỗi ớt khô đỏ thắm, ở
quán ăn, khách sạn, cũng như ở nhà bưu điện, tòa đốc
lý. Nhà văn Pierre Loti đã không ngớt ngắm nhìn trong cuốn
Ratmuncho (1897) : Nhà cửa nổi bật đây đó từ các rặng
cây. Khắp nơi, trên các hành lang bằng gỗ, những quả bí
ngô vàng, những bó đậu hồng nằm phơi ; khắp nơi, trên
tường, những chuỗi ớt đỏ xếp tầng như những tràng san
hô đẹp. Tất cả những thức nầy thu lượm từ mảnh đất
nuôi dưỡng thời xưa, theo cách thức ngàn năm, dự kiến những
tháng tối trời, nhiệt độ đã rời gót. Đặc biệt vào
dịp mùa tháng chín tháng mười, thị trấn còn náo động
hơn với chuyện mua bán ớt. Ngoài đường những chậu trồng
cây ớt, trái đã chín đỏ hay còn tươi xanh trang hoàng các
lối đi. Trong quán ăn, cà phê, những chuỗi ớt tươi đỏ
được treo phơi ngay từ trần nhà, choáng tất cả khoảng
trống còn lại. Trong các tiệm buôn, nhà hàng, người mua kẻ
bán tấp nập như ngày hội. Ngày hội nầy được chính thức
tổ chức cuối tháng mười. Vào lúc ấy dân làng hai ngàn
người phồng lên gấp mười .....
Tục
truyền một chiều thu vàng, một cụ già mang bị lom khom bước
vào làng. Ông đói bụng nhưng không có đủ tiền trả bửa
ăn ở quán. Ông nghĩ có đủ lòng tự tôn để không vào nhà
thờ xin miếng bánh. Khiêm nhường trong thân phận, ông không
dám vào lâu đài bá tước đòi được mời ăn. Lững thững
trên đường ra làng, ông thấy một cái nhà nhỏ, không có
gì đặc biệt, nhưng hai ông bà già đứng ngoài cửa cất
tiếng chào. Ông liền mạnh dạn xin ngủ nhờ trên đống rơm.
Khi ông xin một bát cháo thì hai ông bà lắt đầu buồn rầu
bảo lữa đã tắt, chỉ còn nồi cháo lạnh. Öng liền nói
không can gì, cứ xin cho. Xong, ông rút từ bị ra một gói bột
đỏ, cho vào cháo, tức khắc cháo nóng lên thơm phưng phứt
và cả ba người vui vẻ ngon ăn luôn hết nồi. Chuyện còn
kể hai ông bà chủ nhà đêm hôm ấy không ngủ nhiều nhưng
chưa nghe ai nói đến tính chất kích dục của bột ớt. Dù
sao, sáng hôm sau, trước khi từ biệt, cụ già cám ơn cặp
vợ chồng không chỉ bát cháo mà còn tính hiếu khách của
chủ nhà. Và cụ để lại vài hột giống để, như cụ nói,
cháo luôn được nóng để sưởi tấm lòng. Cụ chỉ dẫn
cách trồng dưới nắng mặt trời, cách hái vào cuối hè và
cách phơi trong những ngày mùa thu. Mấy năm sau, khi cụ đi
ngang lại qua làng, mọi vườn tược đều sum sê cây ớt,
nhà trong nhà ngoài đều treo nhan nhản những chuỗi ớt đỏ,
ông bá tước phải thuê thêm người làm vườn và vị giám
mục trong chiếc áo đỏ hoe khoe từ ngày khách ghé qua, làng
đã thịnh vượng lên ....vì cặp vợ chồng hào hiệp đã
chia sẻ bí mật cây ớt với mọi người trong làng.
Hiện
chưa biết rõ nhưng người ta tin cây ớt trồng cách đây 7000-9000
năm ở Nam Mỹ hay Trung Mỹ, được đem qua Âu châu thế kỷ
15, sau cuộc hành trình của Christophe Colomb, và được trồng
ở Espelette vào khoảng 1650. Người Aztèques gọi nó là chili
hay
chile,
chế
biến, chọn lọc từ cây gốc nguyên thủy
piquin, trộn
với ca cao làm thức uống bổ sức. Họ kê ớt thành ba loại
: cay ít, cay nhiều và cay đến nỗi phải bỏ chạy (!) hay
theo thứ tự cay (1-10) : Cholicero (1-3),
Anaheim (1-4),
Guindila (3), Ancho, Mulato, Nour (3-5),
Cubanelle
(4), Chipotle, Guajillo, Jalapeno, Morita (5-6), Fresno
(5-7),
Furila (7), Lombok, Chile de ârbol (8). Người Pháp gọi
nó là piment từ nguyên gốc La tinh
pimentum nghĩa
là chất sắc. Cũng còn có tên poivron phát xuất từ
poivre-long nghĩa là hột tiêu dài vì như tuồng Christophe
Colomb lầm ớt với tiêu đỏ và ngày nay danh từ poivron
chỉ định một loại ớt khác không cay. Bột ớt, thật ra
không cay lắm (trong bảng kê độ cay Scoville, ớt đứng ngang
hàng với tiêu ở phần dưới) đến đúng lúc để thế bột
tiêu rất đắc nhưng cần thiết trong các món ăn. Thuộc về
một trong các loài Capsicum (C. frutescens, C. pubescens,
C. baccatum, C. chinense, ....) họ Cà Solanaceae, cây ớt
ở Espelette là C. annuum gọi Gorria, ngày nay mang
tên Ớt Espelette (Piment d'Espelette, Espektako Biperra)
theo cách kê chính thức những thức ăn uống ở Pháp theo nguồn
gốc AOC của viện INAO từ năm 2000. Chỉ có ớt mười xã
có quyền mang tên nầy là Ainhoa, Cambo-les-Bains , Espelette , Halsou
, Itxassou , Jatxou , Larressore , Saint-Pée-sur-Nivelle , Souraïde và
Ustaritz (55 vườn, 400.000 cây) họp lại thành nghiệp đoàn.
Ớt chínmàu đỏ phải được trình bày theo ba thể thức :
-
ớt trái tươi sẵn sàng để chế biến, không có chút màu
xanh của trái chưa chín, hình thức đều đặn, độ dài giữa
7 và 14cm không kể cọng ;
-
ớt trái cột trên dây từng 2,3 hay 4 trái, nhiều dây họp
lại thành thừng gồm có 20, 30, 40, 60, 80 hay 100 trái đồng
đều ;
-
ớt bột, màu từ đỏ cam đến đỏ đậm, hạt bột không
đuợc quá 5mm, độ ẩm phải dưới 12%.
Bột
ớt còn phải cống hiến một cường độ khứu giác mà hương
thơm nổi trội là mùi trái cây, mùi trái nướng và/hay mùi
cỏ khô cộng thêm tính cay nồng nhưng đừng nóng bổng dù
giữ lâu hay mau trong miệng, miễn là dần dần đưa vào vòm
miệng một cảm giác nồng ấm.
Ở
Hungari, bột ớt phơi thật khô, chứa rất ít nước thỉ được
gọi paprika từ nguyên gốc tiếng Phạn pipari nghĩa
là tiêu. Có nhiều hạng paprika, thường được sắp
cay ít cay nhiều theo màu sắc : đỏ đậm, đỏ lạt, hồng,
vàng, .... Ở Cận Đông và Bắc Phi, ớt bột được nghiền
với dầu, tỏi, ngò, rau thơm cùng nhiều rau bản xứ khác
để làm thành một gia vị gọi là la harissa. Gia vị
chilli
hay chile bên nước Chili là ớt trộn với tỏi, tiêu,
đinh hương, thìa là, kinh giới ô. Bên Mexico, lê tàu (avocat)
nghiền thêm hành, chanh, cà chua và ớt thành món
guacamole
tức aguacate mole. Ở Louisane bên Hoa Kỳ thường được
sử dụng một nước chấm mang tên tabasco : đem ớt nghiền
nhỏ cho vào thùng làm bằng gỗ sồi uớp muối ba năm ; xong
khi thấy màu sắc và mùi vị đúng mức thì lấy ra ngâm với
dấm bốn tuần, lọc và cho vào chai. Ở Ấn Độ, ớt cùng
với tỏi và gừng cồng hiến chất cay cho ca ry. Ở Hàn Quốc,
dưa kim chi chế biến từ bắp cải thêm hành, tỏi, gừng,
ớt và muối hay tép mặn sawoojub giữ vài ngày trước
khi dùng. Bên các đảo Antlles một loại ớt không cay mang một
tên kỳ lạ : piment végétarien (ớt chay) ! Ở nước ta
có nhiều loại ớt (C. frutescens)
: ớt cà (var. grossum),
trái to vàng hay đỏ, tương đương với poivron của Pháp,
không cay ; ớt hiểm (var. microcarpum), ớt chỉ thiên
(var. fascilatum), trái nhỏ, mọc chỉ thẳng lên, rất
cay ; ớt tím (var. conoides), màu tím ; ớt sừng trâu (var.
acuminatum),
trái nhọn, rất cay ; ớt dài (var. longum) màu vàng
dùng làm kiểng ; nhiều nơi còn có ớt bị, trái to, màu đỏ
hay vàng ; ớt mọi cũng cay không kém. Trên thế giới có khoảng
200 loại ớt.
Về
mặt hóa học, ớt chứa vitamin C (nhiều hơn cả cam). Chính
từ ớt mà nhà hóa học Szent-Györgyi người Hungari đã chiết
xuất sinh tố nầy và được tặng thưởng giải Nobel năm
1937. Tuy nhiên, thường số lượng ớt được ăn rất ít,
đằng khác khi đem ớt nấu thì sinh tố mất đi. Ớt cay là
vì chứa chất capsaicin (một alcaloid), nhiều trong hột ớt,
có tính chất làm chảy nước miếng (nước bọt) và tác dụng
lên dịch vị để giúp sự tiêu hóa. Nó có tác dụng làm
nỡ giảng mạch máu, làm giảm hạ huyết áp từ đó giảm
hạ bệnh biến tim mạch. Nhờ có tính chất kích thích adrenalin
và noradrenalin (hai hormon), đốt cháy đường và mỡ, góp phần
vào nhiều loại thuốc chữa những chứng khó tiêu, lên men
trong ruột, ỉa chảy, bệnh lỵ, nôn mửa, thấp khớp, thống
phong, tê liệt, viêm thanh quản, xuất huyết tử cung, ho đột
khởi như bệnh ho gà. Tính chất cay của ớt rất mạnh vì
đem bỏ vào 10.000.000 trọng lượng nước (1g trong 10m3 nước)
vẫn còn cay ! Ăn tươi, nó là một thức ăn kích thích, giúp
tiêu hóa đặc biệt những thức ăn có bột nhưng nó cũng
có khả năng gây sung huyết làm đỏ da. Khi ăn ớt quá cay
thì nên ăn đường, ăn cơm, ăn bánh mì, ăn yoghurt, tốt nhất
là uống sửa, chứ uống nước chẳng ích gì vì capsaicin không
tan hòa trong nước. Bên nước ta, ai mà không biết tương ớt.
Và ở Huế môn bún bò làm sao ngon được nếu không có ớt
cay. Khi vào cơ thể, capsaicin khởi động một cơn đau từ
đấy cho phát xuất chất endorphin (gần giống morphin) gây ra
một cảm giác thoải mái giải thích tại sao có người nghiện
ớt. Cây ớt chế biến capsaicin trong trái để tự bảo vệ,
xua đuổi mọi súc vật, thế mà chim chóc và nhất là con người
lại thèm muốn, nghiện ngập !
Trong
ớt còn có những chất chống oxy hóa như flavonoid (luteolin,
quercetin), alpha-tocopherol (một dạng vitamin E), peridoxin (tức
vitamin B6), vitamin K, những carotenoid là những chất sắc nhuộm
màu trái ớt : những chất capsanthin, capsorubin cống hiến màu
đỏ, chất cucubiten màu vàng. Có nhiều loại ớt chứa đựng
chất anthocyanin nhuộm tím nhưng hiếm. Nên nói thêm là hương
thơm của ớt là từ tinh dầu mà lại. Để sử dụng bên
ngoài, nó được dùng làm thuốc xức chữa ngứa ngáy, chống
những cơn đau thần kinh ngoại biên như đau lưng, thống phong.
Lá ớt nghiền nhuyễn có thể dùng thoa bóp chữa đụng giập,
thấp khớp. Lá ớt nghiền thành bột là một thuốc chống
nhiễu, cho vào thức ăn có khả năng trị dung kim. Ở nước
ta, trong dân gian, lá ớt giả nhỏ được cho đáp vào nơi
bị thương, một hai lần mỗi ngày, thuờng mười lăm ba mươi
phút hết đau, hai ba giờ khỏi hẵn. Tuy nhiên một loại dầu-nhựa
capsaicin có khả năng gây tức thì sưng mắt, nghẹt thở nên
đã được dùng làm bom chống biểu tình. Nạn nhân cảm thấy
mắt, họng, da bị cháy, nghẹn cổ, buồn nôn, chân tay rã
rời, hết còn khả năng phối hợp ! Trong môn y khoa Ấn Độ
cổ truyền, ớt được xem là một chất kích thích vừa hệ
thống tuần hoàn vừa cơ quan tiêu hóa nhưng cũng có khả năng
làm trầm trọng thêm những loại viêm, làm tăng gia nguy cơ
bệnh biến tim mạch và khích động biến loạn óc não ở
những người yếu ớt khi sử dụng quá nhiều.
Ở
làng ớt Espelette, ớt được dùng dưới đủ hình thức. Trước
khi nghiền thành bột , trái ớt phải sấy thật khô trong lò.
Bột được trộn với dấm để tăng gia khẩu vị trứng tráng
hay xà lách. Bột cũng được trộn với dấm và muối thành
một nước chấm lỏng hay với nhiều gia vị thành một lớp
đặc sệt để nêm thịt nướng từng miếng hay xâu trên que
xiên. Khi muốn nấu món ragu đặc biệt gọi là axoa,
họ trộn hành, tỏi, ớt, cho rán trong dầu mười phút, bỏ
vào thịt vai bê (có khi thịt bò) cắt nhỏ, trộn cho đều,
thêm nước rồi cho hầm 45 phút đến một giờ, đừng quên
dở nắp cho nước bay hơi khi sắp xong, sau cùng cho vào khoai
tây cắt nhỏ đã rán cùng một lúc với hành, tỏi, ớt. Để
nấu món cá tuyết than (colin) xào ớt thì cho tẩm bột những
lát cá, thêm vào ít dầu rồi cho vào chảo có sẵn hành, ớt,
cà chua, nấu mười phút, cho thêm những khúc cá, nấu thêm
sáu phút nữa, đem dọn với cơm rang pilaf. Món cá ngừ
(thon) nấu ớt cũng rất đặc biệt vùng basque : cho vào lò
đã nóng khoai tây cắt đều, thêm muối, tiêu, hành đã ngâm
nước nóng ba mươi phút, húng tây, rượu trắng, giữ nóng
nửa tiếng đồng hồ, xong cho vào lò những lát cá đã tẩm
húng tây thái nhỏ và ớt trên lớp khoai tây, giữ nóng hai
mươi phút nữa ; dọn ăn lúc đang còn nóng. Người Basque cũng
thích ăn gà xào ớt : cho rán trong chảo thịt gà với dầu,
xong cho vào cà rôt cắt nhỏ, tỏi tây phần trắng và xanh
mềm, ánh tỏi cắt đôi, hành tăm
cắt
đôi, húng tây, thêm chút nước rồi hầm ba mươi phút, lấy
thịt gà ra cho vào một chảo khác trong ấy đã cho rán hành
tăm, đun nóng năm, bảy phút, cho thêm mù
tạt,
ớt và kem tươi, dùng nóng với cơm basmati. Ở Pháp món
"poulet à la basquaise" rất được ưa chuộng.
Bên
cạnh vô số cách thức chế biến thức ăn có ớt, người
Basque thường thích cho ớt vào những sản phẩm của thịt
heo (thịt lợn) như xúc xích, dồi (boudin), dồi nhỏ (andouillette),
pa tê gan, jambon, mù tạt, ketchup, ngay cả vào những đồ ngọt
như sô cô la, bọt sô cô la, mức, xi rô, vào cả trà, rượu
van, rượu khai vị sangria. Với Espelette, ớt thật là
một gia vị quốc hồn quốc túy của Xứ Basque.
Xô
thành, sau hai lần viếng thăm Espelette 2009-2010
Tài
liệu Phòng du lịch thành phố Espelette
Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển5(82)2010
khoahoc.net
06.01.2011
|